Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Mỹ thuật Lê sơ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.47 KB, 18 trang )

Mỹ thuật Lê sơ
Phần mở đầu

Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự xưng vua, lấy hiệu là
Thánh Nguyên, đổi tên nước là Đại Ngu. Như vậy là sau triều Trần một
triều đại mới bắt đầu: đó là triều đại nhà Hồ(Lê Quý Ly đổi sang họ
Hồ)
Đến ngày 19 tháng 11 năm 1406, nhà Minh vượt qua biên giới đánh về
Thăng Long. Đến ngay 10 tháng 01 năm 1407, thành Đa Bang thất thủ,
tuyến phòng ngự chống quân Minh của nhà Hồ bị phá vỡ.Tháng 6 năm
1407 cuộc kháng chiến của quân nhà Hồ bị thất bại, nước ta rơi vào tay
quân xâm lược nhà Minh
Sau đó cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã thu hút nhiều
sĩ phu yêu nước mà nhân dân kéo dài trong 10 năm(1417-1427) đã
thắng lợi vẻ vang .Quân Minh bị đánh đuổi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra
triều đại nhà Lê. Thời kì này còn được gọi là nhà Lê Sơ hay hậu Lê để
phân biệt với thời tiền Lê của vua Lê Đại Hành. Thời kì này kéo dài
100 năm và ở bài này ta đề cập đến hai phần chính:
Một là hoàn cảnh thời Lê Sơ và tình hình chung về mỹ thuật.Hai là phát
triển các loại hình nghệ thuât. Hai nội dung chính đó được trình bày cụ
thể như sau.

I : Hoàn cảnh xã hội thời Lê Sơ và tình hình chung về mỹ thuật
Trong 20 năm đầu thế kỉ XV, quân Minh đã tàn phá nhiều công trình
kiến trúc và điêu khắc của dân tộc ta, hòng huỷ diệt nền văn hoá dân
tộc của ta và âm mưu đồng hoá dân tộc. Khi sang xâm lược chúng đã
được lệnh: "khi tiến quân vào An Nam chỉ trừ những bản kinh và sách
về thích, đạo không huỷ còn tất cả các bản in sách các giấy tờ cho đến
sách học của trẻ em như loại:thương, đại , nhân , khâu ,ất ,kỉ thì nhất
thiết một mảng giấy , một chữ viết đều phải tiêu huỷ hết.Trong nước đó
chỉ có những bia do Trung Quốc dựng lên ngày trước thì để lại ,còn


những bia do An Nam lập ra thì phải phá cho hết,một chữ cũng không
được để lại"
Những nguòi thợ tài giỏi ,trong đó có Nguyễn An bị chúng bắt đem về
nước.Sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã ra nhiều chính sách để phục hồi
nền kinh tế nhất là những chính sách về nông nghiệp như khai khẩn
ruộng hoang ,những người đi phiêu bạt các nơi nay được lệnh trở về
quê quán làm ăn ,hệ thống đê điều được tu bổ , sửa sang Tất cả
những điều đó làm cho nền kinh tế nông nghiệp thời lê phát triển , cải
thiện một phần đời sống của nhân dân .Về quân đội thì vẫn duy trì chế
độ một phiên thường trực thay đổi nhau còn bốn phiên khác cho về quê
quán làm ăn.Đến thời Lê Thánh Tông số quân đã tăng lên gấp rưỡi và
chỉ chia làm hai phiên thay nhau về sản xuất nông nghiệp .
Vào khoảng nửa sau thế kỉ XV,nhất là vào thời vua Lê Thánh Tông
,chế độ phong kiến tập quyền phát triển đến mức cực thịnh .Bộ luật
Hồng Đức được ban hành.Mặc dù nội dung cơ bản của bộ luật này
cũng chứng tỏ sự phát triển của nhà nước phong kiến thời Lê .mặt khác
nó còn phản ánh khá rõ nét tính dân tộc ,bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
,dân tự do,ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và lãnh thổ.Sang thời lê,cơ sở
kinh tế của giai cấp phong kiến là kinh tế địa chủ .cùng với việc phát
triển chế độ quân chủ chuyên chế , nhà Lê củng cố chế độ đẳng cấp
phong kiến và truyền bá ý thức hệ nho giáo .Do đó mặc dù cuối thời
Trần các nho sĩ đã đấu tranh mạnh với phật giáo thì sang thời Lê Sơ,
nho giáo đã phát triển mạnh ,được nhà nước ủng hộ và nhanh chóng
dành được địa vị thống trị .Về mặt tư tưởng thì nhà nước ra nhiều sắc
lệnh để hạn chế phật giáo.Nho sĩ được đề cao ,việc đào tạo nhân tài chủ
yếu qua con đường thi cử
Tất cả tình hình trên đã góp phần tác động đến sự phát triển của nghệ
thuật tạo hình thời Lê Sơ.Nếu như ở thời Lý ,Trần nghệ thuật nho giáo
phát triển mạnh thì đến nay bị hạn chế.Đến thời vua Lê Thánh Tông
,phật giáo và cả đạo giáo bị hạn chế chặt chẽ hơn , nghiêm ngặt hơn.Vì

vậy có thể nói vào thời Lê Sơ,mĩ thuật phục vụ tư tưởng nho giáo của
giai cấp thống trị phát triển mạnh hơn nghệ thuật phật giáo và nghệ
thuật dân gian .Bên cạnh việc thừa kế những tinh hoa của mỹ thuật thời
Lý , thời Trần thì mỹ thuật thời Lê Sơ phát triển với nhiều nguồn ảnh
hưởng khác nhau.Nho giáo được phát triển, nhà nước phong kiến lấy
nho giáo làm mẫu mực cho việc dưng nước trị dân .Lúc này vai trò của
vua được thần thánh hoá, sự phân biệt đẳng cấp trên dưới và các trật tự
phong kiến được củng cố.Điều này khiến cho mỹ thuật thời Lê phần
nào bị ảnh hưởng văn hoá phương bắc,nhất là ở khu vực mỹ thuật cung
đình .Tuy vậy sau khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi , ý thức
độc lập dân tộc càng được khẳng định .Bởi vậy khi xây dựng các công
trình kiến trúc hoặc sáng tạo nghệ thuật tạo hình .Mặc dù công trình
thuộc về những người thợ vẫn đưa vào tác phẩm các biểu hiện của mỹ
thuật dân gian
II : Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật .
nghệ thuật kiến trúc thời Lê :
Trong thời Lê Sơ nhiều loại kiến trúc được phát triển như:kiến trúc
cung đình,kiến trúc lăng mộ , kiến trúc đền miếu trường thi Bên cạnh
đó, do truyền thống ưa chuộng đạo phật từ lâu đời , nhà nước cũng chú
ý cho tu sửa nhiều ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý,Trần nay đã bị
đổ nát ,hư hỏng.vậy chúng ta hãy cùng tìm hỉêu về các công trình kiến
trúc đó nhé.
a. về kiến trúc cung đình :
trong 20 năm bị giặc minh thống trị , kinh thành Thăng Long bị tàn phá
nặng nề .Sau khi lên ngôi Lê Lợi đả cho xây dựng lại kinh thành cho
xứng đáng với tầm vóc của một nhà nước phong kiến hùng mạnh. Năm
1430 thành Thăng Long xưa được đổi tên là thành Đông Kinh để tương
ứng với khu cung điện ở Lam Sơn (Thanh Hoá) thành Đông Kinh nay
còn lại rất ít dấu vết. Trên đất Hà Nội còn giửa lại được bốn thành bậc
cửa điện Kinh Thiên, thành bậc cửa đàn Nam Giao và mộit số di vật

khác ở khu lam kinh(Thanh Hoá)
Điện Kinh Thiên là công trình chính trong thành Đông Kinh thời Lê
đây là nơi coi trầu bàn việc nước. Ngày nay căn cứ trên kích thước
thành bậc cửa còn lai giúp chúng ta hình dung ra quy mô của điện cung
như của kinh thành xưa. Thành bậc cửa điện Kính Thiên có chiều cao
13,7m chiều rông 4,45m và chiều cao 2,1m đây là tác phẩm nghệ thuật
điêu khắc bằng đá của thời lê Sơ có niên đại xác định năm 1467. Ngoài
ra còn có cung điện Lam Kinh- là nơi tụ họp sinh sống của họ hàng
thân thích nhà vuagiống như phủ Thiên Trường thời Trần. Theo sử sách
để lại, điện Lam Kinh có kích thước 315x256(m), được xây dựng theo
đồ án gần như một hình chữ nhật. Bởi vì cạnh phía sau của điện lại
được tạo bởi một đường cong. Toàn bộ điện lam kinh gồm ba lớp nền
cao dần trên triền đồi. Lớp nền thứ nhất gồm cổng ngoài, hồ. Cổng
trong và sân điện. Cổng trong có mặt bằng hình vuông cạnh 15m. Điện
chính nằm ở lớp nền thứ hai gồm có ba ngôi nhà bố cục theo kiểu chữ
công. Lớp nền thứ ba còn lại dấu vết của chín nền nhỏ xếp theo hình
vòng cung ôm lấy điện Lam Kinh. Phía sau cũng còn thấy dấu vết của
giếng nước. Qua sử sách ta còn được biết, ngoài các công trình kể trên ,
còn có các công trình kiến trúc như Thái Miếu, Nhà ở của các quan
b . kiến trúc tôn giáo:
Kiến trúc chùa tháp: do phật giáo bị hạn chế nên các chùa mới không
được dựng thêm nhiều, nhưng việc trùng tu các chùa củ vẩn được duy
trì. Năm 1434, chùa Bảo Thiên nổi tiếng từ thời Lí, Trần được xây
dựng lại. Một số công trình khác như chùa Thanh Đàm, Chiêu Đô,
Minh Độ, chùa Bút Tháp(Bắc Ninh) được tu sửa mở rộng.
Chùa Thầy được sửa lại năm 1499 Trong các làng xã, dân làng cũng
góp tiền để tu bổ chùa, phật điện của làng mình như chùa Bối Khê,
chùa Quang Kháng, Minh Khánh(1515) Chùa Keo ở huyện Vũ Thủ,
Thái Bình là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc phật
giáo. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lí. Sau đó được tu sửa lớn vào

đầu thế kỷ XVII. Toàn bộ khu chùa gồm 154 gian(hiện còn 128 gian).
Có tường bao quanh bốn phía. Bên trong là các công trình kiến trúc nối
tiếp nhau trên đường trục: Tam Quan Nội- Khu Tam Bảo thờ phật, khu
điện thờ thánh,cuối cùng là gác chuông. Những công trình này có độ
gấp mái liên tiếp với độ cao tăng dần và cao nhất là gác chuông bốn
tầng cao 12 m.
Gác chuông Chùa Keo là một công trình kiến trúc bằng gỗ tiêu biểu, có
cách lắp ráp, kết cấu vưà chính xác, vừa đẹp về hình dáng, xứng đáng
là công trình kiến trúc nổi tiếng của nền nghệ thuật cổ Việt Nam.
Kiến trúc đền miếu để phục vụ cho nhu cầu thờ thần, thánh và các anh
hùng dân tộc, nhà Lê đã ban hành sắc lệnh duy trì đền miếu thờ
xâydựng từ các thời kỳ truớc. Ngoài ra nhà Lê còn cho xây dựng đền
miếu nhiều nơi trong nước. Từ đền miếu thờ, những người có công với
đất nước như Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo Cho đến
những tấm gương trung quân ái quốc, các anh hùng liệt nữ cũng được
xây dựng miếu thờ cúng.

Đến thời Lê Sơ, nho giáo đã thắng thế. Vì vậy bên cạnh việc tu sửa,
trùng tu các công trình kiến trúc phật giáo,các đền miếu thờ, kiến trúc
nho giáo cũng được chú ý xây dựng. Miếu thờ Khổng Tử và học trò
giỏi của ông được xây dựng ở Thăng Long ở thời Lí nay cũng được mở
mang vào những năm 1483, 1484, 1511. Các điện sáng nho, hai nhà
bia Được xây dựng hoặc làm mới vào thời Lê Sơ. Tượng phật Bà
Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay(chùa bút tháp ở Bắc Ninh) bằng gỗ,
được tạc vào năm 1656 là pho tượng đẹp nhất trong số các pho tượng
quan âm cổ ở Việt Nam.
Tượng: phật bà quan âm nghìn mắt nghìn tay
(chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh)
Đây là tượng đức phật với 42 tay lớn và 952 tay nhỏ toạ lạc trên toà sen
cao 2m(cả bệ cao 3,7m).Tượng đá được các nghệ nhân xưa thể hiện

bằng nghệ thuật điêu luyện, kỷ thuật tinh sảo diển tả vẽ đẹp tự nhiên,
hài hoà thuận mắt. Tượng thể hiện tư thế thiền định các cánh tay đưa
lên trông như đoá sen đang nở. Vòng ngoài là những tay nhỏ(trong mỗi
lòng bàn tay có một con mắt) tạo thành vòng hào quang toả sáng xung
quanh pho tượng. Toàn bộ tượng là một thể thống nhất trong cách diễn
tả đường nét và hình khối khiên cho tác phẩm tránh được sự đơn điệu
của phần lớn các pho tuợng phật.
Đến ngày nay, các công trình kiến trúc thời Lê như Văn Miếu cũng đã
được sửa chữa nhiều lần bởi vây mà quy mô vá cấu trúc mặt bằng cũng
được thay đồi. Phần lớn các công trình văn miếu ta thấy ở ngày nay
được làm cuối thế kỷ XVIII và thời Nguyễn gần đây nhất, năm 2000,
nhà nước đã cho tu sửa và làm lại nhà thái học trong khu văn miếu-
Quốc Tử Giám với mục đích tìm lại vẻ đẹp hoàn thiện cho một khu di
tích lịch sử nghệ thuật của Thăng Long ngàn năm văn hiến và khơi dậy
truyền thống hiếu hoc của dân tộc.

c. kiến trúc lăng mộ.
Các lăng mộ thời Lê sơ tập trung ở Lam Sơn . Đây vừa là quê hương
của nhà Lê vừa là nơi dấy cờ khởi nghĩa lớn, ở đây có sáu ngôi mộ cổ
của các vua đầu triều lê như : Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông , Lê Nhân
Tông , Lê Hiến Tông , Lê Túc Túc . Ngoài ra còn có mộ của các bà
Hoàng Hậu và công chúa thời Lê như mộ bà Ngô Thị Ngọc Giao,
Nguyễn Thị Ngọc Huyền, công chúa Thụy Hoa nhưng có lẽ lăng lớn
nhất ở khu Lam Kinh là lăng Lê Thái Tổ(Vĩnh Lăng).
Lăng Lê Thái Tổ được xây dựng đầu tiên và cũng là tiêu biểu cho kiến
trúc lăng mộ thời Lê, lăng có kích thước 24x24,7m. Đồng thời đây
cũng là lăng mộ lớn nhất trong số các lăng mộ ở Lam Kinh. đến thời Lê
Sơ, lăng cũng còn rất đơn giản, quan trọng nhất là ngôi mộ đất có xây
bỏ móng xung quanh. Dọc trên con đường dẫn vào mộ được sắp xếp
hai dãy tượng đối xứng qua trục thần đạo. kể từ trong ra ngoài, các

tượng được đặt theo thứ tự: quan hầu, lân, tê giác, ngựa và hổ ở ngoài
cùng. Phía bên phải lăng có nhà bia Vĩnh Lăng.

Công trình này được tu sửa năm 1960 theo cách kiến trúc cũ, đến nay
vẩn còn nguyên vẹn nhà bia không tường bao quanh chủ yếu là kết cấu
các hàng cột chịu lực, đến mái. Toàn bộ nhà bia không xây tường bao
quanh, chủ yếu là kết cấu các hàng cột chịu lực, đổ mái. Toàn bộ nhà
bia có bố cục mặt bằng hình vuông, mổi cạnh 8,75m. Đây là một phần
đáng kể trong kiến trúc lăng Lê Thái Tổ. Các lăng khác ở Lam Kinh
đều có cấu trúc tương tự. Tuy nhiên đến nay hầu như các công trình
lăng mộ không còn ngưyên vẹn, tượng đá cái thì vỡ, cái thì bị di
chuyển nên không còn giữ lại được nhiều dấu vết xưa. Phần lớn các
lăng khi xây dựng đều có tường bao bọc trừ lăng Lê Hiến Tông.
Ngoài khu Lam Kinh, ở một số nơi khác cũng có lăng mô. Nhưng các
lăng mộ này cũng có hiện trạng giống như lăng mộ ở Lam Sơn. Dấu
tích của kiến trúc xưa hầu như không có gì đáng kể. Nhìn chung các
lăng mộ thời Lê Sơ đã được chú ý xây dưng và quy tụ về một nơi. Tuy
vậy phần lớn các lăng đều đều có kích thước nhỏ hơn so với thời trần
và các thời sau. Về kiểu dáng cũng chưa có gì đặc biệt. Thành phần cấu
trúc chỉ bao gồm: mộ, tượng trang trí, nhà bia. Thực sự các công trình
này chỉ là nơi đặt mộ của vua hoặc hoàng hậu theo đúng tinh thần của
tiến ngưỡng thờ phụng tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Lăng mộ của các
vua đại việt ta thuở ấy không mang ý nghĩa thể hiện uy quyền của thiên
tử như quan niệm của một số dân tộc khác ở phương tây và trên toàn
thế giới.
Nghệ Thuật Điêu Khắc Thời Lê Sơ
Cũng giống như các thời kì trước, ở thời Lê Sơ điêu khắc vẫn gắn bó
mật thiết với kiến trúc. Với sự phát triển của các lăng mộ, những tác
phẩm điêu khắc của thời Lê Sơ tìm được chủ yếu ở thể loại kiến trúc
này . Đó là những tượng quan hầu ,tượng thú, là những hình chạm khắc

trên các thành bậc cửa điện Kính Thiên ,đàn Nam Giao trên các bia ở
lăng mộ và bia tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội).
a .Điêu khắc lăng mộ
Các lăng mộ thời Lê Sơ thường trang trí bằng 10 pho tượng chia làm
5đôi gồm :người ,lân.tê giác, ngựa, hổ ở một số lăng muộn hơn có sự
thay0 đổi nhỏ:tượng voi thay cho tương hổ ,còn các tượng khác vẫn giữ
nguyên .
Những pho tượng này đều nhỏ . kích thước trung bình là 1,1 m đối vơi
tượng người Và 0,60m với tượng thú.Một đặc điểm nổi bật , dễ dàng
nhận thấy là các pho tượng lăng mộ thời Lê Sơ có sự sắp xếp ,bố cục và
kích thước đều nhau ở các lăng mộ ,bắt đâù từ lăng Lê Lợi .Vì vậy bố
cục mặt bằng,số lượng và thể loại tượng ở lăng Lê Lợi trở thành mẫu
mực .Các lăng thời kì sau cứ theo thế mà làm và cũng không thể thay
đổi hoặc vượt qua hình mẫu,kích thước của Vĩnh Lăng. Điều này phần
nào bộc lộ tính khuôn thước, mẫu mực theo tinh thần nho giáo. Các
lăng đều nhỏ, do đó, tượng đặt ở lăng cũng không được quá lớn . Quy
mô của kiến trúc sẽ quy định quy mô, kích thước cho tác phẩm điêu
khắc.

Với những pho tượng nhỏ bé như vậy,cách thể hiện cũng đơn giản ,bỉểu
hiển ở cách tạo dáng, khối, đường nét.Tỉ lệ giữa các phần chi tiếtcũng
chưa thật chính xác.tuy vậy giưã tượng nọ với tượng kia có sự thay đổi
để làm rõ đặc điểm của từng hình tượng .Tất cả đều được tạo ra từ một
khối đá. Hoa văn trang trí trên tượng ít.Từ cách tạo hình đến đường nét
trên các pho tượng phần nào bộc lộ tính dân gian .Tinh chất nho giáo có
thể biểu hiện ở nội dung, ở cách chọn lựa các hình tượng, cách sắp xếp
đôí xứng qua thần đạo
Nhưng tác giả của các pho tượng đó lại chính là những người thợ xuất
thân từ nông dân hoăc những người lao động bìng thường.Vì vậy khi
làm ra các tác phẩm này họ vẫn bị chi phối bởi những quan điểm ,thị

hiếu thẩm mĩ dân gian .Tuy vậy tính chất nàycó thể thay đổi ở từng
lăng ,từng thời gian khác nhau. Nếu xét trên Tổng thể 100 năm tồn tại
của nhà Lê, phong cách có sự chuyển biến ,thay đổi theo một quy luật
nhất định .Thời kì đâù,điêu khắc của Lê Sơ vẫn là sự kế thừa những nét
tinh hoa của mĩ thuật Lý ,Trần. Điều này thể hiện rõ trong điêu khắc ở
lăng Lê Thái Tổ.Lăng Lê Thái Tông làm năm 1442và phong cách điêu
khắc ở lăng này biểu hiện sự chuyển tiếp từ Lý ,Trần sang Lê tuy chưa
rõ nét .Có thể nói , phong cách điêu khắc Lê Sơ đã thể hiện rõ bắt đầu
từ thời Lê Thánh Tông .

Đây cũng chính là thời kì phát triển cực thịnh của phong kiến Lê Sơ.
Có lẽ vì thế mà các tác phẩm thời kì này được thể hiện với phong cách
hoa mĩ , nuột nà,cầu kì hơn nhiều điêu khắc thời trước đó .Tính dân
gian giảm dần,ngược lại tính chính thống thể hiện rõ hơn trong tác
phẳm .Mặc dù vậy, thời gian trôi qua ,điêu khắc Lê Sơ đã để lại một
phong cách riêng biệt thể hiện trên các tác phẩm còn lại đến ngày
nay.phong cách đó tạo mạch nối liền quá trình phát triển của mĩ thuật
dân tộc .Gía trị của nó chính là được thừa kế và phát triển trên truyền
thống và cơ sở dân gian hình thành từ các các thời kì trước .Đó là sự
mềm mại ,tinh tế trong đường nét, chặt chẽ ,khái quát và mang tính
biểu hiển ,tượng trưng cao trong bố cục các hình tượng nghệ thuật của
các tác phẳm điêu khắc.Một trong những tác phẩm điển hình là bia
Vĩnh Lăng . Đây là một tấm bia đá tương đối lớn, còn nguyên vẹn .Bia
được đặt trên lưng một tượng rùa có kích thước tương đương. Bia Vĩnh
Lăng cao 2,80m,rộng 1,92m và dày 0,27m.Trong khi đó tượng rùa cao
0,80m,dài 3,58 và rộng 1,94m.Điều đáng chú ý là các tác giả thời Lê
Sơ đã ghép được bia vào tượng rùa bằng một kĩ thuật đặc biệt.Vì vậy
suốt bao nhiêu năm tồn tại ,bia lăng mộ vẫn được gắn vững chãi với bệ
rùa trông như tác phẩm bia và thần rùa được tạo ra từ một khối đá
lớn.Trang trí trên biaVĩnh Lăng vẫn được làm theo truyền thống

xưa.Diềm bia đươc trang trí bằng hình tượng con rồng bố cục trong nửa
lá đề nối tiếp nhaugiống như thời Lý.Vũ cơ bản hình tượng rồng trên
bia Lăng Vĩnh có nhiều đặc điểm giống rồng thời Lý,Trần. Cũng những
khúc uốn thoăn thoắt, nhịp nhàng, cũng hình lá thiêng bốc lên như ngọn
lửa
Nhưng nếu đi vào chi tiết thật kĩ lưỡng cũng nhận thấy nhiều sự thay
đổi . ở đây không thấy cái đẹp về tỉ lệ như rồng Lý, các nét uốn cũng
không tinh xảo, điêu luyện và thiếu sự đều đặn ,uyển chuyển.Tuy vậy
những hình tượng đó vẫn giữ được nét cơ bản về tinh thần của rồng Lý
và Trần.Hay nói cách khác con rồng vẫn là một mô típ ,một hoa văn
trang trí được tạo bởi trí tưọng tượng phong phú và đậm chất triết lý
của cha ông ta .Trên trán bia Vĩnh Lăng ta bắt gặp mô típ rồng chầu
rồng. Đây là một mô típ quen thụôc của thời Lê Sơ thể hiện một đặc
điểm về đề tài trang trí giữa trán bia là một hình vuông, trong là hình
tròn và trung tâm là con rồng được sắp xếp bố cục cân đối, chặt chẽ.
ở đây ta gặp một số khái niệm: vuông, tròn và con rồng. Liệu các tác
giả làm nghệ thuật điêu khắc này đã suy nghĩ gì khi tạo ra một mô típ
trang trí đẹp và mang nhiều ý nghĩa như hình trên.Vuông ,tròn ở đây
liệu có phải giống như quan niệm của dân tộc ta về trời đất,vũ trụ.Và
trung tâm của trời đất, vũ trụ ấy chính là ông vua đươc biểu hiện qua
hình tượng con rồng. Hình tượng con rồng ở đây đã có cách tạo hình
khách với thời Lý,Trần: Từ khúc uốn văn vỏ đỗ,đến các chi tiết như
vây,sừng,chân,móng tất cả tạo nên sự uy nghiêm,bề thế cho hình
tượng rồng. Hình vuông, hình tròn và con rồng được "đặt" trên nền của
hoa văn mây hình nấm linh chi,sắp xếp cân đối và thoáng,hoạt ở các
góc.các bia ở lăng Lê Thánh Tông (1498),lăng bà hoàng Ngô Thị Ngọc
Giao và lăng Lê Hiến Tông (1505) không còn vẻ đẹp chân thực, sống
động và thoáng đạt như bia Vĩnh Lăng nữa .Thay vào đó là sự dày
đặc,cầu kỳ về đường nét và cách tạo hình .Đường nét thì sắc nhọn, dứt
khoát. Bố cục thì cầu kì, rối mắt_cái đẹp có vẻ trau chuốt, tỉ mỉ.Trên

toàn bộ trán và diềm bia đươc trang trí bằng hình tượng rồng .Từ thời
Lê Thánh Tông,Con rồng được thể hiện mang đặc điểm của rồng thời
Lê Sơ .Có thể nói nó đã thoát ra khỏi hình dáng, cách biểu hiện của
rồng thời Lý,Trần và xứng đáng tiêu biểu, bôc lộ rõ đặc điểm phong
cách rồng thời Lê Sơ.Đó là vẻ đẹp sống động, tự nhiên, hiện thực, khoẻ
mạnh và dữ tợn hơn. Đến đây con rồng đã trở thành một biểu tượng
văn hoá, tượng trưng cho sức mạnh,uy quyền của vua.Vì vậy có thể nói
điều này phần nào do ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo .Những đường
nét mềm mại, cân đối được thay bằng những đường nét sắc, nhọn,mạnh
mẽ. Ngoài mô típ rồng chầu rồng, ta còn gặp nhiều mô típ rồng chầu
khác như rồng chầu chữ phật, rồng chầu mặt trời, rồng chầu lá đề tuy
vậy,những mô típ trang trí kể trên không có trên trang trí bia ở lăng mộ
,mà chủ yếu là trên bia ở chùa, các tiến sĩ ở Văn Miếu lại không trang
trí hình rồng mà chỉ co hình mặt trời, mây, hoa lá và sóng nước .
Ngay cả kích thước các bia ở Văn Miếu cũng nhỏ hơn lăng các vua và
hoàng hậu.Như vậy ta thấy có một sự quy định rõ rãng của hình tượng
rồng trong thơi kì Lê Sơ .Từ sự quy định này cho thấy sự phân chia
đẳng cấp theo tinh thần nho giáo được thể hiện khá rõ ràng trong nghệ
thuật.Hình tượng con rồng không chỉ là một hình tượng được tạo ra do
trí tưởng tương phong phú ,bay bổng của cha ông ta về môt con vật
thiêng nữa .Nó đã thực sự tượng trưng cho vương quyền mà không
dành cho những nơi dân dã bình thường.Kể cả ở Văn Miếu, nơi thờ
Khổng Tử cũng không vi phạm quy định này .Ngoài hoa văn hình rồng
tiêu biểu, trong chạm khắc thời Lê Sơ còn có môt số đề tài khác như :
Hoa văn hoa thị bốn mùa, sóng nước, mây, hình nấm linh chi, hoa
sen tất cả đều được thể hiện khác với các hoa văn cùng loại của thời
kì Lý,Trần.

Biểu hiện đó là hoa văn sóng nước .Hoa văn sóng nước thường được
chạm ở diềm, chân bia.ở bia Vĩnh Long vẫn là sóng nước hình núi

nhưng cao hơn và nhiều đường song song hơn. ở mặt bên bia ở lăng bà
hoàng Ngô Thị Ngọc Giao lại là sang nước trường và sang bạc đầu .
Phía sau lại trồi cao như ba ngọn núi, phía trên là hoa văn mây bay
thành dải.Đây là hình thức sóng nước đặc biệt của thời Lê Sơ
b. Chạm Khắc Trang tri.
Chạm khắc trang trí thời Lê rất tinh xảo .Các thành bậc bằng đá, bia đá
đều được chạm khắc
Cảnh sinh hoạt của nhân dân như các cảnh đấu vật , đánh cờ, trai gái
vui đùa, chèo thuyền, uống ruợu được chạm khắc trên gỗ ở các đình
làng. Các dòng tranh khắc gỗ Đông Hồ, Hàng Trổ nga đời đã tạo ra
những bức tranh dân gian đặc sắc ,trở thành tài san quý giá trong kho
tàng nghệ thuật dân tộc.

Nói về hình tương con rồng trên bia đá .
Thời Lê có nhiều bia đá được chạm khắc nổi ,trang trí hình rồng bên
cạnh các hoạ tiêt sóng ,nước, hoa, lá
Trên lăng vua Lê Thái Tổ, ở cảc hai mặt trên bán bia được chạm khác
hàng chục hình rồng lớn nhỏ.Sự hiện hình rồng thời Lý-Trần đã đạt đến
mức hoàn chỉnh.
Nhìn chung, hình rồng trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam cho đến nửa
đầu thời Lê vẫn là hình rồng có đặc điểm rất riêng. Còn ở nửa sau thời
Lê,hình dáng của rồng mạnh mẽ gần như trở thành hình mẫu chủ yếu
của nghệ thuât thời Lê.
c. Nghệ Thuật Gốm.
Đồ gốm thời Lê kế thừa tinh hoa của nghệ thuật gốm thời Lý-Trần
nhưng có nét độc đáo mang đậm chất dân gian .
Gốm thời Lê vừa có nét trau chuốt khoẻ khoắn trong nét tạo dáng,vừa
có các hoạ tiết được thể hiện theo phong cách hiện thực.
d. Tượng Rồng ở Thành Bậc Cửa Điện Kinh Thiên .
Đây là những tác phâm điêu khắc đá của thời Lê Sơ còn lại khá nguyên

vẹn.Thành bậc cửa được chạm hinh tượng rồng bò xoài theo chín bậc
cấp, đầu rồng nhô cao, các chi tiết trên đầu rồng được thể hiện rõ ràng
:Bờm tóc mượt, mềm mại chảy về phía sau ,kết hợp với các khúc uốn
đều đặn tạo ra vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng rồng. Các hoa văn được
diễn đạt với đường nét chạm điêu luyện, tinh tế .Hình được cách điệu
cao với nhiều nét cong xoắn nhịp nhàng, cân đối, bố cục hình chặt chẽ,
tỷ lệ giữa mảng đặc trống hợp lý tạo ra sự hài hoà về đậm nhạt .Xen lẫn
hoa văn sóng nước, các nghệ nhân tạo hình Vịt cách điệu nhưng rất
sống động và thể hiên rõ những đặc điêm của hình tượng.
Cũng chủ đề, đề tài đó nhưng qua nét đục chạm, bàn tay tài hoa của
người Việt Nam được chi đạo bởi ý thức dân tộc nên thẩm mỹ của
người Việt vẫn được thể hiện rõ nét .Phong cách Lê Sơ có thể nói bắt
đầu định hình rõ nét trên các tác phẩm của thời kì Lê Thánh Tông.Càng
về cuối thời Lê Sơ phong cách đó cành bộc lộ sâu sắc.
3. Nghệ Thuật Hội Hoạ Thời Lê Sơ:
Cũng giống như các thời kì trước ,tranh của thời kì Lê Sơ hầu như
không còn giữ được đến ngày nay.Việc tìm hiểu nghệ thuật qua thơ,qua
sử sách lưu truyền đã trơ nên quen thuộc khi nghiên cứu về hội hoạ thời
phong kiến .Hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông đứng đầu đã tập hợp
nhiều văn sĩ của thời Lê Sơ .Qua nhữnh bài thơ của họ trong "Hồng
Đức Quốc Âm Thi Tâp" có thể chứng minh cho sự có mặt của nghệ
thuật hội hoạ thời Lê Sơ bên cạnh các loại hình nghệ thuật khác.Nhiêu
bức tranh được "xem"qua như tranh vẽ hoa mai ,hoa sen cùng với thể
loại tranh phong cảnh ,thời Lê còn có nhiều tranh vẽ theo đề tài ca ngợi
tình bạn ,tình người tri kỷ.đó là các tranh vẽ "Bá Nha Gẩy Đàn", "Chim
Núi Gọi Người"
Đặc biệt thể loại tranh chân dung dã phát tiển từ các thế kỉ trước nay
vẫn được chú trọng.Đó là tranh chân dung của những người nổi tiếng
trung quân ái quốc .Đồng thời cũng là hình thức ban thưởng của vua
đối với người mình yêu quý ,mến mộ tài năng ,đứcđộ.Bức tranh được

nhắc đến nhiều hơn cả là tranh chân dung Nguyễn Trãi.Sau vụ án "Lệ
Chi Viên"vơi hình thức "chu di tam tộc"Nguyễn Trãi được minh oan ở
thời Hồng Đức .Vua Lê Thánh Tông sau khi minh oan cho ông, đã cho
vẽ chân dung ông để lưu truyền lại đời sau, đây có lẽ la một bức chân
dung vẽ theo lối tượng trưng, lí tưởng hoá va dựa trên cơ sở mô tả của
những người biết về Nguyễn Trãi .
Các nhà nghiên cứu mĩ thuật còn đưa ra một chứng minh về hình vẽ
của thời Lê Sơ .Đó là những hình vẽ trên đồ gốm của thời kỳ này.Có
thể nói các hình vẽ này khá phong phú về thể loại và có bút pháp rất
đặc biệt .
Hình vẽ ở đây có thể là môt hình đơn lẻ ,cũng có thể là một đồ án
trang trí được bố cục chặt chẽ, đậm nhạt phong phú,đường nét sinh
động.Thường là các dải hoa văn ngang ,vòng quanh thân gốm .Thỉnh
thoảng cũng có những tác phẩm gốm được trang trí chia thành các ô
dọc .Mỗi ô là một đồ án trang trí như liễn gốm có đồ án hoa sen dưới
đây.
Điều đáng chú ý ở đây là độ đậm nhạt thể hiện qua từng nét bút,xem
hình vẽ ta co thể hình dung ra cách đặt nét bút bắt đầu từ đâu và kết
thúc ở chỗ nào ,căn cứ trên độ đậm nhạt của nét vẽ khi nghiên cứu các
hình vẽ trên đồ gốm càng cho ta lòng tin về sự phát triển của hội hoạ
thời Lê Sơ .Với tài năng sáng tạo thể hiện qua kiến thức điêu khắc đồ
gốm còn lại đến ngày nay thì chúng ta tin rằng ông cha ta không thể
không sáng tạo ra các tác phẩm tranh vẽ .Vì vậy cũng không thể đi sâu
hơn vào loại hình nghệ thuật này.
Trải qua 100 năm tồn tại lịch sử và mĩ thuật thời Lê Sơ có sự chuyển
biến và phát triên theo một chiều hướng khác .Một mặt nó kế thừa
những tinh hoa truyền thống trong mỹ thuật thời Lý –thời Trần .Mặt
khác do sự thay đổi của hoàn cảnh XH nên mỹ thuật Lê Sơ mang môt
phong cách riêng biệt .Trong môt số tác phẩm từ thời Lê Thánh Tông
về sau có nhiều ảnh hưởng của tinh thần nho giáo .Tuy vậy phong cách

nghê thuật Lê Sơ vẫn không xa rời với truyền thống dân tộc .Có thể vì
tính chất chính thống Nho Giáo thể hiện ở nội dung ,đề tài nhưng hình
thức thể hiện vẫn mang nét chân thực ,đơn giản ,giàu chất sống động
,hồn nhiên.
Chúng ta có thể nói mỹ thuật Lê Sơ là một dấu gạch nối giữa nguồn mỹ
cảm dân gian thời Trần với những thế kỉ sau ,là tiền đê cho một thời đại
huy hoàng của nghệ thuật dân gianViêt Nam với những sáng tạo kì
diệu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×