1
QUẢN LÝ DÒNG VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP
NƯỚC NGOÀI QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
TS. Nguyễn Sơn
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
1. Bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế tác động đến TTCK
Năm 2010, kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn do
hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 để lại, mặc dù nền kinh tế Mỹ và
các quốc gia Châu Á đã có sự hồi phục đáng kể thông qua các chỉ số tăng
trưởng kinh tế, chỉ số việc làm và cán cân thương mại. Các chỉ số thị trường
chứng khoán toàn cầu có sự hồi phục nhanh, trong đó phải kể đến mức tăng
trưởng trở lại khá ấn tượng của chỉ số Dow Jones (trên 11.573 điểm) so với
mức suy giảm mạnh (dưới 6.700 điểm) vào thời kỳ suy thoái mạnh trong năm
2009.
Tuy nhiên, vấn đề khủng hoảng nợ Châu Âu do những bất ổn trong
thâm hụt ngân sách và sự yếu kém của hệ thống các ngân hàng ở một số quốc
gia Trung Âu (Hy Lạp; Tây Ban Nha) làm dấy lên lo ngại về cuộc khủng
hoảng kép đã làm cho kinh tế toàn cầu và các thị trường chứng khoán quốc tế
diễn biến phức tạp. Diễn biến thị trường tiền tệ trên thế giới diễn biến phức
tạp vào dịp cuối năm dấy lên sự lo ngại về một “cuộc chiến tranh tiền tệ” khi
đồng USD mất giá khá nhanh và sự lên giá của một số đồng tiền chủ chốt
khác (đồng Yên Nhật và đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc), cũng như biến
động thị trường vàng thế giới đã làm cho thị trường tài chính toàn cầu năm
2010 không thực sự “yên tĩnh”.
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam năm 2010 cũng có nhiều thách
thức khi các gói kích thích kinh tế mà Chính phủ áp dụng trong năm 2009 hết
hiệu lực, các doanh nghiệp phải từng bước tiếp cận với các nguồn vốn theo
quan hệ cung cầu thị trường. Các chính sách ưu đãi từ Chính phủ như hỗ trợ
lãi suất, miễn, giảm, giãn thuế… hết hiệu lực đã đặt ra cho doanh nghiệp
nhiều khó khăn khi mà giá cả nguyên liệu tăng nhanh, lạm phát tăng trưởng
trở lại, lãi suất ngân hàng lên cao vv. Bên cạnh đó, những yếu kém trong
quản lý tài chính của các tập đoàn nhà nước dần bộc lộ mà khởi đầu là việc
“chìm đắm” con tàu Vinashin vốn dĩ được xem là “biểu tượng” của mô hình
tập đoàn nhà nước đa năng của Việt Nam cũng làm dấy lên lo ngại trong cộng
đồng các nhà đầu tư trong nước và quốc tế về sự yếu kém trong quản lý vốn
của nhà nước.
Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm qua cũng cho thấy nhiều yếu tố bất lợi
đối với TTCK, đó là: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng mạnh (11,75% cao hơn
nhiều so với mức 8% Quốc hội đặt ra); lãi suất ngân hàng tăng cao (khoảng
18% năm) gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp; biến động tỷ giá VND so
2
với các đồng tiền chủ chốt khác (USD; JPN); tăng trưởng tín dụng chậm lại
(khoảng 27,6% so với mức tăng trưởng tín dụng năm 2009 là 37%). Nhập
siêu khoảng 12,4 tỷ USD, giảm 5,2% so với năm 2009; thâm hụt cán cân
thanh toán vãng lai của Việt Nam vẫn ở mức cao, khoảng 10% GDP. Nợ công
tiếp tục tăng cao, ở mức 56,6% GDP, trong đó nợ Chính phủ 44,3% GDP. Bội
chi ngân sách 5,8% GDP, vẫn trên ngưỡng an toàn 5% GDP mặc dù có giảm
0,4% so với dự toán.
Thị trường tiền tệ năm 2010 chứng kiến sự biến động liên tục của tỷ
giá, có những thời điểm, tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng rất mạnh trong đó
nguyên nhân chủ yếu do các yếu tố kinh tế vĩ mô. NHNN đã thực hiện 2 lần
điều chỉnh tỷ giá năm 2010, tính chung tỷ giá đã tăng 5,39%. Lãi suất huy
động và cho vay vẫn ở mức rất cao, đặc biệt vào cuối năm có lúc lãi suất huy
động lên đến 18% và lãi suất cho vay là 21%. Nguyên nhân lạm phát cao
11,75% được ước tính là 4,65% do yếu tố tiền tệ và 7,1% do yếu tố khác.
Tuy nhiên, bên cạnh đó một số chỉ tiêu kinh tế vượt mức đề ra, như:
tăng trưởng GDP là 6,78% (mức đặt ra là 6,5%); chỉ tiêu sản xuất công
nghiệp; xuất nhập khẩu tăng mạnh; giải ngân vốn ODA tăng khá vv.
2. Diễn biến của TTCK Việt Nam năm 2010
Diễn biến của TTCK Việt Nam năm 2010 không có nhiều biến động
lớn như năm 2009, chỉ số giá cổ phiếu VN Index ngày 31/12/2010 là 448,66
điểm, giảm 49,11 điểm (khoảng -10%) so với mức chỉ số 497,77 điểm ngày
31/12/2009. Thị trường năm 2010 có thể chia làm 3 giai đoạn: (i) Chỉ số VN
Index đạt đỉnh điểm trong năm ở mức 549,51 điểm ngày 06/05; (ii) Thị trường
suy giảm xuống mức đáy 423,89 điểm ngày 25/8; (iii) Giai đoạn hồi phục vào
cuối năm.
Giai đoạn 1: Thị trường tăng 11,06% so với cuối năm 2009. Đây cũng
là giai đoạn thị trường có mức thanh khoản khá, đặc biệt từ đầu tháng 3 đến
giữa tháng 5. Các yếu tố hỗ trợ cho thị trường giai đoạn này có thể kể đến đó
là: sự lạc quan vào tăng trưởng và lạm phát có chiều hướng giảm; cho phép
thực hiện lãi suất thỏa thuận; Nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
Giai đoạn 2: Thị trường giảm 22,86% trong giai đoạn này, đồng thời
thanh khoản cũng giảm. Các yếu tố tác động giai đoạn này có thể kể đến là: (i)
thị trường chứng khoán thế giới cũng giảm mạnh do lo ngại về khủng hoảng
nợ lan rộng từ các nước Châu Âu; (ii) các vấn đề nợ xấu tại doanh nghiệp nhà
nước ảnh hưởng đến khu vực ngân hàng; (iii) Thông tư số 13/NHNN quy định
về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Giai đoạn 3: Thị trường đã tăng 14,33% giai đoạn này, thanh khoản
kém cho đến cuối tháng 11, nhưng tăng mạnh mẽ trong tháng 12. Trong tháng
11 giá vàng tăng mạnh cùng với tỷ giá tăng đã tác động mạnh đến thị trường,
3
làm cho giá cổ phiếu suy giảm và tính thanh khoản yếu. Tuy nhiên, kể từ đầu
tháng 12, các thông tin hỗ trợ như dòng vốn gián tiếp nước ngoài đổ vào các
thị trường mới nổi, gia hạn việc tăng vốn pháp định của ngân hàng, và đặc biệt
là thông điệp quyết tâm thiết lập kỷ cương thị trường của cơ quan quản lý đã
giúp các nhà đầu tư tin tưởng vào tương lai của thị trường.
Tổng giá trị vốn hóa thị trường của 623 công ty niêm yết trên các
SGDCK là 726.000 tỷ đồng, chiếm 39% GDP năm 2010, tăng khoảng 1,7%
so với mức vốn hóa thị trường năm 2009. Mặc dù mức vốn hóa thị trường có
tăng, nhưng thanh khoản của thị trường thấp hơn năm 2009.
Số lượng các trung gian tài chính không gia tăng, nhưng tổng mức vốn
điều lệ các công ty gia tăng đáng kể. Thị trường hiện có 105 công ty chứng
khoán với tổng vốn điều lệ là 33.300 tỷ đồng, tăng 1,3 lần so với năm 2009;
47 công ty quản lý quỹ, với tổng vốn điều lệ là 2.100 tỷ đồng, quản lý tổng tài
sản trên 100.000 tỷ đồng, trong đó có 23 quỹ đầu tư với tổng vốn điều lệ là
13.300 tỷ đồng.
Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư gia tăng
đáng kể (1,1 triệu tài khoản, tăng 126% so với 793.000 tài khoản năm 2009).
Trong đó, số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài khoảng 15.000 tài khoản
và góp phần đáng kể trong giao dịch dẫn dắt thị trường.
3. Huy động vốn của doanh nghiệp qua TTCK
Năm 2010 là năm diễn biến chỉ số lạm phát tăng nhanh, kéo theo đó lãi
suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại tăng khá cao
(khoảng 17%). Điều đó, khiến cho khu vực doanh nghiệp khó tiếp cận được
nguồn vốn vay ngân hàng. Mặt khác, việc tăng cường kiểm soát về hệ số an
toàn tài chính đối với các ngân hàng thương mại từ NHNN thông qua các
Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN khiến cho hệ
số sử dụng vốn cũng như khả năng cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền
kinh tế cung như khu vực TTCK bị giảm sút đáng kể. Ngoài ra, việc tăng vốn
của các ngân hàng thương mại để đáp ứng yêu mức vốn pháp định là 3.000 tỷ
VND theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP cũng đặt ra cho các doanh nghiệp nói
chung và các ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn thông qua TTCK.
Từ áp lực của việc cắt giảm nguồn hỗ trợ lãi suất ưu đãi trong năm
2009, các doanh nghiệp còn khó khăn hơn khi hệ thống ngân hàng siết chặt
cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng bất động sản và cho vay đầu tư chứng
khoán, kiểm soát và thu hồi các khoản đầu tư tài chính vượt quá giới hạn an
toàn, làm cho tổng mức dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế xuống thấp (khoảng
19%) so với tổng mức dư nợ tín dụng năm 2009 là 37%. Với mục tiêu kiểm
soát tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống là 25%, đồng nghĩa với hạn chế cấp
vốn vay ngân hàng cho nền kinh tế và khu vực doanh nghiệp, điều đó có
nghĩa là các doanh nghiệp phải tự cân đối nguồn vốn thông qua TTCK. Ngoài
ra, với áp lực lãi suất vay quá cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khó
4
đáp ứng mức lợi suất đầu tư cao để cân đối chi phí vốn và lãi kinh doanh, do
vậy huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu để đáp ứng vốn kinh doanh
sẽ là cách làm tốt nhất vì không bị áp lực về lãi suất cao (chỉ trả cổ tức cho cổ
đông nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi).
Với các áp lực tìm kiếm nguồn vốn của doanh nghiệp nói trên, nên có
thể nói rằng mặc dù năm 2010 nền kinh tế có nhiều khó khăn, nhưng việc huy
động vốn của các doanh nghiệp qua TTCK lại có mức tăng trưởng đáng kể.
Tổng mức huy động vốn qua TTCK trong năm 2010 (đấu giá cổ phần hóa;
phát hành tăng vốn; phát hành trái phiếu) khoảng 116.000 tỷ đồng (trong đó
riêng số lượng cổ phiếu phát hành khoảng 33.000 tỷ đồng), tăng gần 3 lần so
với mức huy động của cả năm 2009 là 39.000 đồng và năm 2008 là 29.000 tỷ
đồng (năm 2007, do TTCK tăng trưởng mạnh nên kỷ lục huy động vốn qua
TTCK đạt 127.000 tỷ đồng).
4. Dòng vốn đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam đóng góp phần đáng
kể vào tỷ lệ sở hữu trong các công ty cổ phần Việt Nam và nắm giữ khối
lượng trái phiếu Chính phủ phát hành, góp phần tạo tính thanh khoản trên thị
trường. Nhìn chung, các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài qua TTCK chủ
yếu được đầu tư thông qua các định chế quỹ đầu tư chuyên nghiệp và một số
nhà đầu tư cá nhân. Trong đó, nhiều quỹ đầu tư được lập tại các vùng “thiên
đường thuế” như Cayman; Brirtich Island…đầu tư với cơ chế hưởng lợi từ
các chính sách ưu đãi thuế và năng động trong việc đầu tư, giải ngân vốn, nên
chu chuyển dòng vốn vào ra khỏi Việt Nam khá phức tạp.
Tài khoản nhà đầu tư qua các năm
Năm Cá nhân trong
nước
Tổ chức
trong nước
Cá nhân
nước ngoài
Tổ chức nước
ngoài
Tổng
2007 303.190 800 7.949 200 312.139
2008 517.463 2.003 11.465 497 513.428
2009 807.558 2.662 12.067 627 822.914
2010 1.038 730 3.468 13.035 800 1.056
027
Tỷ trọng sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài sau khủng hoảng
tài chính toàn cầu giảm mạnh, từ 30% cuối năm 2007 đến nay chỉ còn …. %
vào cuối 2010. Do diễn biến thị trường thế giới chung và Việt Nam có nhiều
biến động theo chiều hướng không tốt, nên nhà đầu tư nước ngoài có xu
hướng bán ròng và co cụm danh mục đầu tư. Trong một số thời điểm, nhà đầu
5
tư đẩy mạnh bán ra trái phiếu Chính phủ do lo ngại sự phá giá VND/USD
(cuối năm 2008) hoặc khi thị trường xuống quá sâu, nhà đầu tư có cơ hội cơ
cấu lại danh mục đầu tư của mình.
Tuy nhiên, một số loại cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng hoặc trong
các ngành kinh tế có lợi thế so sánh (khoáng sản; dược; nhựa, …) có tỷ trọng
nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài hết giới hạn cho phép 49% (Nhựa Bình
Minh: Vinamilk; FPT; Imexpharm).
Năm 2010, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài thể hiện lượng mua
ròng qua các tháng, đặc biệt là các tháng vào cuối năm, đưa tổng lượng mua
ròng cả năm khoảng 15.000 tỷ đồng, gấp 5 lần 2009. Mặc dù có nhiều biến
động trong năm, dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh cơ cấu lại danh
mục đầu tư vào các nhóm cổ phiếu lớn trên thị trường, tuy nhiên khác với
những năm trước lượng vốn thường được rút ra khỏi Việt Nam, thì cả năm
2010 tổng mức vốn thuần vào Việt Nam khoảng 1,1 tỷ USD.
Giá trị danh mục đầu tư hiện thời vào cuối năm 2010 của nhà đầu tư
nước ngoài vào khoảng 6,5 tỷ USD, trong đó tỷ trọng cổ phiếu và chứng chỉ
quỹ đầu tư chiếm khoảng 78,2%, trái phiếu khoảng 10% và giá trị số dư tiền
gửi khoảng 5,3%.
Đánh giá chung dòng vốn nước ngoài:
1. Nhìn chung, diễn biến dòng vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2010
không mấy phức tạp, tổng lượng vốn vào ra, kết dư thuần trên 1,1 tỷ USD cho
thấy dòng vốn nước ngoài đang có xu hướng vào TTCK Việt nam. Tuy nhiên,
xét tương quan với dòng vốn vào các quốc gia trong khu vực Đông Á thì dòng
chảy vào Việt Nam khá thấp. Điều đó, cho thấy việc lo ngại từ các chính sách
kinh tế vĩ mô của Việt nam (đặc biệt là chính sách tiền tệ) trong cộng đồng
nhà đầu tư nước ngoài khá lớn. Đặc biệt là trong 2 tháng đầu năm 2011 khi
NHTW thực hiện chính sách phá giá VND so với USD thì lượng tài sản đầu
tư “mất đi” của các quỹ đầu tư ước tính khoảng 324 triệu USD.
Một vấn đề lo ngại khác tác động tới tâm lý nhà đầu tư nước ngoài đó
là yếu tố lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc
tế, trong điều kiện dự trữ ngoại hối mỏng (nếu xem xét trên số tuần nhập khẩu
thì hiện nay quá thấp) gây bất ổn cho khu vực doanh nghiệp (đặc biệt là lĩnh
vực xuất khẩu của VN chiếm tỷ trong khoảng 70% vào tăng trưởng GDP). Vì
vậy, dòng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới sẽ có dấu hiệu chậm lại.
2. Vấn đề khác quan ngại hơn tác động đến dòng chảy vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài có gốc xuất phát từ đầu tư trực tiếp. Việt Nam khá thành công
trong thu hút các dòng vốn FDI trong hơn 20 năm qua và chúng ta đã có
những nới lỏng nhất định về dịch chuyển bản chất các dòng vốn đầu tư nước
ngoài.
Đối với các doanh nghiệp FDI chuyển đổi sang công ty cổ phần (thực
hiện theo Nghị định 38/2003/NĐ-CP của Chính phủ về thí điểm chuyển đổi
6
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang công ty cổ phần) thì sau khi
chuyển đổi bên nước ngoài phải duy trì tỷ lệ nắm giữ tối thiểu 30% vốn điều
lệ trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp FDI
chuyển đổi sang công ty cổ phần thì việc niêm yết cổ phiếu chỉ giới hạn trong
phạm vi phần cổ phiếu chào bán ra công chúng (không niêm yết phần cổ
phiếu nắm giữ của cổ đông sáng lập khi chuyển đổi). Tuy nhiên, khi Chính
phủ ban hành Nghị định 101/2006/NĐ-CP, ngày 21/9/2006 của Chính phủ
quy định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (thay thế cho Nghị định 38/2003/NĐ-CP), thì
không ràng buộc việc nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (ngoại trừ
doanh nghiệp FDI chuyển đổi muốn được tiếp tục hưởng ưu đãi đầu tư thì bên
nước ngoài phải nắm giữ tối thiểu 30% vốn điều lệ). Ngoài ra, tại Quyết định
55/2009/QĐ-TTg có quy định nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối
đa 49% vốn điều lệ của công ty đại chúng. Quyết định 55/2009/QĐ-TTg
không đề cập đến doanh nghiệp FDI chuyển đổi nên khi các doanh nghiệp này
chuyển đổi sang công ty cổ phần thì sẽ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
như bất kỳ một công ty cổ phần nào. Lúc này, việc niêm yết và mua bán
chuyển nhượng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài không có rào cản
nào để kiểm soát và yêu cầu các sáng lập nước ngoài có trách nhiệm lâu dài
với doanh nghiệp họ lập tại Việt Nam.
Trên thực tế, các doanh nghiệp FDI khi chuyển đổi sang công ty cổ
phần thường có tỷ lệ nắm giữ bên nước ngoài khá cao (từ 60-80%), tuy nhiên
khi hết thời hạn ràng buộc 3 năm họ đều có xu hướng bán ra để về ngưỡng
dới 49% theo quy định của pháp luật, điều này không khác gì chúng ta
khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài “thoái vốn” trong các doanh nghiệp mà
ho đã sáng lập và hoạt động trước đây. Trong khi đó, chúng ta thấy doanh
nghiệp FDI có khá nhiều vấn đề trong hạch toán kế toán và huy động vốn trên
TTCK Việt Nam.
Đánh giá khả năng rút vốn nước ngoài và vấn đề quản lý giám sát
Với những biến động của kinh tế vĩ mô trong năm 2011 cho thấy
TTCK Việt Nam năm 2011 sẽ có nhiều khó khăn nhất định. Hiện tại, các định
chế đầu tư chuyên nghiệp (công ty chứng khoán) có dấu hiệu thoái lui thị
trường để chuyển sang các lĩnh vực đầu tư khác có sinh lời cao hơn và ít bị
kiểm soát hơn (bất động sản; xây dựng công trình; khái thác tài nguyên…), do
đó lo ngại về dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài cũng là một vấn đề đặt ra. Tuy
nhiên, chúng ta thấy dòng vốn vào Việt Nam không nhiều và trong bối cảnh
tình hình quốc tế cũng có nhiều biến động, sự hồi phục của kinh tế toàn cầu
và các quốc gia đầu tàu (Mỹ; Nhật; EU) cũng sẽ chậm lại, do đó việc rút vốn
khỏi VN sẽ không lớn. Mặt khác, việc rút vốn khỏi VN cũng không đơn giản,
vì tính thanh khoản của thị trường VN khá thấp, mức giá P/E hiện nay so với
khu vực là rất thấp và nếu để lâu dài cơ hội sinh lời khá cao. Ngoài ra, khoảng
7
2/3 danh mục đầu tư do các quỹ đóng nắm giữ nên sức ép thanh lý sẽ thấp
hơn các quỹ mở. Nên sức ép rút vốn không cao, nếu có chủ yếu là rút từ trái
phiếu Chính phủ (có độ thanh khoản cao) và số dư dòng tiền trên tài khoản
gửi ngân hàng chưa đầu tư. Với dự trữ ngoại hối hiện nay và dòng kiều hối
khá cao thì mức cân đối như vậy có thể chúng ta sẽ kiểm soát được.
Về quản lý dòng vốn đầu tư FII có thể chia làm 2 mảng chính, đó là
quản lý hoạt động đầu tư và quản lý dòng lưu chuyển vốn (quản lý ngoại hối).
Trong đó, việc quản lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài là thuộc
trách nhiệm cuả Bộ Tài chính (UBCKNN) và một phần của Bộ KH-ĐT, trong
khi đó trách nhiệm kiểm soát hoạt động lưu chuyển vốn thuộc trách nhiệm
của NHNN. Hai mảng này, tuy tách biệt song lại bổ sung cho nhau và tạo
thành một cơ chế quản lý thống nhất. Vì vậy vấn đề đặt ra cần xử lý ở đây tập
trung vào một số vấn đề lớn như sau:
- Rà soát và kiểm soát chặt các khoản vay ngoại tệ ngắn hạn. NHNN và
BTC phải thường xuyên đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước ngoài
của Chính phủ, ngân hàng và các doanh nghiêp (kể cả khoản LC trả chậm) và
danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài. Trên cơ sở đó cắn cứ vào mức dự trữ
ngoại tệ quốc tế để có đối sách thích hợp.
- Xử lý linh hoạt vấn đề tỷ giá để tăng khả năng chống đỡ của nền kinh
tế, giảm bớt lợi thế của việc rút vốn nước ngoài và hỗ trợ xuất khẩu;
- Quản lý chặt thị trường giao dịch ngoại tệ tự do, để tránh hiện tượng
đầu cơ dẫn đến xu hướng chính nhà đầu tư trong nước rút tiền chuyển thành
ngoại tệ, gây sức ép lên vấn đề tỷ giá và dự trữ ngoại hối.
- Ngân hàng Nhà nước xem xét nới lỏng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài vào các ngân hàng thương mại cổ phần từ 30% lên mức 35% để
thu hút vốn và giữ vốn đầu tư nước ngoài, việc nói lỏng sở hữu thêm 5% sẽ
tạo điều kiện nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng. Hiện nay chúng
ta đã cho phép thành lập ngân hang 100% vốn nước ngoài, nên việc nới lỏng
thêm 5% cũng không phải là vấn đề lớn.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đối với các tập đoàn,
tổng công ty hoạt động trong các lĩnh vực có nhiều tiềm năng và gắn với niêm
yết trên TTCK để thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh, việc
bán ra cổ phần cho các đối tác chiến lược nước ngoài đối với cổ phần nhà
nước đang nắm giữ chi phối ở một số công ty lớn đã niêm yết trên TTCK như
Tập đoàn Bảo Việt; Vietcomk; Vietinbank vv.
- Các chính sách điều chỉnh hợp lý đối với khu vực đầu tư trực tiếp và
gián tiếp nước ngoài, đối với các doanh nghiệp FDI chuyển đổi sang công ty
cổ phần thì không nên giới hạn tỷ lệ nắm giữ tối đa nước ngoài, mà nên
khuyến khích nước nước ngoài sở hữu lớn và nắm giữ lâu dài.
8
-
Đối với TTCK, nhằm mục tiêu phát triển ổn định, bền vững của
TTCK trong năm 2011 và chuẩn bị các điều kiện cho sự phục hồi và tăng
trưởng trong giai đoạn tiếp theo. Các giải pháp phát triển thị trường chứng
khoán trong năm 2011 tập trung như sau: (i) Hoàn thiện khung pháp lý, thể
chế, chính sách cho thị trường ; Hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ
Chiến lược phát triển thị trường 2011-2020; Đề án quản lý vốn đầu tư gián
tiếp vv; (ii) Tăng cường công tác quản lý, phát triển hàng hóa thị trường: tiếp
tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để gắn công tác cổ phần hóa với
chào bán chứng khoán ra công chúng và đưa vào giao dịch trên thị trường có
tổ chức; tăng cường giám sát, kiểm tra, quản lý chặt chẽ việc chào bán chứng
khoán ra công chúng và việc sử dụng vốn huy động của các tổ chức phát
hành; (iii) Thực hiện công tác quản lý, phát triển các định chế trung gian hoạt
động trên thị trường, triển khai việc thực hiện các tiêu chí an toàn tài chính
trong các công ty chứng khoán, cơ chế xử lý rủi ro trong các tổ chức kinh
doanh chứng khoán; tăng cường công tác quản lý, giám sát các định chế trung
gian, văn phòng đại diện nước ngoài; (iv) Từng bước triển khai tái cấu trúc
bước một thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua việc tăng tiêu chuẩn
niêm yết và phân định các thị trường niêm yết dựa trên quy mô vốn hóa, tính
đại chúng của công ty (thiết lập các Bảng giao dịch trên từng SGDCK); thị
trường giao dịch cổ phiếu đại chúng chưa niêm yết (Upcom); thị trường trái
phiếu Chính phủ chuyên biệt; (vi) Tăng cường quản lý, giám sát hoạt động thị
trường, xây dựng quy trình thanh tra về công bố thông tin của các tổ chức
tham gia TTCK; thực hiện công tác kiểm tra định kỳ và bất thường đối với
SGDCK, TTLKCK và các thành viên thị trường; tăng cường phân cấp, ủy
quyền công tác giám sát, kiểm tra thanh viên đối với SGDCK và TTLKCK./.