Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

ĐỀ TÀI " Từ mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư công đến sự tích lũy rủi ro kinh tế vĩ mô ở Việt Nam " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.64 KB, 29 trang )

1

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Từ mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư công
đến sự tích lũy rủi ro kinh tế vĩ mô ở Việt Nam


TS. Nguyễn Đức Thành
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Email:


Tóm tắt
Bài viết này cho rằng trong những năm gần đây tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam phụ thuộc nhiều vào sư mở rộng đầu tư, trong đó đầu tư công và đầu tư
qua các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò căn bản. Do hiệu quả đầu tư có
khuynh hướng giảm, tỷ trọng đầu tư công có khuynh hướng tăng. Đây là
nguyên nhân khiến khoảng cách tiết kiệm-
đầu tư của nền kinh tế ngày càng
mở rộng, mà cốt lõi là khoảng cách tiết kiệm – đầu tư trong khu vực công
(thâm hụt ngân sách). Điều này tất yếu đi liền với thâm hụt cán cân vãng lai,
dẫn tới hiện tượng “thâm hụt kép” kinh niên. Những mất cân đối đó khiến nền
kinh tế trở nên dễ tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, mà khu vực ngân
hàng thương mại phải chịu sức ép l
ớn nhất, dẫn tới nguy cơ trực tiếp là các
cuộc khủng hoảng tiền tệ. Kết quả là, Việt Nam đang dần lún sâu vào quỹ đạo
điển hình của một nền kinh tế hàm chứa rủi ro khủng hoảng ngân hàng đi liền
với rủi ro khủng hoảng tiền tệ (khủng hoảng đôi). Rủi ro về khủng hoảng nợ là


chưa rõ ràng, nhưng có thể sẽ di
ễn biến rất nhanh khi hệ thống ngân hàng và
tài chính lâm vào khủng hoảng, buộc Chính phủ phải đứng ra giải cứu trong
khi nguồn thu suy giảm, khiến ngân sách bị cạn kiệt nhanh trong một thời gian
ngắn. Những rủi ro này đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng một lộ trình rõ ràng
bao gồm nhiều giai đoạn nhằm tái lập những cân đối cơ bản trong nền kinh tế,
mà tâm điểm ưu tiên là cân đối tài khóa và cải cách h
ệ thống tài chính, và cần
một sự thận trọng trong lộ trình hướng tới tự do hóa tài khoản vốn.

Từ khóa: đầu tư công, rủi ro kinh tế vĩ mô, tính bất ổn của hệ thống tài chính,
mất cân đối vĩ mô, khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng
nợ, Việt Nam.


2

Mục lục

Giới thiệu 3
1. Một số đặc điểm kinh tế vĩ mô của Việt Nam 4
1.1. Tăng trưởng kinh tế và bất ổn vĩ mô 4
1.2. Ngân sách nhà nước 5
1.3. Thương mại quốc tế và tỷ giá 6
2. Những mất cân đối chính của nền kinh tế 9
2.1. Mất cân đối Tiết kiệm - đầu tư 10
2.2. Thâm hụt ngân sách 13
2.3. Thâm hụt thương mại 14
3. Những vấn đề của hệ thống tài chính 18
3.1. Sự phát triển của hệ thống tài chính 18

3.2. Tín dụng cho hệ thống doanh nghiệp 20
4. Phòng ngừa những rủi ro tiềm tàng của nền kinh tế 22
4.1. Nguồn gốc rủi ro 22
4.2. Nhận định rủi ro 25
4.3. Giải pháp 27




3
Giới thiệu
Việt Nam bước vào thập niên 2011-2020 với những đặc điểm quan trọng: di sản từ cuộc cải
cách hai thập kỷ, gắn liền với những xáo trộn to lớn của nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng
khoảng tài chính-kinh tế toàn cầu. Điều này hàm ý rằng nền kinh tế Việt Nam đang đứng
trước một giai đoạn mà sự thay đổi từ bên trong vừa đỏi hỏ
i một sự biến đổi mới về chất,
đồng thời lại phải diễn ra trong một môi trường quốc tế cũng đang thay đổi quyết liệt. Vì vậy,
tư duy lại mô hình tăng trưởng có ý nghĩa bản lề trong con đường phát triển của Việt Nam.
Nhằm góp phần vào mục tiêu trên, bài nghiên cứu này hướng tới định dạng một điểm yếu căn
bản của nề
n kinh tế vĩ mô Việt Nam trong bối cảnh mới của nền kinh tế toàn cầu là mô hình
tăng trưởng còn phụ thuộc nặng nề vào đầu tư công, trên cơ sở đó phân tích những rủi ro liên
quan đến kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính mà Việt Nam phải đối mặt. Bài nghiên cứu bước
đầu đề xuất các giải pháp để giảm thiểu những rủi ro này, với mục tiêu góp phần hướng đến
sự
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế trong dài hạn.
Giả thuyết chính được đề xuất trong bài nghiên cứu này là nguồn gốc của rủi ro vĩ mô và tài
chính trong một nước như Việt Nam (với ba đặc tính chủ yếu là: đang phát triển, đang chuyển
đổi và độ mở cao) có thể xuất phát từ hai nguồn chính: bên trong và bên ngoài nền kinh tế.
Đối với những nguồn gốc bên trong, sự bất ổn tài chính và kinh tế v

ĩ mô chủ yếu xuất phát từ
mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay phụ thuộc nhiều vào sự mở rộng đồng tư, mà đầu tư
công đóng vai trò nền tảng. Sự mở rộng đầu tư nhằm tạo ra tăng trưởng trong một nền kinh tế
mà hiệu suất biên của vốn có khuynh hướng giảm (thể hiện qua chỉ số ICOR tăng) khiến quy
mô đầu tư trong thành phầ
n tổng cầu phải tăng liên tục, do đó tích tụ những mất cân đối vĩ
mô, và cốt lõi là mất cân bằng tiết kiệm-đầu tư. Với vai trò làm nền tảng của khu vực doanh
nghiệp nhà nước, đầu tư công và đầu tư thông qua các doanh nghiệp nhà nước tạo nên
khuynh hướng các doanh nghiệp này đi vào quỹ đạo vay mượn quá mức, tạo sức ép lên hệ
thống ngân hàng tài chính. Hiệu ứng lấn át xuất hiện rõ ràng và lãi su
ất bị kìm giữ ở mức cao,
khiến khu vực tư nhân phát triển chậm hơn mức tiềm năng. Thêm vào đó, sự mất cân đối tiết
kiệm – đầu tư tạo nên thâm hụt kép, và do đó giảm dư địa chính sách vĩ mô, dẫn tới sự lúng
túng và bất nhất trong thiết kế và điều hành (kết hợp) chính sách vĩ mô. Đối với những nguồn
gốc từ bên ngoài, sự thă
ng trầm không dự báo được của dòng vốn ra và vào đi liền với những
cú sốc từ kinh tế thế giới và khu vực như thay đổi về lãi suất, giá trị các đồng tiền mạnh,
v.v… có thể là nguyên nhân làm suy yếu hoặc kích hoạt sự rối loạn từ bên trong nếu không
có chính sách điều hành vĩ mô phù hợp. Hai nguồn rủi ro này có quan hệ mật thiết với nhau
4
và có thể tự gây nên những chuỗi phản ứng tự tái tạo và tích lũy rủi ro lên tổng thể nền kinh
tế.
1. Một số đặc điểm kinh tế vĩ mô của Việt Nam
1.1. Tăng trưởng kinh tế và bất ổn vĩ mô
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Việt Nam chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng kinh
tế có tốc độ chững lại so với thập niên trước đó. Vào cuối thập niên 1990, đà tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam chậm lại vì những dấu hiệu do dự trong tiến trình cải cách kinh tế xuất hiện
từ năm 1996, đồng thời đi liền vớ
i những ảnh hưởng lan truyền tiêu cực từ cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á 1997. Hậu quả của tình trạng này là nền kinh tế trải qua một giai đoạn suy

giảm tốc độ tăng trưởng đi liền với hiện tượng giảm phát trong những năm 1999-2001 (xem
Hình 1).
Hình 2. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1995-2009
-5
0
5
10
15
20
25
19
9
5
19
9
6
19
9
7
19
9
8
19
9
9
20
0
0
20
0

1
20
0
2
2
003
2
004
2
005
2006
2007
2008
2009
Năm
%
Tăng trưởng GDP Lạm phát

Nguồn: tác giả tổng hợp từ GSO (2010)
Trước tình hình đó, một kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở rộng
đầu tư nhà nước bắt đầu được thực hiện từ năm 2000. Việc duy trì chính sách kích thích
tương đối liên tục trong những năm sau đó, một mặt giúp nền kinh tế lấy lại phần nào đà tăng
trưởng, nhưng mặt khác đã tích tụ những mầm mống gây ra lạm phát cao bắt đầu bộc l
ộ từ
5
giữa năm 2007. Thêm vào đó, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng
11/2006 mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức độ giao lưu thương
mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp) tăng
mạnh. Nhu cầu ổn định đồng tiền Việt đ
òi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải trung hòa một lượng

ngoại tệ rất lớn, góp phần thổi bùng lạm phát trong năm 2008. Nhìn chung, việc kiểm soát vĩ
mô trong giai đoạn này tỏ ra lúng túng. Cộng với những tác động to lớn của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, trong hai năm 2008-2009, nền kinh tế phải hứng chịu thời kỳ tăng
trưởng kinh tế ở mức thấp đi liền với l
ạm phát cao.
1.2. Ngân sách nhà nước
Đặc điểm căn bản của ngân sách nhà nước là sự thâm hụt triền miên ở mức cao. Đồng thời,
nợ công có khuynh hướng tăng liên tục trong 10 năm qua.
Hình 2 cho thấy tổng thu ngân sách (tính theo tỷ trọng GDP) tăng liên tục và vững chắc từ
mức khoảng 21% GDP vào năm 2000 lên tới gần 28% GDP vào năm 2007. Tuy nhiên, chi
ngân sách cũng tăng nhanh với tốc độ tương tự, khiến tình trạng thâm hụt luôn dai dẳng ở
mức 5% GDP. Năm 2009 có thâm h
ụt đặc biệt cao vì đây là năm thực hiện gói kích thích
kinh tế lớn để chống suy thoái kinh tế.
Hình 2. Thu-chi và thâm hụt ngân sách, 2000-2009
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
25
30
35
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
% GDP
Tổng thu Tổng chi NS Thâm hụt ngân sách


Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)
Tính theo tỷ trọng GDP, nợ công (gồm nợ của chính phủ và do chính phủ bảo lãnh) có
khuynh hướng tăng dần trong thập kỷ vừa qua, từ mức dưới 40% GDP theo hướng xấp xỉ
6
50% GDP vào năm 2010. Trong khi đó, nợ nước ngoài có khuynh hướng được kiềm chế khá
ổn định ở mức dưới 35% cho tới trước khi có khủng hoảng kinh tế thế giới, sau đó tăng rất
mạnh trong một thời gian ngắn (Hình 3, số liệu 2010 sẽ được bổ sung sau).
Hình 3. Nợ công và nợ nước ngoài, 2002-2009
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
% GDP
Nợ công Nợ nước ngoài

Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)

1.3. Thương mại quốc tế và tỷ giá
Thương mại quốc tế là một lĩnh vực đặc biệt phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, với những hiệp định

thương mại tự do song phương được ký kết, đồng thời tham gia vào các tổ chức đa biên,
trong đó phải kể tới việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giớ
i.
Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng việc hội nhập sâu vừa mang lại cho Việt Nam nhiều cơ
hội, đồng thời cũng buộc đất nước phải đối diện với nhiều thách thức mới. Đặc điểm đáng
lưu ý là kể từ năm 2002, cán cân vãng lai trở lại tình trạng thâm hụt mà nguyên nhân chủ yếu
bắt nguồn từ thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, dòng kiều h
ối chảy về trong nước bắt đầu gia
tăng đã giúp cân đối phần nào cán cân vãng lai. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn các dòng
vốn chảy vào Việt Nam tương đối vững chắc, giúp tạo thặng dư trong cán cân vốn, khiến cán
cân tổng thể đạt thặng dư. Kết quả là dự trữ ngoại hối của đất nước liên tục được cải thiện
7
(Hình 4). Điển hình là năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, thâm hụt vãng lai
tăng vọt, đồng thời thặng dư tài khoản vốn còn tăng nhanh hơn như vậy. Tuy nhiên, khi dòng
vốn có dấu hiệu chững lại khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra vào năm 2008, thì
thâm hụt vãng lai lại không có khuynh hướng thu hẹp. Kết quả là, Việt Nam buộc phải giảm
mạnh dự trữ ngoại hối
để bù đắp cho phần ngoại tệ bị thiếu hụt.

Hình 4. Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối, 2000-2009
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Thâm hụt vãng lai (% GDP) Dự trữ ngoại hối (tháng nhập khẩu)

Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)

Thâm hụt vãng lai liên tục, đi cùng với mức lạm phát cao trong nước, khiến tỷ giá trở thành
một vấn đề lớn. Nếu nhìn lại tỷ giá của VND so với USD trong cả thập kỷ qua có thể thấy
mặc dù tỷ giá danh nghĩa có xu hướng tăng lên rõ rệt, đặc biệt là từ năm 2007, nhưng tỷ giá
thực tế lại diễn biến theo chiều ngược lại, và khoảng cách giữa hai tỷ giá ngày càng mở r
ộng,
đặc biệt là hai năm 2008 và 2009. So với năm 2000, chỉ số CPI (đại diện cho mức độ lạm
phát trong nền kinh tế) của Việt Nam trong năm 2009 đã tăng tới xấp xỉ 99,5%, trong khi của
Mỹ chỉ tăng 23,7%, mà tỷ giá danh nghĩa đồng Việt Nam chỉ tăng khoảng 23,6%. Như vậy,
nếu lấy năm 2000 làm gốc thì đồng Việt Nam đã lên giá thực tế xấp xỉ 38%. Điều này h
ẳn đã
góp phần khiến thâm hụt thương mại của Việt Nam trở nên trầm trọng từ sau năm 2003.
8
Hình 5. Tỷ giá thực tế và tỷ giá danh nghĩa VND/USD, 2000-2009
(năm 2000 là năm gốc)
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
18.000
20.000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
nghìn đồng

m

Tỷ giá danh nghĩa
Tỷ giá thực tế


Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng và các cộng sự. (2010)

Có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế vĩ mô của Việt Nam như sau:
- Tăng trưởng đạt mức cao so với khu vực, nhưng đang có khuynh hướng chậm lại; đồng
thời, tăng trưởng vẫn lệ thuộc nhiều vào mở rộng đầu tư.
- Nền kinh tế ngày càng trở nên bất ổn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới (lạm phát
dao động mạ
nh hơn);
- Ngân sách thâm hụt triền miên, đi liền với thâm hụt thương mại (thâm hụt kép);
- Ngay cả khi được hỗ trợ bởi một dòng kiều hối lớn, cán cân vãng lai vẫn thâm hụt. Cán cân
tổng thể được hỗ trợ bởi mức thặng dư cao từ cán cân vốn. Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng của
điều kiện quốc tế, các dòng vốn đang dần có khuynh hướng kém ổn định hơn, dẫn tới khả
năng cán cân tổng thể có những dao động lớn, chuyển từ thặng dư sang thâm hụt.
- Chính sách tỷ giá neo một cách linh hoạt (crawling peg) vào đồng USD, nhưng có khuynh
hướng đánh giá cao đồng nội tệ.
Những nhận xét nêu trên chỉ là bức tranh bên ngoài của nền kinh tế, để có thể hiểu rõ hơn
những đặc điểm cần, cần đi sâu xem xét những mất cân đối lớn của nền kinh tế
và nguyên
nhân của hiện tượng này.
9
2. Những mất cân đối chính của nền kinh tế
Những đặc điểm kinh tế vĩ mô được nêu lên trong phân trước cho thấy có những mất cân đối
vĩ mô dai dẳng trong nền kinh tế Việt Nam, và do đó dẫn tới tính bất ổn trong các biến vĩ mô
quan trọng nhất. Lý thuyết cơ bản trong kinh tế vĩ mô cho phép chúng ta phân tích mối liên
kết giữa các cân đối lớn trong nền kinh tế trong một khuôn khổ tương đối đơn giản.
Xuất phát từ phương trình cần b

ằng tổng cầu trong nền kinh tế:
Y = C + I + (X-M) (1)
Trong đó Y là tổng sản lượng quốc nội, C là tiêu dùng cuối cùng, I là tổng đầu tư, và (X-M)
là xuất khẩu ròng.
Nếu cộng thêm thu nhập ròng từ nước ngoài (gồm thu nhập nhân tố và chuyển giao), thì có
thể viết lại phương trình trên:
YD = C + I + CAB (2)
Trong đó, YD là thu nhập khả dụng, và CAB là chênh lệch cán cân vãng lai.
Vì tổng tiết kiệm của nền kinh tế S = YD-C, nên ta có thể biế
n đổi phương trình trên thành
dạng đơn giản như sau:
S-I = CAB (3)
Phương trình này mô tả một mối lien hệ căn bản trong nền kinh tế mở, là chênh lệch cán cân
vãng lai bắt nguồn từ chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế.
Chúng ta có thể tiếp tục phân tách đầu tư và tiết kiệm theo khu vực công và khu vực tư nhân:
(Sp + Sg) – (Ip + Ig) = CAB (4)
Tiếp tục biến đổi, ta có:
(Sp - Ip) + (Sg – Ig) = CAB (5)
Phương trình (5) cho thấy m
ối quan hệ trong các khu vực của nền kinh tế: thâm hụt vãng lai
bằng tổng của thâm hụt tiết kiệm-đầu tư trong khu vực tư và khu vực công.
Cho đến nay, việc tính toán và công bố các chỉ tiêu tổng tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế
ở Việt Nam có sự khác nhau giữa các nghiên cứu. Nếu sử dụng số liệu của IMF, thì các cân
đối này được thể hiện qua các năm như trong Bảng 1 dưới đây.

10
Bảng 1. Chênh lệch tiết kiệm – đầu tư (% GDP), 2002-2009
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tổng tiết kiệm (S) 31,3 30,6 32 34,5 36,5 31,8 31,2 25,1
Tư nhân (Sp) 23,9 23,3 23,6 26,7 28,1 26,2 26,1 23

Nhà nước (Sg) 7,4 7,3 8,4 7,8 8,4 5,6 5,1 2,1
Tổng đầu tư (I) 33,2 35,4 35,5 35,6 36,8 41,6 41,5 33,2
Tư nhân (Ip) 21,5 20,8 22,9 24,1 26,4 30,3 32,2 24
Nhà nước (Ig) 11,7 14,7 12,6 11,5 10,4 11,4 9,3 9,2
Chênh lệch Sp-Ip 2,4 2,5 0,7 2,6 1,7 -4,1 -6,1 -1
Chênh lệch Sg-Ig -4,3 -7,4 -4,2 -3,7 -2 -5,8 -4,2 -7,1
Thâm hụt vãng lai -1,9 -4,8 - 3,5 -1,1 -0,3 -9,8 -10,3 -8,1
Nguồn: IMF (2006, 2009)
Số liệu trong Bảng 1 cho thấy cho đến năm 2006, thì khu vực tư (doanh nghiệp và hộ gia
đình) luôn có thặng dư tiết kiệm ròng, trong khi khu vực công luôn có thâm hụt tiết kiệm
ròng. Có thể coi thâm hụt tiết kiệm ròng của khu vực công gần giống như thâm hụt ngân sách
của chính phủ, vì ở đây có sự đầu tư quá mức của khu vực nhà nước so với khả năng tự chi
trả cho các khoản đầu tư này. Nhìn chung, trong giai đ
oạn này, thâm hụt ngân sách chủ yếu
được tài trợ thông qua thặng dư tiết kiệm của khu vực tư, nên thâm hụt vãng lai không quá
lớn. Tuy nhiên, từ năm 2007, cả hai khu vực cùng trở nên thâm hụt ở mức cao, khiến thâm
hụt vãng lai đột ngột tăng lên đến mức dao động quanh 10% GDP.
Như vậy, bản chất của thâm hụt vãng lai (và thâm hụt thương mại) bắt nguồn từ cấu trúc của
nền kinh tế, trong đó c
ốt lõi là sự mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư. Trong trường hợp này,
đầu tư nhà nước có vai trò chính trong việc tạo ra sự mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Để phân tích bức tranh chi tiết hơn, những phân sau đây lần lượt đi vào những mất cân đối
chính trong mô hình nêu trên.
2.1. Mất cân đối Tiết kiệm - đầu tư
Trước hết, cần phân tích sự mất cân đối cốt lõi của nền kinh tế là chênh lệch ngày càng lớn
giữa đầu tư và tiết kiệm. Hình 6 cho thấy các thành phần kinh tế đóng góp vào tổng đầu tư
toàn xã hội như thế nào.







11
Hình 6. Tỷ trọng các thành phần kinh tế trong tổng đầu tư toàn xã hội, 2005-2009
47.1%
45.7%
37.2%
33.9%
40.6%
38.0%
38.1%
38.5%
35.2%
33.9%
14.9%
16.2%
24.3%
30.9%
25.5%
0%
25%
50%
75%
100%
2005 2006 2007 2008 2009
Khu vực Nhà nước Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Nguồn: GSO (2010).
Khu vực nhà nước có tỷ trọng giảm đi nhanh chóng, nhưng vẫn giữa một tỷ trọng chủ chốt

trong tổng đầu tư. Cho tới năm 2008, tỷ trọng này giảm dần xuống gần 34%. Tuy nhiên, do
điều kiện khủng hoảng, Chính phủ đã phải thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp rất nhiều. Điều này
khiến khu vực nhà nước lại hồi sinh trở lại, và quá trình c
ải cách DNNN dường như đi ngược
lại khuynh hướng đã thiết lập trước đó. Đồng thời, việc gia nhập WTO khiến đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng lên nhanh chóng, phản ánh sự lạc quan vào tương lai kinh tế Việt Nam của
các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như những thuận lợi cho giao thương quốc tế khi gia nhập tổ
chức lớn nhất toàn cầu này. Kết quả
là , tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư
đã giảm đi chút ít.
Bảng 2. Đầu tư xã hội trên GDP, 2005-2009
Đơn vị tính: %

2005 2006 2007 2008 2009
QI QII QIII QIV
TỔNG SỐ 40,9 41,5 46,5 41,5 37,4 44,1 41,8 42,7
Khu vực Nhà nước 19,3 19,0 17,3 14,1 18,4 19,3 15,1 17,3
Khu vực ngoài Nhà
nước
15,5 15,8 17,9 14,6 12,7 15,0 16,4 14,5
Khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp
nước ngoài
6,1 6,7 11,3 12,8 6,2 9,7 10,3 10,9
Nguồn: Phạm Văn Hà (2010).
12
Ảnh hưởng kích cầu của chính phủ thể hiện rõ khi vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách
nhà nước đã tăng gấp rưỡi so với năm 2008 (tăng thêm hơn 50 nghìn tỷ đồng – Hình 7). Vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tăng liên tục từ Quý I và đến cuối năm đã lên tới 9,3% GDP,
con số kỷ lục trong giai đoạn 2005-2009. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ở

cả trung ương
và địa phương đều tăng, trong đó vốn đầu tư ở Trung ương tăng khá mạnh, chứng tỏ vốn đầu
tư đã và đang rót vào các công trình với quy mô lớn.
Hình 7. Đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN, 2005-2009
Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng
63
64
97
101
154
0
32
64
96
128
160
2005 2006 2007 2008 2009

Nguồn: Phạm Văn Hà (2010).

Năm 2009, vốn FDI tuy có giảm so với năm 2008, nhưng nếu nhìn thực chất thì sự sụt giảm
này không hoàn toàn do khủng hoảng. Năm 2008, do những kỳ vọng lớn từ việc Việt Nam
gia nhập WTO, vốn cam kết từ các dự án mới và vốn tăng thêm cho các dự án hiện có đã
nhảy vọt lên mức 64 tỷ USD. Tuy nhiên, đây là một sự đột biến lớn và không thể dùng để so
sánh với những nă
m còn lại trong giai đoạn 2005-2009. Thực tế, vốn FDI thu hút năm 2009
là 21,5 tỷ USD cũng không hề thấp so với giai đoạn 2005-2007 (mặc dù tốc độ có giảm).
Quan trọng nhất là vốn thực hiện vẫn đạt khoảng 10 tỷ USD, thấp hơn năm 2008 nhưng vẫn
thuộc loại cao trong cả giai đoạn 2005-2009 (Xem Hình 8).
Hình 8. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, 2005-2009

Đơn vị tính: tỷ USD
13
6,8
12,0
21,3 21,5
3,3
4,1
8,0
11,6
10,0
64,0
0
7
14
21
28
35
42
49
56
63
70
2005 2006 2007 2008 2009
Vốn đăng ký và cấp mới Vốn thực hiện

Nguồn: Phạm Văn Hà (2010).
Như vậy, có thể nói, chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm bị mở rộng ra rất nhanh trong những
năm gần đây chủ yếu bắt nguồn từ lượng đầu tư tăng lên đột ngột, trong khi tỷ lệ tiết kiệm
trong nước hầu như không thay đổi. Trong thâm hụt tiết kiệm của toàn xã hội, thì thâm hụt
ngân sách lại đóng một vai trò xuyên suốt. Vì vậy, trong phần sau chúng ta đ

i sau vào phân
tích nguyên nhân của mức thâm hụt ngân sách cao hiện nay.
2.2. Thâm hụt ngân sách
Có vẻ như thâm hụt ngân sách mới chỉ là một vấn đề mới được đưa ra gần đây, khi vào đầu
năm 2009, nhiều người lo sợ chính sách kích cầu để chống đỡ khủng hoảng kinh tế đi liền với
việc suy giảm các nguồn thu cũng bắt nguồn từ khó khăn kinh tế sẽ đẩy thâm hụt lên mức rất
cao (từ 7% đến 10%). Tuy nhiên, thực tế đây là một vấ
n đề đáng lo ngại trong trung và dài
hạn vì bội chi ngân sách của Việt Nam thực ra đã luôn ở mức 5% GDP trong những năm gần
đây (Hình 9). Riêng năm 2009, theo công bố chính thức, bội chi ngân sách ước tính bằng
6,9% GDP.
Hình 9. Tỷ trọng đầu tư NSNN trên GDP, 2005-2009
Đơn vị tính: %
14

Nguồn: Báo cáo Kinh tế - Xã hội hàng tháng, GSO (2009) (Trích lại theo Phạm Văn Hà, 2010).

Để giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách, nhà nước sẽ phải tăng thuế hoặc vay nợ thông qua
phát hành trái phiếu. Cả hai hành động này đều ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Một trong những vấn đề quan trọng của thâm hụt ngân sách, là gánh nặng chi tiêu và đầu tư
từ ngân sách nhà nước cho khối doanh nghiệp quốc doanh. Đây là khu vực có hiệu quả sử
dụng vốn rất thấp,
đồng thời tiềm chứa nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Trong một
số ngành độc quyền có đặc quyền đặc lợi, thì có thể không xảy ra hiện tượng thua lỗ, nhưng
chi phí cơ hội của đồng vốn bỏ ra không cao như trong khu vực tư nhân. Từ đó dẫn đến việc
giá trị các khoản đầu tư phải tăng lên cao hơn so với mức bình quân của xã hội, nên càng
đóng góp vào việc làm t
ăng khoản chênh lệch tiết kiệm – đầu tư trong nền kinh tế.
Thêm vào đó, do cấu trúc của nền sản xuất Việt Nam, đầu tư chủ yếu đi liền với hoạt động
mua sắm thiết bị và nguyên vật liệu thông qua nhập khẩu, vì thế, đây là kênh trực tiếp tạo ra

mất cân bằng trong cán cân thương mại.
2.3. Thâm hụt thương mại
Nhìn vào Hình 10, chúng ta có thể thấy một số khuynh hướng tương đối rõ ràng của nền kinh
tế Việt Nam trong quá trình hội nhập. Thứ nhất, cả xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam
(tính theo tỷ trọng GDP) đều tăng liên tục. Kết quả là, độ mở của nền kinh tế, được định
nghĩa bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP (đường trên cùng) tăng lên rất nhanh.
4,6
4,7
4,5
4,2
4,7
4,8
5,5
2,9
1,8
2,9
2,3
2,3
2,2
3,5
3,9
5,6
7,5
6,6
8,5
6,8
6,5
6,9
8,3
9,3

0
2
4
6
8
10
2005 2006 2007 2008
2009QI 2009QII 2009QIII 2009QIV
0
2
4
6
8
10
%GDP
Trung ương Địa phương Tổng số
15
Nếu vào năm 1999, độ mở của nền kinh tế chỉ khoảng 80% (với xuất và nhập khẩu tương đối
cân bằng, cùng có giá trị khoảng 40% GDP), thì sau một thập kỷ, độ mở của nền kinh tế đã
tăng gần như tuyến tính và vượt quá 160%, với nhập khẩu lên hơn 90% GDP, và xuất khẩu
chiếm gần 75% GDP). Năm 2009 là một năm suy giảm của thương mai quốc tế, khiế
n tất cả
các chỉ tiêu nêu trên đều giảm. Nhưng có thể thấy rằng khuynh hướng độ mở tăng là tương
đối vững chắc, và sẽ được tái lập trong tương lai.
Thứ hai, mặc dù cả xuất khẩu và nhập khẩu cùng tăng, nhưng nhập khẩu có khuynh hướng
tăng nhanh hơn xuất khẩu. Kết quả là, xuất khẩu ròng kể từ năm 1999 luôn âm và có khuynh
hướng tăng. Đây chính là hiện t
ượng thâm hụt thương mại hay nhập siêu.
Hình 10. Độ mở và mức độ nhập siêu của Việt Nam, 1999-2009
-50.00

0.00
50.00
100.00
150.00
200.00
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
Phần trăm GDP
Độ mở của nền kinh tế
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu ròng

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của GSO (2010)
Hinh 11 cho thấy cấu trúc các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam. Có thể thấy ba chủng loại
hàng hóa chiếm khoảng 3/4 tổng nhập khẩu chủ yếu dùng để phục vụ sản xuất. Đó là hàng tư
bản (máy móc, thiết bị), nguyên liệu sản xuất (ví dụ phân bón, hạt nhựa, v.v…) và nhiên liệu
(chủ yếu là xăng dầu). Phần còn lại được coi là hàng hóa khác, đa phần được xếp vào các mặt
hàng tiêu dùng cuố
i cùng.

Hình 11. Cấu trúc nhập khẩu của Việt Nam, 2007-2009
16
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%

70%
80%
90%
100%
2007 2008 2009
Năm
Phần trăm
Hàng hoá khác
Nguyên liệu sản xuất
Nhiên liệu
Hàng tư bản

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của GSO (2010)
Một khía cạnh quan trọng khác liên quan đến vấn đề thâm hụt thương mại là cơ chế tỷ giá của
Việt Nam hiện nay. Để so sánh biến động tương đối của VND so với các đồng tiền khác,
Bảng 3 cho thấy chỉ số tỷ giá thực của các đồng tiền khác nhau so với USD. Số liệu cho thấy,
ngoại trừ so với đồng Yên Nhật và đồng đô la Đài Loan, đồng USD cũng đã mấ
t giá khá
nhiều so với đồng tiền của các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Nhưng mặc dù cùng lên
giá theo chiều hướng chung, đồng Việt Nam vẫn lên giá nhiều hơn so với các đồng Đô-la
Singapore, Won Triều Tiên, Ringgit Malaysia và Baht Thái. Sự lên giá thực của đồng Việt
Nam làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế
giới.
Bảng 3. Chỉ số tỷ giá thực c
ủa các đồng tiền so với đô la Mỹ
(năm 2000 là năm gốc)
Đơn vị tính: %

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Nhân dân tệ 100,00 101,67 104,95 104,11 104,07 103,85 100,64 91,90 84,30 84,87

Euro 100,00 105,12 88,56 73,50 68,70 80,51 72,30 65,32 68,45 66,56
Yên Nhật 100,00 118,75 111,19 101,61 101,73 120,05 123,32 122,18 97,60 102,48
Đô la Singapore 100,00 109,50 104,95 103,97 101,74 106,15 99,16 93,35 89,11 89,30
Đô la Đài Loan 100,00 109,64 111,24 110,66 105,35 110,18 110,61 111,18 108,92 107,96
Đô la Úc 100,00 108,49 96,87 72,80 70,50 75,53 69,31 62,90 84,35 65,14
Won Triều Tiên 100,00 103,03 92,01 90,71 78,54 77,67 71,34 72,34 93,80 85,95
Baht Thái 100,00 105,00 103,27 95,10 93,96 96,88 84,86 79,26 82,63 77,91
Ringgit
Malaysia
100,00 100,36 101,36 102,10 103,11 103,05 95,43 91,04 92,13 91,39
Việt Nam Đồng 100,00 104,57 105,24 105,68 100,13 96,29 93,02 85,84 76,40 76,63
17
Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng và nhóm tác giả. (2010)
Để có thể hình dung mức độ lên giá của đồng Việt Nam, Hằng và nhóm tác giả (2010) ước
tính tỷ giá hữu hiệu (NEER) và tỷ giá thực hữu hiệu (REER) của đồng Việt Nam, được thể
hiện trong Hình 12.
Hình 12. Tỷ giá thực hữu hiệu ở Việt Nam (năm 2000 là năm gốc)
Đơn vị tính: %
60
70
80
90
100
110
120
130
140
150
160
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

NEE
R
REE
R

Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng nhóm tác giả (2010)
Hình 12 cũng cho thấy, vận động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa giai đoạn 2000-2003 về cơ
bản là đúng theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Rõ ràng chế độ tỷ giá này đã có tác dụng
góp phần phục hồi nền kinh tế sau những tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á. Tuy nhiên, từ năm 2004 trở đi, do tốc độ lạm phát thường xuyên cao hơn rất nhiều
so với t
ốc độ mất giá danh nghĩa của VND, tỷ giá chính thức đã dần rời xa tỷ giá thực, đồng
Việt Nam lên giá thực tế khá mạnh khiến cho hàng Việt Nam kém hấp dẫn hơn về giá so với
hàng hóa của các nước khác. Thực tế, nhập siêu lớn trong những năm gần đây là một minh
chứng thuyết phục nhất cho những tác động của việc VND lên giá.
Rõ ràng, trong giai đoạn 2004-2009 tỷ giá VND đã đi chệ
ch khỏi quỹ đạo khuyến khích xuất
khẩu và đã liên tục lên giá. Điều này sẽ tạo áp lực lớn lên chính sách tỷ giá trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế, giá trị xuất khẩu giảm sút trong khi nguồn cung ngoại tệ qua đầu tư gián
tiếp, trực tiếp cũng giảm.

Nỗ lực của NHNN trong việc giảm giá VND vào cuối năm 2009 đã giúp đảo chiều phần nào
xu hướng lên giá của VND hiện nay. Tuy nhiên, chỉ số REER năm 2009 vẫn cho thấy so với
18
năm 2000 thì VND vẫn lên giá nhiều so với các đồng tiền các nước bạn hàng. Điều này khiến
cho hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và góp phần
kéo dài tình trạng nhập siêu lớn của Việt Nam đặc biệt là trong những năm gần đây.
3. Những vấn đề của hệ thống tài chính
3.1. Sự phát triển của hệ thống tài chính
Cải cách tài chính và ngân hàng của Việt Nam đi liền với cuộc cải cách kinh tế từ cuối thập

niên 1980. Tuy nhiên, trong thập niên 1990, có thể thấy sự phát triển tài chính chưa có nhiều
đột biến. Đây là giai đoạn mà nền tài chính vẫn còn khép kín và chủ yếu bị chi phối bởi khu
vực quốc doanh. Ví dụ, đến cuối năm 1998, trong hệ thống ngân hàng, hơn 80% tổng tài sản
vẫn thuộc về bốn ngân hàng quốc doanh lớn. Trong khi đ
ó, hệ thống NHTM cổ phần (sở hữu
hỗn hợp giữa công và tư) cùng với hệ thống quỹ bảo hiểm nhân dân phát triển nhiều về số
lượng, nhưng quy mô rất nhỏ và dàn trải. Chủ yếu các NHTM hoạt động mang tính địa
phương hoặc ở khu vực nông thôn. Do đó, trong suốt thập niên 1990, như có thể thấy trong
Hình 13, độ sâu tài chính của Việt Nam xét theo các tiêu chí khác nhau đều không có đột biến
lớn.
Hình 13. S
ự phát triển của độ sâu tài chính, 1990-2008
0.00
20.00
40.00
60.00
80.00
100.00
120.00
140.00
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Năm
%
M2/GDP Tổng tín dụng/GDP Tiền gửi có kỳ hạn/GDP

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên ADB(2009).
Tuy nhiên, từ năm 2000, đã có chuyển biến lớn trong hệ thống tài chính, với sự cải thiện đáng
kể của độ sâu tài chính theo thời gian. Mở đầu giai đoạn này, thị trường chứng khoán của
Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động, mặc dù với quy mô còn rất nhỏ. Thêm vào đó, đây là giai
19

đoạn Việt Nam chuẩn bị ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ (US BTA). Có thể
nói các cam kết quốc tế có tác động rất lớn tới sự phát triển của thị trường tài chính Việt
Nam, điều này một lần nữa được khẳng định khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới vào cuối năm 2006. Đây là những thời đi
ểm thị trường bùng nổ mạnh
mẽ, với những cải cách theo chiều hướng tự do hóa, đi liền với kỳ vọng lạc quan vào tương
lai của nền kinh tế, khiến các nhà đầu tư mở rộng hoạt động.
Trong giai đoạn này, diễn biến của lãi suất có một số điểm đáng lưu ý (Hình 14). Thứ nhất,
trong giai đoạn từ năm 2000 đến hế
t 2004, lãi suất danh nghĩa biến động tương đối phù hợp
với thay đổi của lạm phát, và lãi suất thực là dương. Tuy nhiên, từ sau năm 2005, lãi suất tiền
gửi đã không tăng theo kịp mức lạm phát, khiến lãi suất tiền gửi thực có khuynh hướng âm.
Chỉ sau đợt lạm phát cao của năm 2008, thì lãi suất thực mới trở lại mức dương trong năm
2009. Có thể nói, lạm phát cao trong giai đoạn 2005-2008 đã làm méo mó tín hi
ệu lãi suất,
góp phần tạo nên những diễn biến phức tạp trên thị trường vốn trong giai đoạn này.
Hình 14. Diễn biến của lãi suất danh nghĩa, 2000-2009
-5
0
5
10
15
20
25
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Năm
%
Lạm phát lãi suất tiền gửi 3 tháng lãi suất cho vay ngắn hạn

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)

Việc hệ thống tài chính Việt Nam phát triển nhanh trong một thời gian ngắn, rồi bị tác động
bất lợi đột ngột từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đã khiến toàn hệ thống trở nên rất dễ bị
tổn thương. Là một nước chuyển đổi và ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hệ thống tài chính
của Việt Nam vẫn lấ
y hệ thống ngân hàng làm trung tâm, nên tín dụng ngân hàng có vai trò
quan trọng liên quan đến chu kỳ kinh tế. Đi liền với hệ thống ngân hàng là hệ thống doanh
20
nghiệp và các thị trường tài sản. Mối quan hệ tương hỗ ở đây có thể xác định như sau: hệ
thống ngân hàng có ảnh hưởng chi phối tới kết quả hoạt động của hai hệ thống sau, đồng thời
tình trạng của hai hệ thống này cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro trong hệ thống ngân hàng
và cả sự bền vững của nó.
3.2. Tín dụng cho hệ thống doanh nghiệp
Một điều quan trọng quyết định rủi ro của hệ thống tài chính liên quan đến tín dụng chảy vào
khu vực doanh nghiệp như thế nào. Một đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam là tỷ trọng khu
vực kinh tế quốc doanh mặc dù liên tục giảm trong những năm gần đây, nhưng vẫn giữ ở mức
cao (khoảng 35%), trong khi khu vực tư nhân vẫn còn quy mô nhỏ (khoảng 10% GDP). Đ
iều
này được thể hiện trong Hình 22, cho thấy sự dịch chuyển vai trò của các khu vực phân theo
sở hữu từ năm 1995 đến 2008.
Như Hình 15 cho thấy, nền kinh tế đang dịch chuyển theo hướng củng cố sự lớn mạnh của
khu vực kinh tế tư nhân và ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, so với các nền kinh tế trong khu
vực, kể cả Trung Quốc, kinh tế nhà nước ở Việt Nam vẫn chiếm một tỷ
trọng lớn trong nền
kinh tế. Cho tới năm 2005, kinh tế nhà nước vẫn chiếm tới gần 38,5% GDP. Tỷ trọng này chỉ
giảm đôi chút, xuống 34,4% năm 2008, do sự gia tăng của quá trình cổ phần hóa DNNN
trong những năm gần đây. Tuy tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước lớn, 47% năm 2008, nhưng
chủ yếu là từ kinh tế tập thể và kinh tế cá thể. Khu vực kinh tế tư nhân chính thức chỉ chi
ếm
10,8% năm 2008, tăng từ mức 6,3% năm 1995.
Hình 15. Tỷ trọng GDP của các thành phần kinh tế (%), 1995-2008

0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
1995 1997 1999 2001 2003 2005 2007
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài Nhà nước
Kinh tế tư nhân
Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài

Nguồn: Nguyễn Đức Thành và Đinh Tuấn Minh (2010)

21
Với cấu trúc kinh tế như vậy, tín dụng cho khu vực DNNN chiếm khoảng 30% tổng tín dụng
của toàn bộ nền kinh tế (Bảng 4). Do đặc thù hàm chứa rủi ro đạo đức cao trong hoạt động
cho vay giữa các ngân hàng và DNNN, đây là một nguy cơ khi xuất hiện các cú sốc bất lợi từ
thị trường (như trường hợp Vinashin gần đây là một ví dụ điển hình).
Bảng 4. Tín dụng cho DNNN và ngoài DNNN
Năm 2005 2006 2007 2008
Tín dụng cho nền kinh tế
100 100 100 100
Cho DNNN (%) 32.8 31.5 31.3 30.9
Cho các đối tượng khác
(%)
67.2 68.5 68.7 69.1
Nguồn: IMF (2009)

Việc duy trì khu vực kinh tế nhà nước lớn như vậy sẽ khiến cho nền kinh tế hoạt động kém
hiệu quả. Theo đánh giá mới nhất về cơ cấu kinh tế Việt Nam của nhóm nghiên cứu ở CIEM
(2009), thì khu vực DNNN hiện còn tồn tại một số vấn đề như:
- Trong suốt một thời gian dài từ khi cải cách, DNNN vẫn được ưu đãi một số nhân tố sản
xu
ất, nhất là đất đai và tiếp cận tín dụng; giá đất và giá tài sản cố định trong nhiều trường hợp
chưa tính đúng và tính đủ; và do đó, chưa tính đúng, tính đủ chi phí kinh doanh. Mặc dù hiện
tượng này hiện đang giảm dần, nhất là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhưng do lịch sử
để lại, các DNNN vẫn nhận được nhiều ưu đãi, ví dụ như trong lĩnh vực tín dụng (lợi thế
của
việc đi vay NHTM quốc doanh mà không cần thế chấp) hay trong một số trường hợp nhận
được ngân sách mềm dưới nhiều hình thức.
- DNNN vẫn là một công ty đóng, chưa thể chủ động huy động vốn chủ sở hữu từ các nhà
đầu tư bên ngoài. Vì vậy, DNNN hiện vẫn dựa nhiều vào vốn tín dụng và tài nguyên thiên
nhiên để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh. Hệ quả là đòn bẩy tài chính luôn cao và có thể

còn gia tăng; không thể chủ động trong đầu tư phát triển; rủi ro và nguy cơ bất ổn kinh doanh
là rất lớn.
- Quản trị công ty sở hữu nhà nước còn yếu kém; quyền chủ sở hữu nhà nước chưa được thực
hiện đầy đủ, có hiệu lực và có hiệu quả; cơ chế “hành chính, chủ quản”, phân tán, thiếu minh
bạch, thiếu trách nhiệm giải trình đã tỏ ra không còn phù hợp, nhưng chậ
m được xem xét,
đánh giá và thay thế bằng cơ chế mới phù hợp; những người được giao đại diện phần vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp vừa luôn ở thế thụ động, lại thiếu giám sát và đánh giá khách quan,
khoa học; và nguy cơ lạm dụng quyền lực để tư lợi riêng (hơn là nỗ lực tối đa để phục vụ lợi
ích nhà nước) là rất lớn.
22
Như vậy, trong thời gian tới, việc cải cách khu vực DNNN là một thách thức lớn trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế và giảm rủi ro tài chính. Sự chững lại của tốc độ cải cách DNNN
trong những năm gần đây cho thấy đây là một nhiệm vụ thực sự không dễ dàng.

4. Phòng ngừa những rủi ro tiềm tàng của nền kinh tế
Những phân tích trong các phần trên đã cho phép nhìn thấy những đặc điểm và mối liên hệ
căn bản làm nền tảng cho các liên kết kinh tế vĩ mô và tài chính của nền kinh tế. Với sự nhận
diện đặc điểm và quan hệ nội tại của nền kinh tế như vậy, trong phần này, chúng tôi đề xuất
một mô hình khái quát để mô tả những nguồn gốc của rủi ro vĩ mô trong nền kinh tế
Việt
Nam. Tiếp theo đó, chúng tôi đánh giá mức độ của các loại rủi ro. Phần cuối cùng đề xuất
những giải pháp ngăn ngừa và phòng chống các rủi ro đó trong tương lai.
4.1. Nguồn gốc rủi ro
Có thể tóm tắt những đặc điểm và các mối liên hệ hàm chứa rủi ro trong nền kinh tế như sau:
- Nền kinh tế Việt Nam đang chịu đựng những mất cân bằng kinh tế lớn, trong đó cốt
lõi là mất cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư. Trong sự mất cân bằng này, mất cân bằng tiết
kiệm-đầu tư trong khu vực công, hay thâm hụt ngân sách, đóng vai trò xuyên suốt.
- Hai m
ất cân bằng trên tồn tại ở quy mô lớn và dai dẳng bắt nguồn từ việc Việt Nam
theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư, trong đó đầu tư Nhà nước có vai trò
to lớn. Thâm hụt tiết kiệm khiến lãi suất bị giữ ở mức cao, đồng thời thâm hụt ngân sách dai
dẳng có thể là nguyên nhân khiến tình trạng lạm phát luôn ở mức cao trong nhiều năm.
- Thâm hụ
t tiết kiệm tự nó dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai cao một cách tương ứng.
Trong đó, thâm hụt thương mại là cốt lõi của thâm hụt vãng lai.
- Trong bối cảnh có lạm phát cao và liên tục, nhưng Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách
ổn định tỷ giá danh nghĩa, dẫn tới tình trạng VND liên tục tăng giá trong 5 năm gần đây. Điều
này góp phần làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, làm trầm trọng hơ
n thâm hụt
thương mại, đồng thời, tăng rủi ro tỷ giá.
- Dưới sức ép của mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, đi cùng quá trình tự do hóa và
hội nhập tài chính quốc tế diễn ra rất nhanh từ năm 2007, hệ thống NHTM tăng trưởng
nhanh, gây sức ép mở rộng các khoản vay và nhu cầu về vốn. Với sự hiện diện của khu vực
DNNN lớn, các khoản vay có sự bả

o trợ của Chính phủ, khiến tín dụng cho khu vực này có
23
dấu hiệu vượt quá mức cần thiết (overborrowing), đồng thời tăng rủi ro đạo đức của các
khoản vay. Điều này tạo ra một sức ép tăng rủi ro trong hệ thống NHTM.
- Thị trường tài sản tiếp nhận một lượng vốn lớn nên tăng trưởng nóng, có khuynh
hướng xuất hiện các bong bóng tài sản, tạo một sức ép tăng rủi ro nữa lên hệ thống NHTM.
- D
ưới tác động của những khó khăn về kinh tế bắt nguồn từ những bất ổn vĩ mô từ
năm 2007, cộng thêm khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, lãi suất liên tục bị giữ
ở mức cao trong một thời gian dài, có thể là nguyên nhân khiến hệ thống NHTM đang tích tụ
những rủi ro ngày càng lớn.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất một mô hình liên kết các nhân tố hàm ch
ứa
rủi ro vĩ mô cho nền kinh tế Việt Nam như trong Hình 16.
Từ Hình 16, chúng ta có thể thấy nguồn gốc sâu xa của những rủi ro vĩ mô bắt nguồn từ cấu
trúc mất cân đối của nền kinh tế dưới sức ép của mô hình tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu
tư, mà đầu tư công đóng vai trò cốt lõi. Tuy nhiên, tâm điểm rủi ro của toàn bộ nền kinh tế lại
nằm
ở hệ thống NHTM vì đây là khu vực phải chịu đựng những sức ép lớn nhất từ các khu
vực còn lại của nền kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, có thể phân tách nguồn gốc rủi ro theo yếu tố bên
trong và bên ngoài nền kinh tế như sau:
Thứ nhất, các nguyên nhân từ bên trong:
- Những yếu tố căn bản yếu: Do nền kinh tế có khuynh hướng đầu tư quá m
ức nên thâm hụt
tiết kiệm lớn, mà cốt lõi là thâm hụt ngân sách cao, dẫn tới thâm hụt thương mại cao. Hệ
thống doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém, khu vực nhà nước còn lấn át khu vực tư nhân.
Các thị trường tài sản không vận hành lành mạnh do còn mỏng, bị thao túng bởi lượng vốn
nhàn rỗi lớn. Hệ thống NHTM tăng trưởng nóng, làm giảm chất lượng tín dụng và khả năng
giám sát.

- Chính sách kinh tế vĩ mô bất nhấ
t, không đồng bộ, do bị giằng xé giữa mục tiêu tăng trưởng
nhanh và nhu cầu ổn định vĩ mô. Mục tiêu tăng trưởng thông qua mở rộng đầu tư, trong đó
đầu tư nhà nước chiếm vai trò lớn, khiến ngân sách thâm hụt liên tục, gây sức ép lạm và tạo
sự đè nén tài chính (financial repression) dưới nhiều hình thức. Thêm vào đó, sự hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập tài chính quốc tế nói riêng còn thụ độ
ng, chưa theo một lộ
trình chiến lược. Do đó, khả năng tiếp nhận rủi ro lan truyền từ bên ngoài tăng cao, thông qua
các dòng vốn gián tiếp không bị kiểm soát.
24
Hình 16. Mô hình về rủi ro vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam






















Trên khía cạnh chính sách kinh tế vĩ mô, cần bổ sung rằng, dường như Việt Nam chưa khi
nào chú trọng việc kiềm chế lạm phát một cách nghiêm túc như các nước khác trong khu vực.
Trong khi lạm phát ở các nước khác luôn được kiềm chế ở mức xấp xỉ 5% trong những
khoảng thời gian dài (nhằm duy trì tăng tr
ưởng ổn định) thì lạm phát của Việt Nam luôn dao
động ở mức cao.

Hệ thống
doanh nghiệp
Kinh tế đối
ngoại:

Sức ép cạnh
tranh

Cán cân
thương mại

Các dòng vốn
Chính sách
kinh tế vĩ mô:


Giảm dư địa do
sự lấn át của
khu vực công

Các cân đối

vĩ mô

Hệ thống
ngân hàng

Các thị trường
tài sản
Sốc
bên
ngoài
Khủng
hoảng ngân
hàng
Khủng
hoảng tiền
tệ
Khủng
hoảng nợ
MÔ HÌNH
TĂNG
TRƯỞNG PHỤ
THUỘC ĐẦU
TƯ CÔNG
25
Thứ hai, các nguyên nhân từ bên ngoài:
- Do độ mở của nền kinh tế lớn, Việt Nam ngày càng chịu tác động lớn hơn từ các cú sốc từ
thị trường thực, như sự suy giảm cầu xuất khẩu dưới ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng
trong khu vực và trên thế giới, hoặc dưới sức ép của cạnh tranh quốc tế.
- Đồng thời, nền kinh tế cũng dễ t
ổn thương trước các cú sốc tài chính, như sự thay đổi của

lãi suất đồng USD trên thế giới, sự phá giá đồng Nhân dân tệ, hay lây lan các cuộc khủng
hoảng tài chính.
Những tác động từ bên ngoài sẽ trở nên nghiêm trọng hơn khi tỷ giá đang bị định giá sai lầm,
khiến dư địa để thay đổi không còn nhiều, hoặc nếu thay đổi, sẽ gây ra những tổn thương lớn
cho các khu vực trong nền kinh tế nội
địa.
4.2. Nhận định rủi ro
Với đặc tính của nền kinh tế Việt Nam như đã nêu, có thể nhận định những rủi ro chính trong
nền kinh tế như sau:
Thâm hụt tiết kiệm – đầu tư lớn, trong đó có thâm hụt ngân sách cao, khiến lãi suất bị giữ ở
mức cao làm cản trở tăng trưởng và tích tụ rủi ro tài chính, đặc biệt trong hệ thống ngân hàng.
Đồng thời, thâm hụt ngân sách và lãi suất cao thu hẹp dư địa của cả
2 công cụ tài khóa và tiền
tệ, khiến chính sách kinh tế vĩ mô khó phản ứng trước những cú sốc của nền kinh tế, hoặc nếu
phản ứng thì gây chi phí cao.
Sự thâm hụt tiết kiệm – đầu tư trong nền kinh tế chỉ có thể được đáp ứng thông qua dòng vốn
nước ngoài, nghĩa là đòi hỏi cán cân vốn luôn ở trạng thái thặng dư. Đồng thời, cán cân vãng
lai thường xuyên thâm hụt bằng mức thâm hụ
t tiết kiệm – đầu tư. Trong trường hợp dòng vốn
chảy vào lớn hơn mức thâm hụt vãng lai, giá trị đồng tiền Việt không bị sức ép mất giá, có
thể mở đường cho việc giảm lãi suất tiền Việt trong nước. Tuy nhiên, rủi ro sẽ lớn khi dòng
vốn chững lại hoặc đảo chiều, khiến đồng tiền Việt mất giá. Để chống đỡ, lãi suất có thể phải
t
ăng mạnh trở lại, tạo ra rủi ro lớn cho hệ thống NHTM và hệ thống tài chính nói chung. Đây
chính là kịch bản rủi ro nổ ra một cuộc khủng hoảng đôi (khủng hoảng tiền tệ đi liền với
khủng hoảng ngân hàng)
Đồng thời, tình trạng hiện thời của bản thân hệ thống tài chính cũng không lành mạnh: thông
tin trên thị trường không cân xứng, rủi ro đạo đức cao trong các khoản tín dụng cho doanh
nghiệp, đặc biệt là DNNN (vẫn chiếm khoảng 30% tổng dư nợ). Khu vực DNNN do được

×