Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MỸ THUẬT SO SÁNH NHỮNG TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.87 KB, 7 trang )

M
Ỹ THUẬT SO SÁNH NHỮNG
TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU

kỳ lân Việt Nam

Những dấu ấn Trung Hoa trong mỹ thuật Việt luôn là mối quan tâm của các
nhà nghiên cứu. Đầu tiên là thế hệ những nhà nghiên cứu người Pháp của
trường Viễn đông Bác cổ như Bézacier, Goloubew Tiếp sau là thế hệ các
nhà nghiên cứu Mỹ thuật Việt Nam thế hệ đầu tiên như Nguyễn Đỗ Cung,
Thái Bá Vân, Nguyễn Du Chi, Chu Quang Trứ.
Song vì tính chất phức tạp của hiện tượng này nên những tranh luận học
thuật cũng khá sôi nổi. Ban đầu là những tranh luận giữa các nhà nghiên c
ứu
của trường Viễn đông Bác cổ với các trí thức Việt Nam. Sau đến là những
tranh luận giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam với nhau. Nhưng có lẽ, những
cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam với các nhà nghiên cứu
Trung Quốc mới là cuộc tranh luận thú vị nhất. Song tới nay, gần như chưa
có được bao nhiêu các cuộc tranh luận từ hai phía Trung Quốc và Việt Nam.
Lý do là đã có một thời gian dài h
ọc giả Trung Quốc không hiểu về mỹ thuật
Việt Nam và các nhà nghiên cứu Việt Nam không có thông tin về Mỹ thuật
Trung Quốc.
Trong con mắt của những du khách một lần tiếp xúc với Mỹ thuật Việt Nam
hôm nay, cái phong vị “Trung Hoa địa phương” như một ấn tượng lúc mơ
hồ lúc đậm nét. Đó là sự thực. Nhưng còn có một sự thực nữa: tất thảy
những ấn tượng này chủ yếu hình thành từ nền mỹ thuật thời Nguyễn (1802
- 1945). Đó là một hiện tượng vừa lý thú vừa phức tạp. Đây là giai đo
ạn Việt
Nam và Trung Quốc không xảy ra bất cứ cuộc chiến tranh nào. Xét về mặt
cương vực và thực lực kinh tế, chính trị thì đây là triều đại cường thịnh mà


không một triều đại nào trước đó có được.
Và đây cũng là triều đại mà kinh đô nước Việt Nam xa kinh đô thiên triều
Trung Hoa nhất. ấy vậy mà từ luật pháp, chính trị, kiến trúc, mỹ thuật đều
mô phỏng Trung Hoa.
Tìm hiều những dấu ấn Trung Hoa trong phần mỹ thuật thời Nguyễn ở quần
thể di tích đền vua Đinh - vua Lê, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến hiện
tượng tiếp xúc văn hóa không thông qua chiến tranh, sự chiếm đóng và nô
dịch.
Việt Nam có hơn 1000 năm Bắc thuộc nên những hiện vật gốm tìm thấy tr
ên
vùng châu thổ sông Hồng đã chỉ ra mối liên h
ệ khăng khít với những đồ gồm
cùng niên đại của Trung Hoa. Có thể tiến trình mỹ thuật Việt sẽ không có
nhiều thay đổi nếu như kinh đô đầu tiên của nước Đại Cồ Việt lại ở thành
Luy Lâu (Bắc Ninh) hay thành Tống Bình ( Hà Nội). Kinh đô nằm trong
vùng văn hóa Việt - Mường, lại kề cạnh với một nền văn hóa Chăm Pa láng
giềng đang tỏa sáng. Nên những dấu tích khảo cổ cho chúng ta tin rằng ý
thức “giải Hoa” của hai triều đại độc lập đầu tiên là rất rõ ràng. Các sử gia
Đại Việt theo mô hình Trung Hoa rất không hài lòng với Đinh Tiên Hoàng
có tới năm hoàng hậu. Đại Việt Sử ký toàn thư phê rằng vua không “kê cứu
cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng để đến
nỗi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậu”. Một sứ quan nhà
Nguyên là Chu Đạt Quan trong cuốn “Chân Lạp phong thổ ký” cũng đã t
ừng
rất ngạc nhiên trước việc nhà vua Chân Lạp có tới 5 hoàng hậu. Xem ra
những ảnh hưởng Nam á trong chính thể của Đại Việt không phải là ít.
Mỹ thuật thời Nguyễn ở đền vua Đinh - vua Lê tập trung ở mảng đồ án vữa
đắp, chạm khắc đá và một số đồ án gỗ đền vua Đinh. Chúng ta cùng tìm hi
ểu
một vài đồ án rất Trung Hoa ở di tích này.

1. Đồ án Kỳ lân
Kỳ lân hiến sách là một đồ án liên quan tới Khổng tử. Khổng tử là một nhà
tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc. Xung quanh cuộc đời huyền
thoại của người có rất nhiều truyền thuyết. Kỳ lân hiến sách là truyền thuyết
liên quan tới việc Khổng tử tới nước Chu để hỏi về Lễ. Tới Lạc ấp, đô thành
nhà Chu, ông học được rất nhiều thứ. Nhưng lúc sắp về đến nước Lỗ chợt
phát hiện tất thảy những tri thức, triết lý đều chưa thành văn tự và thư tịch,
tất tật mới chỉ chứa trong đầu, phu tử rất khổ tâm về điều này. Trên đường
cùng đệ tử dời Lạc ấp, Khổng tử thấy đám trẻ con đang lấy đá ném vào một
con thú giống như con hươu, lại gần mới hay chính là con kỳ lân. Nguyên
đêm trước Phu tử đã mộng thấy một con kỳ lân hiện ra trong ráng mây đỏ
rực. Khổng tử vội vàng lấy áo ra bọc lấy kỳ lân. Kỳ lân khe khẽ dùng đầu
cảm tạ Khổng tử, từ trong miệng bỗng nhả ra ba bộ kỳ thư. Trong lúc Kh
ổng
tử và các môn sinh bàng hoàng chưa hết ngạc nhiên thì kỳ lân thoắt đã lội
xuống dòng nước bên đường rồi biến mất. Khổng tử kể từ lúc được ba bộ kỳ
thư sách không rời tay. Khi về tới đất Lỗ thì đã trở thành một người có học
thức vô cùng uyên bác. Tích truyện là như vậy, nhưng ở Trung Hoa, cái thời
khắc biến mất này của kỳ lân không ai miêu tả. Ngư
ời thợ đá ở đền vua Đinh
lại đảo ngược câu chuyện này, biến Kỳ Lân vốn là một dạng hươu thần chạy
từ dưới nước lên đưa sách cho Khổng tử. Đồ án này khá gần với đồ án long
mã dâng đồ mà chúng ta cũng thấy nhiều trong mỹ thuật thời Nguyễn.
Người Việt sống bao bọc trong những mặt nước, cách xử lý tích truyện này
phản ánh địa văn hóa của người Việt. Minh họa cho lập luận này xin đối
chiếu kỳ lân Việt trên bức bức chạm đền Đinh với hình kỳ lân trên tấm thêu
trước ngực ( tấm bổ tử) quan võ nhà Thanh. Con kỳ lân Trung Hoa đứng
trên núi, phía dưới là sóng nước, còn kỳ lân Việt chạy dưới nước băng băng.

2. Đồ án Si vẫn .

Si vẫn là tên một loài vật tưởng tượng, tương truyền là một trong chín đứa
con của rồng, có hình dạng đuôi cá thích nhe nanh múa vuốt, là linh vật có
thể giáng mưa, trừ tai diệt hỏa ở Trung Quốc, đồ án Si vẫn thường thấy trên
nóc các mái nhà, nơi tiếp giáp của nóc với đầu hồi.
Là con thú xuất hiện trong tư thế đang ngậm nóc mái. Nhưng vì sợ con Si
vẫn nuốt hết cả nóc nhà, nên ở Trung Quốc người ta cố ý dùng thanh bảo
kiếm đâm xuyên qua thân của Si vẫn. Đồ án Si vẫn vào Việt Nam từ bao giờ
vẫn là câu hỏi khó trả lời một cách chính xác. Nhưng ở quần thể đền vua Lê,
nơi bảo tồn các đồ án trang trí điêu khắc trên nóc mái của thời vua Lê chúa
Trịnh, chúng ta không thấy hình con Si vẫn. ở những công trình có niên đại
chính xác như chùa Tây Phương (cuối Tk 18), đình Đình Bảng (giữa tk 18),
chúng ta thường thấy hình dạng con thú bốn chân, đầu giống đầu nghê
nhưng đuôi dạng đuôi chồn cuộn nhiều vòng. Xưa nay vẫn thường gọi nó là
con Kìm. Cách gọi tên như vậy, phỏng đoán là gọi theo tư th
ế đang há miệng
ngậm giữ (kìm) lấy vỉ nóc. Con thú này có thể là cách điệu của loài chồn
sóc. Con Sấu trong mỹ thuật thời Lý Trần cũng là một biến thể của loài ch
ồn
sóc. Đồ án Si vẫn trên bờ nóc ở đền vua Đinh là dấu ấn của lần trung tu thời
Nguyễn. Cũng trên bức khắc phía bên phải tòa thiêu hương ( bức chạm thời
Bá Kếnh ở đền vua Đinh -1898) mô tả một ngôi đình quán ven sông; chú ý
kỹ ta nhìn kỹ thấy trên bờ nóc cũng có đắp hình Si vẫn. Đồ án Si vẫn trong
mảng kiến trúc thời Nguyễn ở Hoa Lư còn thấy ở trên mái đền thờ công
chúa Phất Kim. Nhìn chung đồ án Si vẫn Việt Nam là một phiên bản của đồ
án Si vẫn Trung Hoa. Nhìn trên một bối cảnh mỹ thuật rộng lớn từ thế kỷ 11
đến thế kỷ 19, chúng tôi chỉ thấy tuyệt đại bộ phận đồ án Si vẫn xuất hiện
vào đầu thời Nguyễn. Tất cả những đồ án Si vẫn nhìn thấy ở Hoa Lư cũng
thuộc thời Nguyễn. Trên nghi môn ngoại đền vua Lê có đắp Si vẫn trên bờ
nóc. Đây là kết quả của lần trùng tu vào năm thứ 29 thời Tự Đức. Chiếc bia
đá phía sau Nghi môn cho chúng ta biết chính xác điều này. Nhưng h

ệ thống
đồ án trang trí ở đây cũng mang phong cách thời Nguyễn. Ngoại trừ không
có thanh kiếm xuyên qua đầu, có một đặc điểm nữa để Si vẫn Việt Nam
khác với Trung Quốc là con Si vẫn Việt miệng thường ngậm lá, ngậm hoa.
Hình thức này làm ta nhớ đến các con thủy quái Makara trong mỹ thuật
Chàm. Cái nguồn gốc Nam á của người Việt không dễ gì dấu được. Ngay cả
đồ án Si vẫn ở Văn miếu cũng vậy, từ miệng cũng tuôn ra dải lá rất mảnh và
mềm.
Qua những ví dụ trên, người viết muốn trình bày một vấn đề học thuật chưa
được chính danh trong nhà trường và viện nghiên cứu mỹ thuật, đó là mỹ
thuật so sánh. Cho đến trước triển lãm “Các phương pháp nghiên cứu mỹ
thuật cụm di tích đền vua Đinh vua Lê” tháng 4/2009, trên Google chưa t
ừng
xuất hiện khái niệm “phương pháp nghiên cứu mỹ thuật” và khái niệm “mỹ
thuật Hoa Lư”. Hy vọng sau triển lãm này sẽ có thêm một khái niệm mới
nữa là mỹ thuật so sánh. Thực ra mỹ thuật so sánh đã có trong các trước tác
của Nguyễn Đỗ Cung, Phan Cẩm Thượng, Trang Thanh Hiền nhưng nó
chưa trở thành một ngành nghiên cứu thực sự như văn học so sánh, ngôn
ngữ so sánh,văn hóa học so sánh. Chỉ qua so sánh đối chiếu từng vấn đề cụ
thể, chúng ta mới hiểu được những nỗ lực bền bỉ của cha ông tr
ên hành trình
khẳng định chính mình. Mỹ thuật so sánh hướng đến sự khám phá mối liên
hệ thẩm mỹ giữa các quốc gia, dân tộc, qua đó khẳng định những diện mạo
đặc sắc của các nền mỹ thuật, bù đắp cho những hạn chế của các kết quả
nghiên cứu chuyên biệt trư
ớc đó. “Mọi so sánh đều khập khiễng” điều đó chỉ
đúng khi chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất cho thao tác so sánh l
à phân
cao thấp. Nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam truyền thống cần có nhiều hơn sự
đối chiếu, không chỉ với Chăm Pa, Trung Hoa mà cần hướng đến cả Tây

Tạng, Lào, Thái Lan, xa hơn nữa là Australia, Indonexia.
Trần Hậu Yên Thế

×