Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở việt nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.47 KB, 41 trang )




Luận văn
Giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài
ở việt nam


1
LỜI MỞ ĐẦU

Quan hệ kinh tế quốc tế cùng với mối quan hệ về chính trị, ngoại giao,
văn hoá là những nhân tố quan trọng cấu thành nên bức tranh tổng thể về quan
hệ quốc tế ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Nó ra đời và phát triển trên cơ sở
phân công lao động quốc tế, bao gồm một hệ thống đa dạng và phong phú các
hoạt động như: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ
Cùng với xu thế toàn cầu hoá trong quan hệ quốc tế nói chung, hoạt động kinh tế
quốc tế đang đạt được bước phát triển mạnh chưa từng thấy mang tính thời đại
sâu sắc và sẽ còn tiếp tục được bổ sung, phát triển hơn nữa bởi những nhân tố
mới trong tương lai. Trong bối cảnh đó, các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh tế quốc tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng có xu
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có những phương thức giải
quyết nhanh chóng, hiệu quả nhằm bảo đảm cho các hoạt động đó được diễn ra
một cách liên tục và thuận tiện.
Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề vô cùng phức tạp
do tham gia vào các quan hệ này có nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý
không giống nhau, thuộc những hệ thống pháp luật khác nhau Do đó, việc lựa
chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý là một vấn đề có ý
nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc
tế phát triển thuận lợi. Trên thực tế, toà án là cơ quan có đủ chức năng để thực


hiện những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp nói chung. Song các
đặc tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt động thương mại thì bên
cạnh toà án còn có những biện pháp giải quyết tranh chấp khác có hiệu quả hơn
nhiều. Một trong những biện pháp đó là "Trọng tài".
Là một thành viên trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam không thể đứng
ngoài xu thế phát triển chung của thế giới. Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở
rộng quan hệ hợp tác và phát triển về kinh tế với các quốc gia khác và hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, Nghị quyết Đại hội VI
của Đảng đề ra đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế quản lý

2
tập trung, bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sự chuyển đổi tư duy kinh tế có ý nghĩa lớn lao này đã đặt nền móng
cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế liên tục của nước ta hơn 15 năm qua.Từ
khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với hơn 100 nước trên thế giới, ký kết hàng loạt các Hiệp định thương mại song
phương và đa phương trong đó tiêu biểu là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ,
Hiệp định về buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định về khu vực mậu
dịch tự do AFTA Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia tổ
chức kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác kinh tế á -
Âu (ASEM). Hiện nay Việt Nam đang là quan sát viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO.
Bối cảnh đó đặt ra cho Việt Nam nhiều thời cơ để phát triển nhưng cũng
không ít thách mà chúng ta phải đối mặt, đặc biệt là việc giải quyết các tranh
chấp thương mại. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có một chế định pháp luật hiện
đại về trọng tài vì đây là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp
hữu hiệu nhất hiện nay.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, em xin tìm hiểu và phân tích cụ thể về
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và thực tiễn ở Việt Nam

về vấn đề này. Về bố cục, bài tiểu luận gồm có: Lời nói đầu, 3 chương và lời kết
luận. Cụ thể là:
Chương I: Một số khái niệm chung
Chương II: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt
Nam.
Chương III: Đánh giá chung về pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
và một số đề kiến nghị. Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận trọng tài như thế
nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Xu hướng phát triển
văn hoá trọng tài thương mại quốc tế.

3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG

1. KHÁI NIỆM TRỌNG TÀI VÀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm trọng tài trong khoa học pháp lý Quốc tế.
Ở tất cả các nước trên thế giới, các tranh chấp dân sự dù có hay không có
yếu tố nước ngoài đều được giải quyết không chỉ bằng toà án mà bằng cả trọng
tài. Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử
dụng rộng rãi trong thực tiễn xét xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ
kinh tế quốc tế.
Cuối thế kỷ 19, người ta đã cố gắng hợp thức hoá tính cách pháp lý cho
hình thức trọng tài qua hai Hội nghị Quốc tế. Đó là hội nghị Hoà bình tổ chức tại
La - Hay Hà Lan vào năm 1899 và 1907. Hai hội nghị này đã đi đến việc soạn
thảo quy chế và thủ tục và nỗ lực hướng dẫn các quốc gia áp dụng triệt để các
hiệp ước trọng tài.
Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái niệm "Trọng tài"
được đề cập nhiều trong luật quốc tế. Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu
trong Công ước La - Hay năm 1988, theo đó: "Trọng tài là nhằm để giải quyết
những bất đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa

chọn trên cơ sở tôn trọng luật pháp".
Hiệp định La - Hay 1907 qui định: "Trọng tài quốc tế có đối tượng giải
quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng
tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng
luật pháp".
Theo giáo sư Ph.Farrchar thuộc trường đại học Pans II thì: "Trọng tài là
một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên giao cho một cá nhân
(trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau".
Luật sư toà thượng thẩm Paris Didier Skonicki định nghĩa ngắn gọn:
"Trọng tài là toà án tư, do ý chí của đôi bên tranh chấp. Nó cũng xét xử như toà
án nhà nước".

4
Tựu trung lại, có thể hiểu trọng tài là phương thức giải quyết một số hoặc
toàn bộ các tranh chấp đã và sẽ phát sinh giữa các bên mà pháp luật cho phép
được giải quyết bằng một cơ quan xét xử do các bên thoả thuận lập ra.
Như vậy, biện pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có hai điểm cơ
bản, đó là: "Sự lựa chọn của hai bên" và "trên cơ sở tôn trọng pháp luật". Các
bên có quyền thoả thuận và lựa chọn thành phần trọng tài. Đây là một phần
trong quyền độc lập tối cao mà cơ chế này đem lại cho các bên đương sự. Hai
bên có thể tự thoả thuận để chọn biện pháp trọng tài,tự lập ra hội đồng trọng tài
để giải quyết vụ tranh chấp. Đặc điểm này tạo ra ưu điểm lứon cho trọng tài vì ý
kiến của hai bên đương sự được đề cao và tôn trọng nên phán quyết trọng tài
đưa ra dễ được chấp nhận và thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật. Do đó tố
tụng trọng tài cũng như phán quyết trọng tài sẽ có tính luật pháp. Tính hợp pháp
của tố tụng trọng tài sẽ có tính ràng buộc đối với các bên.
Qua đó ta thấy, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ
sở pháp luật, một phương thức mang tính chất duy trì luật pháp chứ không mang
tính chất thay đổi hay tạo ra luật pháp.
1.2. Khái niệm trọng tài thương mại.

1.2.1. Khái niệm trọng tài thương mại quốc tế.
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
từ các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng
trọng tài.
Trọng tài thương mại quốc tế là một trong những phương thức chủ yếu để
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trong
pháp luật và thực tiễn quốc tế, cũng như pháp luật của nhiều nước, công nhận có
hai loại trọng tài chủ yếu là trọng tài adhoc và trọng tài thường trực.
a. Trọng tài ad - hoc:
Trọng tài ad - hoc là thể loại trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để
giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết
xong thì trọng tài ad - hoc tự giải thể. Do đó, trọng tài ad - hoc còn được gọi là
trọng tài vụ việc, trọng tài đặc biệt, trọng tài đặc nhiệm

5
Hình thức trọng tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố định như trọng
tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào. Trong các vụ
tranh chấp sử dụng trọng tài ad - hoc, thì các bên thường thống nhất có một
trọng tài viên.
Trọng tài ad - hoc có một số đặc điểm sau:
- Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự hoặc của người thứ
ba không bị giới hạn vào một danh sách có sẵn như ở hình thức trọng tài thường
trực.
- Các bên đương sự có toàn quyền trong việc xác lập quy chế tố tụng: về
tổ chức hội đồng trọng tài, quá trình tố tụng Nghĩa là các bên tranh chấp có thể
tự định đoạt các cách thiết lập hội đồng trọng tài và thủ tục giải quyết thích ứng
với tính chất từng vụ tranh chấp. Đương sự không bị ràng buộc bởi các quy định
pháp lý về tố tụng chừng nào đảm bảo được nguyên tắc xét xử khách quan trong
trường hợp của họ. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt trọng tài ad - hoc với
trọng tài thường trực.

Như vậy, tính chất tố tụng của trọng tài ad - hoc khá đơn giản, thời gian
tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng và ít tốn kém. Tuy nhiên, trên thực tế,
trọng tài ad - hoc chỉ thích hợp với những tranh chấp nhỏ giữa các bên đương sự
có am hiểu về luật pháp và có kinh nghiệm tranh tụng. Trọng tài ad - hoc phụ
thuộc rất nhiều vào thiện chí và sự hợp tác của các bên. Nếu các bên không thực
tình muốn giải quyết vụ tranh chấp để đi tới một giải pháp tối ưu thì trọng tài ad
- hoc sẽ rất khó làm việc. Bởi lẽ, trọng tài ad - hoc không có quy tắc tố tụng
riêng.
b. Trọng tài thường trực:
Trọng tài thường trực là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động
một cách thường xuyên, có trụ sở, điều lệ và có quy tắc xét xử riêng. Trọng tài
thường trực giống trọng tài ad - hoc ở khả năng lựa chọn trọng tài viên nhưng lại
có hạn chế hơn là chỉ được lựa chọn trong số các trọng tài viên của trung tâm
trọng tài - mà số lượng các trọng tài viên trong danh sách này thường rất hạn
chế.

6
Ban trọng tài có thể là một trọng tài viên duy nhất được chọn trong số
trọng tài viên của trung tâm trọng tài hoặc có thể là ba trọng tài (mỗi bên chọn ra
một trọng tài viên và hai người này sẽ chọn một trọng tài thứ ba làm chủ tịch hội
đồng trọng tài).
Trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng được quy định chặt chẽ, được
công bố công khai. Các bên đương sự buộc phải tuân theo các quy chế xét xử
của từng trung tâm trọng tài, bất luận là những quy định phức tạp và bất hợp lý
như thế nào. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất hãn hữu. Bởi các trung tâm
trọng tài muốn tồn tại, bên cạnh chất lượng trọng tài viên thì quy chế tố tụng của
từng trung tâm trọng tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi các nhà
kinh doanh trong giải quyết tranh chấp, có như vậy mới thu hút được được
khách hàng. Lợi thế lớn nhất của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc
tố tụng trọng tài. Các bên đương sự chỉ cần thoả thuận áp dụng các bộ quy tắc

này là đủ, không cần mất công tạo lập ra các bộ quy tắc mới. Điều này rất thuận
lợi cho các nhà doanh nghiệp. Nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình
thì họ chọn trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn.
Các tổ chức trọng tài thường trực đều độc lập và không có quan hệ gì với
nhau trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, không phụ thuộc vào nhau về
đều bình đẳng trước sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Việc lựa chọn tổ chức
trọng tài cũng như trọng tài viên hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các
bên tranh chấp.
Trọng tài thường trực thường được thành lập tại các tổ chức, các hiệp hội,
các phòng thương mại và công nghiệp ở các nước. Trong vòng 20 năm qua đã
diễn ra một "phong trào" thành lập các tổ chức trọng tài quốc tế. Khó có thể lập
được một cách đầy đủ các tổ chức trọng tài trên thế giới nhưng ít nhất cũng có
khoảng hơn 100 tổ chức trọng tài quốc tế. Tiêu biểu như: trọng tài La - Hay
thành lập năm 1907, toà trọng tài quốc tế của phòng thương mại quốc tế Paris
(ICC) thành lập năm 1919, toà trọng tài quốc tế London (LCIA) thành lập năm
1899, Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA) thành lập năm 1928. Trung tâm trọng

7
tài kinh tế Trung Quốc (CIETAC) thành lập năm 1954, Trung tâm trọng tài quốc
tế Hồng Kông (HKIAC) thành lập năm 1985
Toà án trọng tài quốc tế ICA của phòng thương mại quốc tế ICC lfa trọng
tài được biết đến nhiều nhất. ICA được thành lập năm 1923 tại Paris với mục
đích ban đầu là trợ giúp các nước Châu Âu là giảm tối đa có thể các tranh chấp
kinh tế thương mại để mau chóng ổn định kinh tế phục vụ công cuộc hàn gắn
sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hiện nay, ICA là trọng tài chuyên trách
chuyên giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh trong hợp đồng giữa các
pháp nhân, thể nhân có quốc tịch khác nhau. ICA luôn đứng đầu thế giới về giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế bởi vì ICA có thể giải quyết các tranh
chấp trực tiếp bằng hầu hết các thứ tiếng trên thế giới nên tranh chấp được giải
quyết nhanh chóng kịp thời và giảm chi phí cho các bên tranh tụng.

Trung tâm quốc tế giải quyết tranh chấp về đầu tư ICSID là tổ chức do
ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế thành lập 1966 tại Washington trên cơ
sở công ước về giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và pháp nhân, thể nhân
nước khác. Cũng như ICC, ICSID được xem là một trong những cơ quan trọng
tài quốc tế ưa dùng nhất hiện nay trên thế giới. Mặc dù ICSID chủ yếu giải
quyết tranh chấp thuộc lĩnh vực đầu tư quốc tế song trên thực tế, ICSID thực
hiện hai nhiệm vụ. Một là giải quyết tranh chấp kinh tế thương mại phát sinh
trong hợp đồng đầu tư quốc tế. Hai là đẩy mạnh đầu tư quốc tế giữa các nước,
các vùng, khu vực và thế giới.
1.2.2. Khái niệm trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam.
Theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế thì "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp có liên quan đến
việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu".
Tuy nhiên, trọng tài thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài kinh tế
vì hoạt động thương mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu một cách

8
ngắn gọn thì trọng tài thương mại trước hết phải là một trong những hình thức
trọng tài, chức năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh chấp
thương mại.
Cho đến khi pháp lệnh trọng tài thương mại của uỷ ban thường vụ quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 08/2003 ra đời thì khái niệm
trọng tài thương mại được nêu ra cụ thể như sau: "Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thoả thuạn
và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp lệnh này quy định (điều
2 khoản 1).
Pháp luật Việt Nam cũng công nhận hai loại trọng tài đó là trọng tài

thường trực và trọng tài ad - hoc. Trọng tài ad - hoc được công nhân trong một
số văn bản pháp luật như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật hàng
không dân dụng Việt Nam, pháp lệnh chuyển giao công nghệ, nghị định mua
bán li - xăng Hiện nay, ở Việt Nam cũng có một số trung tâm trọng tài (trọng
tài thường trực) hoạt động khá hiệu quả như trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam, trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn
2. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
2.1.Khái niệm hoạt động thương mại
2.1.1. Khái niệm quan hệ thương mại trong khoa học pháp lý quốc tế
Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế năm 1985 của UNCITRAL quy
định, thuật ngữ "thương mại" được giải thích theo nghĩa rộng, liên quan tới tất
cả các mối quan hệ có bản chất thương mại dù là quan hệ hợp đồng hay không
phải là quan hệ hợp đồng.Theo đó, những mối quan hệ này bao gồm nhưng
không giới hạn bởi các giao dịch sau:
- Mọi giao dịch thương mại về cung cấp hay trao đổi hàng hoá, dịch vụ; Thoả
thuận về phân phối, đại diện và đại lý thương mại ; Kỹ thuật; Li - xăng; Đầu tư;
Tài chính; Ngân hàng; Bảo hiểm; Thoả thuận thăm dò, khai thác; Liên doanh
hoặc các hình thức hợp tác công nghiệp hoặc liên doanh khác; Vận chuyển hàng
hoá hay hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hay đường bộ.

9
Qua đó có thể thấy, cách hiểu về quan hệ thương mại trong luật pháp quốc
tế là rất rộng. Nó không bị giới hạn bởi các giao dịch nêu trên mà chỉ bao gồm
các giao dịch này.
2.1.2. Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam
Theo pháp luật hợp đồng kinh tế năm 1989
(1)
, Luật thương mại năm
1997
(2)

và Luật doanh nghiệp năm 1999
(3)
thì có thể hiểu: Hoạt động thương mại
là những hoạt động xung quanh việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, từ việc đầu tư đến việc hình
thành dự án, thành lập doanh nghiệp, vận hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện các dịch vụ khác trên thị trường như dịch vụ thương mại, vận tải, hàng
hải, hàng không, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc thực hiện những chính sách kinh tế xã
hội, do các pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh tiến hành thông qua
hoạt động kinh tế thương mại. Như vậy, điều kiện cần của hoạt động thương mại
trước hết phải là những hoạt động phục vụ cho quá trình sản xuất, lưu thông
hàng hoá hay thực hiện các dịch vụ trên thị trường. Nhưng như vậy chưa đủ,
điều kiện đủ của hoạt động thương mại là tìm kiếm lợi nhuận hoặc thực hiện các
chính sách kinh tế - xã hội và do các pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh
doanh tiến hành thông qua các hợp đồng thương mại. Thiếu một trong ba yếu tố
trên không được xem là hoạt động thương mại thuộc ngành luật kinh tế điều
chỉnh và thuộc phạm vi xem xét giải quyết của Toà án kinh tế hay trọng tài
thương mại khi có tranh chấp xảy ra mà chỉ được xem là hoạt động kinh tế dân
sự thuộc ngành luật dân sự điều chỉnh và thuộc phạm vi xem xét giải quyết của
toà án dân sự, toà án nhân dân các cấp.
2.1.3.Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp lệnh Trọng tài
thương mại 2003.
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương
mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch

(1)
Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989
(2)
Điều 5 Luật thương mại năm 1997

(3)
Khoản 2 Điều 3 Luật doanh nghiệp năm 1999

10
vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây
dựng, tư vấn, kỹ thuật, li – xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm
dò, khai thác, vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường
biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luật.
2.2. Khái niệm tranh chấp thương mại
Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam, "tranh chấp thương
mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt động thương mại" (điều 238). Như vậy, tranh chấp thương
mại là những xung đột, bất đồng của chủ thể tiến hành hoạt động thương mại
được thể hiện trên cơ sở các hợp đồng đã được xác lập giữa các bên. Tranh chấp
thương mại phát sinh có thể là do một bên nào đó hoặc các bên ký kết hợp đồng
không thực hiện đúng hợp đồng hay không thực hiện hợp đồng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường như ở nước ta hiện nay, vấn đề giao lưu
thương mại với các nước khác trên thế giới đóng vai trò quan trọng và chiếm
một số lượng đáng kể trong hoạt động thương mại nói chung của Việt Nam. Do
đó, vấn đề phát sinh tranh chấp thương mại quốc tế cũng ngày một gia tăng.Ví
dụ tranh chấp trong hợp đồng mua bán máy thêu giữa Việt Nam và Hàn Quốc
năm 1997 hay tranh chấp giữa Việt Nam và Hồng Kông trong hợp đồng mua
bán gạo
Như vậy, phạm vi của những hoạt động thương mại và tranh chấp thương
mại là rất rộng. Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đa dạng và phức tạp
hiện nay, nhu cầu cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một hành lang
pháp lý an toàn về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại ngày một lớn.
2.2.1. Khái niệm tranh chấp thương mại theo pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003.

Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại mà một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước
ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp
phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài.

11
3. VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI VÀ CÁC NGUYÊN TẮC TRONG
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
3.1. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương
mại.
Khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có
thể thương lượng, hoà giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp hai
bên không thể tự hoà giải được thì có thể đưa vụ việc ra giải quyết bằng toà án
hoặc trọng tài. Trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài thường thì các bên có
xu hướn ngại đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng toà án. Nếu giải quyết toà án
ở quốc gia của một trong hai bên đương sự thì tất nhiên phía bên kia sẽ không
tin tưởng vì e ngại rằng thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự phía nước họ hơn. Còn
nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì cả hai bên đều bỡ ngỡ trước quy tắc,
thủ tục và trình tự tố tụng của quốc gia thứ ba đó. Ngoài ra, tố tụng toà án đòi
hỏi nhiều thủ tục rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền của. Do đó trong thực
tiễn. Trọng tài đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí
của các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục
trọng tài nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp mà ít tốn chi phí
về mặt thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thẻ được tiến
hành bởi một trọng tài viên hay một hội đồng trọng tài tuỳ thuộc vào sự thoả
thuận của các bên.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng buộc các
bên đương sự về mặt pháp lý. Điều đó làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hoà giải hay thương lượng. Hoà giải hay
thương lượng chỉ mang tính chất khuyến nghị chứ không có tính ràng buộc thực
hiện về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Còn quyết định trọng tài mang
hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thi hành.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn toà án.
Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các

12
bên lựa chọn có quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn
độc lập trên cơ sở chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng
con đường khác như trọng tài viên tự điều tra xem xét hay giám định viên và
nhân chứng cung cấp trên cơ sở những quy định của pháp luật. Điều này khiến
cho người ta liên tưởng tới tố tụng toà án. Nhưng về bản chất quyền lực của
trọng tài và toà án khác hẳn nhau. Toà án đại diện cho quyền lực nhà nước còn
trọng tài đại diện cho ý chí của các bên đương sự. Do đó, trong tố tụng trọng tài,
các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn cơ quan trọng tài giải
quyết khi có tranh chấp. Nhưng trong tố tụng toà án, các bên không có quyền
lựa chọn thẩm phán, không có quyền lựa chọn toà án xét xử cho mình.
Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng toà án.
Đặc điểm của tố tụng trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị
trung thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì toà án mới xem xét lại
quyết định trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của
hình thức giải quyết này là một lý do các bên tranh chấp thường hay chọn trọng
tài để giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín tức là không cần
phải đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định trọng tài về vụ tranh
chấp vào quyết định trọng tài (Điều 44 pháp lệnh trọng tài thương mại
2003).Trọng tài không cần phải xét xử công khai như toà án nếu các bên yêu
cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được bí mật những chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể
mà các bên tranh chấp không muốn công khai (liên quan đến bí mật công

nghệ ) giúp tránh được những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này cho các
bên tranh chấp. Chính vì vậy mà các bên tranh chấp thường chọn biện pháp
trọng tài để giải quyết những tranh chấp về thương mại.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã
đáp ứng được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong
quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói chung và
trong quan hệ quốc tế nói riêng. Có thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết

13
tranh chấp mang tính khả thi nhất và là phương thức phổ biến nhất để giải quyết
các tranh chấp thương mại nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
3.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện và
các bên đương sự phải tuân theo. Làm trái các quy tắc tố tụng sẽ dẫn đến những
hậu quả pháp lý vô cùng nghiêm trọng. Chẳng hạn như nếu Hội đồng trọng tài vi
phạm quy tắc tố tụng trong quá trình xét xử thì các bên đương sự có quyền
không công nhận và không thi hành phán quyết trọng tài. Do đó, việc xây dựng
quy tắc tố tụng trọng tài là rất cần thiết và nội dung của nó phải đảm bảo các
nguyên tắc sau:
3.2.1. Nguyên tắc tự nguyện
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì sự hình thành của trọng
tài thực chất là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự. Trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Trọng tài cũng nhân danh ý chí tối cao của các bên. Các bên
đương sự hoàn toàn có thể chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp:
trọng tài thường trực hay trọng tài ad - hoc.
Ngoài ra, trong quá trình tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
các bên vẫn có thể tự thương lượng để đạt đến thoả thuận nhằm thu xếp những
bất đồng đã xảy ra.Trong trường hợp này, trọng tài phải tôn trọng sự thoả thuận
của các bên, đồng thời chấm dứt việc giải quyết.
3.2.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp.

Các bên tranh chấp bình đẳng với nhau trong việc bãi miện hoặc lựa chọn
trọng tài viên, trong việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng, trong việc đưa đơn
yêu cầu về đơn biện minh đối với yêu cầu của phía bên kia, cũng như mọi chứng
cứ tài liệu khác mà các bên cho là cần thiết để chứng minh yêu cầu hay bác đơn
yêu cầu của bên kia, trong việc nhận thông tin từ trọng tài và phía bên kia. Tất
cả thông tin tài liệu do một bên cung cấp cho trọng tài đều phải thông báo cho
phía bên kia. Mọi biện pháp, quyết định của trọng tài tiến hành trong quá trình
giải quyết tranh chấp đều phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp.

14
3.2.3. Nguyên tắc độc lập của các trọng tài viên trong quá trình giải
quyết tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào
hoạt động của trọng tài viên. Một vụ tranh chấp gồm 3 trọng tài viên tiến hành
xét xử thì các trọng tài viên hoàn toàn bình đẳng với nhau, xét xử độc lập căn cứ
vào các điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành. Phán quyết của trọng
tài được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp một trọng tài viên
không đồng ý với nội dung phán quyết - một phần hay toàn bộ thì trọng tài viên
này được quyền bảo lưu ý kiến của mình trong biên bản.
3.2.4. Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp.
Trong giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài thương mại, việc tiến
hành công khai hoặc bí mật đều do các bên lựa chọn. Các buổi họp xét xử của
trọng tài cơ sở thoả thuận của các bên có thể tiến hành trong phòng mà ở đó
ngoài trọng tài viên và các đương sự thì những người không có trách nhiệm hoặc
liên quan không có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi
vấn đề liên quan. Quyết định của trọng tài chỉ được công bố công khai nếu các
bên đồng ý?
3.2.5. Quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không
thể bị kháng cáo.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý

chí tối cao và quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự
do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục
tùng quyết định của người đó. Hơn nữa, bản thân tố tụng trọng tài là tố tụng một
cấp và quyết định trọng tài khi ban hành có gía trị chung thẩm.

15
CHƯƠNG II
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM

1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
CHẾ ĐỊNH TRỌNG TÀI.
1.1. Trọng tài kinh tế nhà nước
1.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1994.
Cơ quan trọng tài đầu tiên ở Việt Nam là hệ thống trọng tài nhà nước
được thành lập theo nghị định số 04/TTg ngày 1/4/1960 của Thủ tướng nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một nghị định khác ban hành ngày 14/1/1960 quy
định về nguyên tắc hoạt động của trọng tài nhà nước là thực hiện chức năng giải
quyết tranh chấp kinh tế vừa thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với công
tác hợp đồng kinh tế. Từ hai chức năng đó ta có thể thấy, trọng tài kinh tế nhà
nước vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản
lý nhà nước đương nhiên trọng tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh của
nhà nước và bản thân trọng tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra mệnh lệnh
hành chính đối với các đối tượng có liên quan nằm trong phạm vi điều chỉnh của
pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt như vậy
mà trong thủ tục xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm
pháp luật hợp đồng kinh tế của trọng tài kinh tế là sự đan xen giữa tố tụng tư
pháp với thủ tục hành chính.
Trọng tài kinh tế nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân cấp quản lý
hành chính: ở mỗi cấp quản lý hành chính đều thành lập cơ quan trọng tài kinh

tế. Hệ thống tổ chức gồm trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh, thành
phố; trọng tài kinh tế huyện, quận và cấp tương đương. Trọng tài kinh tế nhà
nước chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hội đồng bộ trưởng, trọng tài kinh tế các cấp
chịu sự lãnh đạo của ủy ban nhân dân cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo giám
sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Trọng tài kinh tế nhà nước ở cấp trung ương
gồm có chủ tịch, một hoặc hai phó chủ tịch và các trọng tài viên. Chủ tịch trọng

16
tài kinh tế nhà nước do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính
phủ) bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các phó chủ tịch và các trọng tài viên cũng do
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm trên cơ sở được Chủ tịch trọng tài kinh
tế Nhà nước giới thiệu. Các cơ quan trọng tài kinh tế cấp dưới cũng có cơ cấu
tương tự như vậy. Trọng tài viên có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế. Các bên tranh chấp hoàn toàn
không có vai trò gì trong việc chỉ định trọng tài viên để xét xử vụ việc bởi vì
việc đó thuộc quyền hạn của Chủ tịch trọng tài kinh tế có liên quan. Đây là điểm
khác biệt rất cơ bản của trọng tài nhà nước so với trọng tài phi chính phủ (các
bên tranh chấp có quyền tự do hoàn toàn định đoạt các vấn đề trọng tài trong đó
có quyền chỉ định trọng tài viên). Trọng tài nhà nước là các viên chức nhà nước
và họ hưởng lương của nhà nước. Còn đối với trọng tài phi chính phủ thì các
bên tranh chấp có nghĩa vụ phải trả thù lao cho hoạt động của các trọng tài viên.
Khi xét xử, các trọng tài viên của cơ quan trọng nhà nước hoạt động thay mặt
nhà nước chứ không phải chỉ với tư cách là người phân giải độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật và yêu cầu của các bên. Chính vì vậy mà theo điều 10 của pháp
lệnh trọng tài kinh tế, tiêu chuẩn mà trọng tài viên cần có trước tiên là "phẩm
chất chính trị, liêm khiết công minh", rồi sau đó mới là "có kiến thức pháp lý và
quản lý kinh tế cần thiết". Với quy định như vậy, việc giải quyết tranh chấp khó
có thể công bằng và có hiệu quả.
Điều 2 pháp lệnh trọng tài kinh tế 10/1/1990 quy định nhiệm vụ và quyền
hạn của trọng tài kinh tế nhà nước như sau:

a.Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
b. Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật.
c. Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng
tài kinh tế.
d. Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý
các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với
nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư cách là một cơ

17
quan hành chính. Trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt động hiệu quả vì nó
phải đảm đương cùng một lúc hai trách nhiệm.
Nói tóm lại, trọng tài kinh tế nhà nước là một hình thức pha trộn của trọng
tài vì nó không hẳn là trọng tài như ở các nước và cũng không hẳn là toà án. Một
tổ chức trọng tài như vậy chỉ có thể phù hợp với nền kinh tế tập trung mệnh
lệnh.
1.1.2. Từ năm 1994 đến nay.
Từ năm 1986 nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần vận thành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước
ngoặt đó đã dẫn đến một loạt cải cách trong nền kinh tế. Trong đó đáng chú ý là
chủ trương bình đẳng giữa các thành phần trong nền kinh tế, khuyến khích và
phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư
nước ngoài, phát triển đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế Như vậy, bên
cạnh số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các công ty doanh
nghiệp tư nhân cũng ngày một gia tăng. Vấn đề đặt ra là phải cải tạo được một
môi trường dân chủ và công bằng cho tất cả các thành phần trong nền kinh tế.
Điều đó không chỉ có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để bảo
vệ quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp
nhà nước. Ngoài ra, với chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nước ngoài, thu

hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nước phương tây
cũng làm đa dạng hoá các mối quan hệ thương mại.
Do những bất cập trong cơ chế của mình, cùng với những thay đổi của đời
sống kinh tế xã hội, hiện nay trọng tài kinh tế nhà nước không còn tồn tại nữa.
Sau khi trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể năm 1994, theo nghị định 116 - CP
của chính phủ, các trung tâm trọng tài kinh tế đã và sẽ được thành lập. Tổ chức
và hoạt động của trọng tài kinh tế do Điều lệ quyết định. Mặc dù mang tính chất
là các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các trung tâm trọng tài kinh tế vẫn chịu sự
quản lý trực tiếp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập trung tâm, chỉ
định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ trọng tài viên Hiện

18
nay Việt Nam có một số trung tâm trọng tài kinh tế hoạt động, tiêu biểu như:
Trung tâm trọng tài kinh tế Bắc Giang (tỉnh Bắc Giang), Trung tâm trọng tài
kinh tế Hà Nội (Thành phố Hà Nội), trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long
(thành phố Hà Nội), Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn (thành phố Hồ Chí
Minh)
1.2. Trọng tài thương mại quốc tế.
1.2.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1993.
Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, để có thể giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh mô hình tổ chức
trọng tài kinh tế nhà nước còn có các tổ chức trọng tài giải quyết các tranh chấp
thương mại quốc tế.
Vào đầu năm 1960, thực tiễn khách quan đòi hỏi Việt Nam phải thành lập
các tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh tế
quốc tế, đặc biệt là trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam với Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy rằng tỷ trọng buôn bán với nước ngoài của
Việt Nam không lớn nhưng việc thành lập một tổ chức trọng tài mang tính chất
xã hội nghề nghiệp để giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước giải quyết
tranh chấp kinh tế là cần thiết. Do đó hai hội đồng trọng tài là hội đồng trọng tài

ngoại thương đã được thành lập ngày 30/4/1963 và Hội đồng trọng tài hàng hải
thành lập ngày 5/10/1964 bên cạnh phòng thương mại Việt Nam.
Chức năng của Hội đồng trọng tài ngoại thương chỉ hạn chế trong việc
giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các
doanh nghiệp nước ngoài đối với các giao dịch thương mại trong phạm vi các
hiệp định đã ký kết (điều 2 quy tắc tố tụng của Hội đồng trọng tài ngoại thương
năm 1963). So với Hội đồng trọng tài ngoại thương, Hội đồng trọng tài hàng hải
có thẩm quyền rộng hơn vì thẩm quyền đó không chỉ xuất phát từ các hiệp định
mà Việt Nam ký kết mà còn từ thoả thuận của các bên đưa tranh chấp của họ ra
giải quyết tại Hội đồng trọng tài hàng hải và chấp thuận quy tắc trọng tài của
Hội đồng trọng tài hàng hải.

19
Trên thực tế, cho đến năm 1986, số lượng tranh chấp phát sinh trong quan
hệ giữa Việt Nam và các nước ngoài Hội đồng tương trợ kinh tế là rất ít. Nguyên
nhân là do trong thời kỳ chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam yếu kém và chủ yếu
phụ thuộc vào sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.Trong bối cảnh đó,
tranh chấp thường xảy ra rất ít, nếu có thì các bên liên quan thường giải quyết
bất đồng thông qua bồi thường tự nguyện hơn là bằng trọng tài thương mại
mang tính tố tụng.
1.2.2. Giai đoạn từ 1993 đến nay
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch sang một nền kinh tế thị
trường, các quan hệ thương mại quốc tế ngày một đa dạng.Việc khuyến khích
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng các mối quan hệ thương
mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.Thêm vào đó, kể từ khi nhà nước
thừa nhận và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân
hình thành và phát triển nhanh chóng. Trước tình hình đó, việc duy trì song song
hai tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải có
những điểm chưa hợp lý và không đáp ứng được tình hình giải quyết tranh chấp
thương mại trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong hầu hết các tranh chấp, đa

số bao gồm luôn cả hai yếu tố ngoại thương và hàng hải. Ngoại thương quốc tế
đa phần gắn với hàng hải quốc tế. Hai tổ chức này ở Việt Nam, xét về mặt tính
chất đều là những tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trình tự tố tụng được quy định
giống nhau (chỉ khác nhau về đối tượng tranh chấp). Các quy tắc của cả hai Hội
đồng trọng tài này nhìn chung mới dừng lại ở tính nguyên tắc, chưa đầy đủ,
thiếu chi tiết.
Trước những đòi hỏi của tình hình mới, ngày 28/4/1993, Thủ tướng chính
phủ ra quyết định số 204/TTg cho phép thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam (VIAC) bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam trên cơ
sở hợp nhất hai Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải.
Hoạt động của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được quy định trong văn
bản đi kèm theo quyết định 204/TTg.

20
Trong tài phi chính phủ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế của nước ta do đó đặt ra nhu cầu thiết yếu xây dựng quy chế pháp
lý cho hoạt động của tổ chức này. Trước tình hình đó, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội đã thông qua pháp lệnh số 08 năm 2003 về trọng tài thương mại Việt Nam.
Đây là văn bản pháp luật cao nhất về vấn đề này từ trước tới nay, tạo cơ sở
thuận lợi cho việc phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài ở Việt Nam.
2. NHỮNG NÉT MỚI CỦA PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI 2003 SO VỚI NGHỊ ĐỊNH 116/CP VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TRỌNG TÀI
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 (sau đây gọi là pháp lệnh 2003) đề
cập tới những vấn đề và quy định mà Luật tố tụng dân sự của Việt Nam chưa đề
cập tới. Sự bổ sung này khiến cho chế định trọng tài của Việt Nam trở nên khá
phù hợp với các quy định của quốc tế. Do đó pháp lệnh 2003 đóng một phần rất
quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động thương mại của Việt Nam. Việc áp
dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 khá độc lập so với luật tố tụng dân sự

Việt Nam.
2.1. Những điểm tiến bộ mới pháp lệnh 2003 so với nghị định 116/CP.
2.1.1. Vấn đề phạm vi điều chỉnh.
Điều 1 nghị định 116/CP quy định: "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội -
nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công
ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh
chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu".
Trong khi đó, điều 1 pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định phạm
vi điều chỉnh của pháp lệnh này là giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên. Pháp lệnh cũng nêu ra
định nghĩa cụ thể về hoạt động thương mại: là việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thương mại cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho

21
thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính; ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại
khác theo quy định của pháp lụât.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng đối tượng của giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài trong nghị định 116/CP hẹp hơn so với pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003. Nghị định chỉ nêu đối tượng tranh chấp là giữa các công ty với thành
viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau. Trong khi đó, pháp
lệnh 2003 lại quy định đối tượng rộng hơn nhiều, đó là cá nhân và tổ chức kinh
doanh, có nghĩa là giữa các cá nhân với nhau, giữa các tổ chức kinh doanh với
nhau và giữa tổ chức kinh doanh và cá nhân.
Hơn nữa, pháp lệnh 2003 cũng quy định một cách rõ ràng với những lĩnh
vực tranh chấp, pháp lệnh cũng để ngỏ "các hành vi thương mại khác theo quy
định của pháp luật" để tiện cho việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với những hoàn

cảnh mới sau này.
2.1.2. Vấn đề thoả thuận trọng tài
Trước đây, pháp luật Việt Nam quy định về thoả thuận trọng tài khá là gò
bó, không được thoáng và không tương đồng với các thông lệ quốc tế. Chẳng
hạn như vấn đề hình thức của văn bản thoả thuận. Theo như điều 1 pháp lệnh
hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế phải được ký kết dưới hình thức văn bản.
Như vậy, nếu như điều khoản này bị vi phạm thì hợp đồng kinh tế sẽ vô hiệu.
Nghị định 116/CP cũng quy định thoả thuận trọng tài phải được đưa ra hình thức
văn bản (khoản 2 điều 3). Trong khi đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
hiện đại, thương mại quốc tế cũng đã có những bước phát triển về hình thức giao
dịch để có thể tiết kiệm được thời gian. Vấn đề ký kết hợp đồng qua mạng
Internet, qua máy fax không còn là vấn đề mới mẻ và cũng khá phổ biến ở
Việt Nam. Chính vì vậy mà cần phải có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh
mới. Điều 9 khoản 1 pháp lệnh 2003 nêu: "Thoả thuận trọng tài phải được lập
bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, thư điện tử
hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh

22
chấp trọng tài được là thoả thuận trọng tài bằng văn bản". Như vậy hình thức
thoả thuận trọng tài khá là đa dạng.
Một trong những nét tiến bộ hơn hẳn của pháp lệnh 2003 so với nghị định
116/CP đó là vấn đề tính độc lập của thoả thuận trọng tài với hợp đồng. Nhiều ý
kiến cho rằng thoả thuận trọng tài là một phần của hợp đồng. Do đó, khi hợp
đồng vô hiệu hoàn toàn thì thoả thuận trọng tài cũng sẽ vô hiệu. Như vậy nếu
như có một bên cố tình làm vô hiệu hoàn toàn hợp đồng thì một cách hợp pháp
họ có thể tránh được việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này làm
giảm vai trò của trọng tài trọng thực tiễn giải quyết những tranh chấp giữa các
bên. Tuy nhiên, đến pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 thì quan điểm đã được
bày tỏ rõ ràng: "Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp
đồng hoặc là một thoả thuận riêng" (điều 9 khoản 2).Điều đó có nghĩa là điều

khoản trọng tài có thể được hiểu là "một hợp đồng trong một hợp đồng".
2.1.3. Vấn đề trọng tài viên.
Một trong những điểm mới và được cọi là tiến bộ của pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003 là quy chế trọng tài viên. Lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật
Việt Nam công nhận trọng tài viên không nhất phải là người được đào tạo về
khoa học pháp lý.Trọng tài viên chỉ cần là người có hiểu biết sâu rộng, có kinh
nghiệm về vấn đề tranh chấp. Trọng tài viên chỉ cần là người có uy tín và được
các bên tin tưởng yêu cầu làm trọng tài viên trong khi chuyên ngành mà ông ta
được đào tạo có thể là Quản trị kinh doanh chứ không phải luật kinh tế. Thậm
chí trọng tài viên theo quy định của pháp luật cũng không cần phải là người
chuyên làm trọng tài. Có thể ông ta chưa bao giờ làm trọng tài nhưng vẫn được
mời làm trọng tài viên, lần giải quyết tranh chấp đó là lần duy nhất trong đời ông
ta làm trọng tài nhưng ông ta vẫn được công nhận là trọng tài tức là những quyết
định của ông ta đưa ra có giá trị trung thẩm nếu như ông ta đáp ứng đủ những
yêu cầu sau của pháp lệnh (điều 12):
- Công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có thẩm chất
đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan; có bằng đại học và đã qua thực tế
công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên.

23
- Ngoài ra người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích thì không được làm
trọng tài viên.
- Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức đang
công tác tại toà án nhân dân, Viên kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan
thi hành án không được làm trọng tài viên.
Quy chế trọng tài viên của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có quy
định cụ thể một trong những tiêu chí để trở thành trọng tài viên là phải tốt
nghiệp đại học và có 5 năm kinh nghiệm trong ngành mà mình được đào tạo.
Quy định này hoàn toàn mới so với nghị định 116/CP về trọng tài kinh tế. Đến

pháp lệnh này, những tiêu chuẩn của trọng tài viên đã được nâng cao hơn. Việc
quy định như vậy càng đảm bảo tính đúng đắn của quyết định trọng tài. Vì
trọng tài càng là người có kiến thức tốt, có nhiều kinh nghiệm thì sẽ càng có lợi
cho việc giải quyết các vụ tranh chấp giữa các bên.
2.1.4. Vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong quá trình tố tụng trọng tài.
Theo quy định tại khoản 1 điều 24 của nghị định 116/CP thì: Tiếng nói,
chữ viết dùng trong quá trình giải quyết tranh chấp là tiếng Việt. Như vậy, ngôn
ngữ sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp được pháp luật ấn định và các
bên không có quyền thoả thuận. Nếu trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài
mà các bên đương sự chọn giải quyết bằng trọng tài Việt Nam thì vẫn phải sử
dụng tiếng Việt và thuê phiên dịch tiếng nước ngoài. Điều này gây rất nhiều cản
trở cho việc giải quyết các tranh chấp. Bởi vì trong thời đại ngày nay, hoạt động
thương mại không chỉ thu hẹp trong nội bộ quốc gia mà các doanh nghiệp nước
ngoài cũng thường xuyên tìm đến Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cũng
muốn mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài. Tuy nhiên, pháp lệnh 2003 đã
có những phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới bằng việc quy định cho phép sử
dụng tiếng nước ngoài trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài
(điều 49). Điều này làm tăng tính hấp dẫn của cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Nhưng nó cũng đặt ra một thách thức đối

24
với các trung tâm trọng tài Việt Nam về việc phải đổi mới và bổ sung hơn nữa
về mặt sử dụng ngôn ngữ, chủ yếu là các ngôn ngữ thông dụng.
2.1.5. Nguyên tắc áp dụng luật để giải quyết vụ tranh chấp.
Đối với vụ tranh chấp giữa các bên Việt Nam, Hội đồng trọng tài áp dụng
pháp luật của Việt nam để giải quyết tranh chấp. Đối với vụ tranh chấp có yếu tố
nước ngoài Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Việc lựa
chọn pháp luật nước ngoài và việc áp dụng pháp luật nước ngoài không được
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong trường hợp các bên
không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng

tài quyết định. (điều 7 pháp lệnh 2003).
2.1.6. Tính cưỡng chế của quyết định trọng tài.
Quyết định trọng tài được đưa ra theo nguyên tắc đa số trừ trường hợp vụ
tranh chấp do một trọng tài viên giải quyết. ý kiến thiểu số được ghi vào biên
bản phiên họp (điều 42 pháp lệnh 2003). Quyết định trọng tài phải có đầy đủ
chữ ký của các trọng tài viên. Trường hợp có trọng tài viên không ký vào quyết
định trọng tài thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải ký thay và ghi rõ lý do (điều
44 pháp lệnh 2003).Trong quyết định trọng tài có thể không nêu ra các vấn đề
tranh chấp, cơ sở của các quyết định về vụ tranh chấp nếu như các bên có yêu
cầu. Quyết định trọng tài là quyết định mang tính trung thẩm. Trong nghị quyết
116/CP thì tính trung thẩm của quyết định trọng tài chỉ kéo dài đến khi có một
bên yêu cầu. Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế (điều 31).
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN.
Thẩm quyền hoạt động của trọng tài dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của
các bên thể hiện bằng một điều khoản trọng tài hay thoả thuận trọng tài. Các bên
tự nguyên đưa tranh chấp ra giải quyết bằng một uỷ ban trọng tài, tự thoả thuận
về phạm vi tranh chấp mà uỷ ban trọng tài được quyền giải quyết Như vậy,
quyền lực trọng tài bắt nguồn từ "quyền lực theo hợp đồng" hay "quyền lực đại

×