Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

MỸ THUẬT THỜI HÙNG VƯƠNG MỘ NAM VIỆT - VĂN ĐẾ CỦA VĂN MINH ĐÔNG SƠN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.42 KB, 13 trang )

MỸ THUẬT THỜI HÙNG VƯƠNG MỘ NAM
VIỆT - VĂN ĐẾ CỦA VĂN MINH ĐÔNG SƠN


Bộ sưu tập Long kim ấn tìm thấy trong mộ

Lịch sử Việt Nam với hơn bốn ngàn năm từ thời Lạc Long Quân - Hùng Vương
đến Nam Việt đã bị người Hán xâm lược, trải qua một ngàn năm thuộc Hán
Đường. Họ đã huỷ hoại, đốt phá, tiêu diệt nhằm đồng hoá Việt Nam. Trong thời
gian dài Bắc thuộc đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa nhưng đ
ều bị dập tắt. Thời đại
Hùng Vương, An Dương chỉ còn lại những truyền thuyết, huyền thoại trong lịch
sử. Kể từ khi giành lại độc lập thế kỷ X nước ta bắt đầu tìm lại cội nguồn dân tộc.
Thời kỳ Hùng Vương là một góc khuất lớn trong lịch sử. Các sử gia Việt Nam đã
cố gắng tìm tòi nghiên cứu, và bị hiểu theo các sách của người Hán đôi ba dòng
một cách rời rạc. Đầu thế kỷ XX khảo cổ học đã phát hiện ra văn minh đồ đồng
Đông Sơn. Từ những năm 1960 nhà nước Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu đa
ngành khoa học, từ dân tộc học, khảo cổ, ngôn ngữ, lịch sử, mỹ thuật, phong tục
tập quán đã làm sáng tỏ văn minh đồ đồng Đông Sơn là thời đại Hùng Vương.
Văn hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ trong khoảng thiên niên kỷ đầu trước công
Trong thời gian nước ta bị xâm lược, khoảng giữa thế kỷ thứ hai, vua Ngô Tôn
Quyền đã nghe nói lăng mộ Triệu Vũ đế Nam Việt có nhiều bảo vật quý giá chôn
theo, nên quyết truy tìm. Tôn Quyền sai tướng Lã Du đem quân xuống Quảng
Đông tìm kiếm, khai quật những nơi nghi là lăng mộ Võ đế. Sau nhiều thời gian
tìm kiếm, chỉ tìm được mộ Minh Vương (Anh Tề) vua thứ ba và là chắt của Võ đ
ế,
lấy được nhiều báu vật, còn các mộ Võ đế, Văn đế không tìm được, đấy là một ẩn
số trong hơn hai ngàn năm qua.
Phát hiện lăng mộ Triệu Văn đế Nam Việt
Cuối thế kỷ XX thành phố Quảng Châu khi xây dựng đã phải bạt đồi, núi Tương
Cương, xây nhiều cao ốc từ những năm 1970. Những toà cao ốc và phố, công vi


ên
đã vây quanh khu vực còn lại của núi Tương Cương cao khoảng 50m. Mười năm
sau, vào tháng 8 năm 1980 trong khi thi công một công trình xây dựng ở phía bắc
núi Tương Cương một máy xúc to lớn khoét sâu 20m vào núi Tương Cuơng đã va
vào một tảng đá lớn. Máy đào tiếp sang phía bên càng thấy lộ rõ những khối hộp
đá lớn. Các nhà khảo cổ đã phát hiện đây là một ngôi mộ cổ được tạc vào trong
lòng núi. Công việc khảo cổ được tiến hành vào cuối tháng 8. Thành phố Quảng
Châu đã có quyết định phải duy trì được ngôi mộ, cố giữ được nguyên trạng để
duy trì một di tích và dự định sẽ xây một bảo tàng (dựa theo Nguyễn Duy Chính).
Việc tìm kiếm chủ nhân ngôi mộ này không mấy khó khăn sau khi phát hiện được
chiếc ấn vàng, núm hình rồng cuộn chữ S có khắc chữ “Văn đế hành tỷ”, (Long
kim ấn). Việc tìm ra Long kim ấn đã giúp các nhà lịch sử biết được đây là lăng m

của vị vua thứ hai nước Nam Việt. Tiếp theo còn tìm được ngọc ấn “Triệu Muội”
mà trước đây trong lịch sử gọi là Triệu Hồ. Theo một số nhà nghiên cứu Triệu
Muội là tên Việt ngữ. (Từ điển Khang Hy chữ Muội có nhiều nghĩa, có lẽ chữ
Muội chỉ ngôi sao Hiên Viên Hậu Tinh trên dòng Ngân Hán là hợp lẽ nhất, c
òn tên
Hồ là tên Hán ngữ.)
Di vật lịch sử được phát hiện ở lăng mộ con Trọng Thuỷ
- Theo sử ký Nam Việt liệt truyện: “Khi nhà Tần bị diệt, Đà đánh lấy Quế Lâm,
Tượng Quân, tự lập ra Nam Việt Vũ Vương”. Sử Việt Nam gọi là xưng Đế.
- Theo Thuỷ kinh chú sớ: “Nam Việt Vương sai Thái tử tên là Thủy An xin hàng
phục An Dương Vương, xứng thần thờ vua… An Dương Vương có người con gái
tên là Mỵ Châu. Châu thấy Thủy đoan chính, Châu cùng Thủy qua lại với nhau.
Thủy hỏi Châu, bảo Châu lấy nỏ của bố cho xem. Thủy thấy nỏ bèn lấy trộm, đem
cưa đứt nỏ rồi trốn về. Khi Nam Việt Vương đem quân đánh, An Dương Vương
bắn nỏ, nỏ gẫy nên thua.” (Quyển XXXVII, trg 427, NXB Thuận Hoá 2005.)
- Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc v
ệ,

cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng”
Đà đem quân đánh An Dương
Vương thua chạy Trọng Thủy đuổi theo thấy Mỵ Châu đã chết, thương khóc ôm
xác về chôn ở Loa thành. Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ Châu cuối cùng nhảy xuống
giếng mà chết” ĐVSKTT/T1 trang 139. Khi Triệu Vũ Đế mất toàn thư viết “Văn
Vương ở ngôi 12 năm tên huý là Hồ con trai Trọng Thủy, cháu Vũ đế. Năm Bính
Thìn thứ 12 (125 TCN) vua mất (Sđd/149).
- Theo Cổ Lối Bách Việt tộc phả truyền thư “Hùng Dực Công vợ là Trần Thị Quý
đẻ ra Nguyễn Thân, sau làm con nuôi thái giám Tri
ệu Cao phải đổi sang họ Triệu”,
nên khi làm vua Nam Việt sinh hoạt nghi lễ triều đình kiểu Việt. Triệu Đà giết hết
các trưởng lại do nhà Tần đặt, đem người thân phe cánh (người Việt) làm thú lệnh
(1). Triệu Đà muốn chống lại nhà Hán, xây dựng Nam Việt mang đậm văn hoá
Việt, ông lấy vợ Việt. Nghi lễ ngang với Hán. Ông ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả
đạo (loại cờ lớn bằng lông đuôi cừu dựng trên xe) vì vua muốn ngang với Hán đế.
Lục Giả sứ giả nhà Hán sang Việt khuyên vua hàng phục. Vua ngồi xổm tiếp sứ
(không có lễ tiếp sứ). Khi Lục Giả nói vua Hán có sức mạnh lớn hơn, vua cư
ời nói
với sứ giả rằng: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng
bằng nhà Hán”. Giả ngồi im lặng sắc mặt tiu nghỉu. Khi Giả về vua cho nhiều
châu báu và tặng thêm nghìn vàng nữa” TT/142-143.
Theo TS Nguyễn Việt ở Trung tâm tiền sử Đông Nam á “những nghiên cứu về đồ
tuỳ táng chôn trong các khu mộ táng Nam Việt cũng như xương cốt và AND cổ
phản ánh rõ ràng ưu thế Việt tộc trong quốc gia Nam Việt của Triệu Đà. Trong m

vua Nam Việt cũng như mộ các quan thứ sử nhóm văn hoá Đông Sơn, như trống
đồng, thạp đồng, rìu chiến và nỏ ”
Việc phát hiện lăng mộ Văn đế sau hơn hai ngàn năm đã làm sáng tỏ nhiều lĩnh
vực văn hoá, lịch sử. Mỹ thuật Đông Sơn rực rỡ, trang phục phát triển đỉnh cao về
đồ đồng, đồ gốm, đồ sắt, đồ sơn, trang sức ngọc phục vụ cung đình và tầng lớp

quý tộc. Trong mộ tìm được 23 chiếc ấn. Long kim ấn là ấn vàng lớn có kích
thước khác Hán. ấn hình vuông 3,1cm x 3,1cm hình nổi con rồng trên núm ấn
cuộn uốn lượn hình chữ S không có sừng, đầu nhô ra sát góc nhe nanh, nhìn
nghiêng đầu hình cá sấu, không dữ dội kiểu rồng thú Hán. Kích thước ấn lớn hơn
1/3 so với ấn thời Hán quy định 1 tấc (khoảng 2,2cm). Rồng có vẩy sống lưng gồ
cao ở tâm làm núm cầm. Mặt ấn khắc lõm chia làm 4 hình vuông trong lòng khắc
4 chữ “Văn đế hành tỉ”. Núm trơn bóng chứng tỏ Long kim ấn đã dùng thường
xuyên nay được chôn theo. Đây cũng là điều khác với nhà Hán, triều đình Hán chỉ
có một bảo ấn truyền quốc tỉ. Nếu vua nào chết muốn có ấn chôn theo, thì ấn đó
được đúc theo ý vua lúc lâm chung, chứ không phải là ấn dùng chính khi còn s
ống
(Nguyễn Duy Chính) (2). Sử sách Trung Hoa đều ghi là Văn vương, nếu là tước
vương thì ấn không được dùng rồng mà chỉ dùng con ly (lân). Ngược lại trong mộ
Triệu Muội lại dùng long ấn và xưng đế là việc nay chúng ta mới biết rõ sự thật
lịch sử. Một chứng minh rõ Văn đế Triệu Muội là cháu nội nối ngôi ông vì bố là
thái tử Trọng Thuỷ đã chết theo Mỵ châu, chứng cứ là trong mộ Văn đế còn có
một số di vật từ thời ông và bố để lại: một chiếc ấn vàng tìm được có khắc hai chữ
Thái tử (Kim Quy ấn). Chiếc ấn này hình gần vuông, mỗi chiều là 2,6cm x 2,4cm
trên núm ấn là hình con rùa nổi gồ mai lớn. Ngoài ra còn hai thứ đồ liên quan đến
thời của Triệu Đà là một thanh đồng qua Trương Nghi, thanh qua đồng này có
khắc hàng chữ “Vương tử niên tương bang Trương Nghi” từ thời Tần Huệ V
ương.
Trương Nghi trông coi chế tạo binh khí, hình dáng kiểu nước Sở (Việt) thời chiến
quốc. Hai là một thạp đồng Đông Sơn giống như một chiếc thạp tìm thấy ở Việt
Nam, hiện lưu giữ tại bảo tàng Thuỵ Sĩ (BT Barbier. Geneve). Theo TS Nguyễn
Việt: “Chúng tôi nhận thấy thạp đồng Đông Sơn số 2509-29 thuộc bảo tàng
Barbier- Mueller ở Geneve rất giống chiếc thạp trong mộ của Nam Việt Văn đế
Triệu Muội, chắt ruột Triệu Đà và là v
ị vua thứ hai Nam Việt. Chiếc thạp mới phát
hiện này có khắc 22 chữ Hán theo phong cách Nam Việt, trong đó hai chữ đầu ghi

địa danh có thể đọc là Long Xoang. Theo chúng tôi rất có thể đây là một biến âm
của chữ Long Xuyên, nơi Triệu Đà làm huyện lệnh trước khi lập nước Nam Việt.
Như vậy đây có thể chính là chiếc thạp liên quan đến Triệu Đà. Chiếc thạp trong
mộ Triệu Muội có thể do Triệu Đà ban tặng lại”. Từ những chứng cứ trên cho
phép ta nghĩ đến những đồ vật trên là của Võ đế và thái tử Trọng Thuỷ. Triệu Đà

ngôi 71 năm, phong thái tử cho Trọng Thuỷ nhưng Trọng Thủy chết sớm nên ông
truyền cho cháu đích tôn là Triệu Muội. Thời kỳ nhà nước Nam Việt đã phát triển
đồ đồng Đông Sơn ở đỉnh cao trong một thế kỷ. Khi Nam Việt suy yếu, bị nhà
Hán thôn tính, văn hoá Đông Sơn bị tiêu diệt. Điển hình là Mã Viện đã thu hết
trống đồng, thạp đồng, các đồ vật bằng đồng nấu chảy đúc thành hai con ngựa
mang về Trường An. Một số người Việt đã chôn, cất giấu đồ đồng Đông Sơn để
bảo vệ văn hoá Việt bản địa.
Mộ Việt Văn đế đã lưu giữ hàng ngàn hiện vật, giá trị mỹ thuật đỉnh cao chứng
minh nền văn minh của Âu Lạc, Văn Lang, hàng ngàn năm trước, về đủ mọi
phương diện từ vũ khí, đồ đồng, đồ sắt, xe cộ, thắng ngựa, đồ sinh hoạt, lò nấu
nướng, đồ sơn, đồ gốm, đồ ngọc, gấm vóc. Trong mộ, đồ Việt đã có số lư
ợng tuyệt
đại đa số, đạt đỉnh cao về mỹ thuật trang trí Đông Sơn biến đổi, phát triển ở mức
cung đình. Đặc biệt có bộ áo giáp sắt đẹp, kiếm sắt dài đều có kiểu cách Việt khác
giáp Tần, Hán.
Kiến trúc lăng mộ Văn đế rất đặc biệt nên đã bảo vệ đư
ợc bí mật rất lâu. Việc phát
hiện ra chỉ là ngẫu nhiên, vì từ thời Tôn Quyền đã mất bao công sức m
à không tìm
được. Mộ có hai cửa đá cách nhau chừng 10m theo đường dốc thoai thoải chéo
xuống lòng núi dài khoảng 20m ở phía Nam. Khi cửa đá tự động đóng lại, vòm
cửa đất đá sập xuống che lấp kín khung cửa đá hai lớp phiến đá dầy vuông vức,
gồm 2 cánh có gắn mặt hổ phù lớn ngậm hai vòng tròn bằng đồng đã r
ỉ xanh. Lăng

mộ có tổng diện tích khoảng 100m2, có những cột đá lớn làm khung cột chống,
tổng số gồm 750 hộp đá phiến lớn, gồm 7 gian, tường, trần, sàn đều lát đá độ cao
2m. Ngoài cửa và tường vẽ trang trí mây xoắn mầu xanh đen đường nét thanh
mảnh đơn giản, đã bong tróc nhiều. Qua cửa vào phòng tiền thất hình ch
ữ nhật nhỏ
vẽ trang trí như ở trên, phòng này có thông sang hai bên đông, tây qua hành lang
đến hai phòng chữ nhật lớn hơn chứa các đồ nhạc khí như chuông, khánh đá, binh
khí, đồ ngọc nơi đây có một người chôn theo (có thể là nhạc công). Từ phòng tiền
thất qua cửa vào địa cung (phòng chính) hình chữ nhật dài lớn gần gấp đôi phòng
tiền thất. Địa cung nơi đặt quan tài Văn đế, toàn bộ sàn lát gỗ, giữa đặt quan t
ài hai
lớp đã bị huỷ hoại. Thi hài Triệu Muội được liệm trong một bộ quần áo, giầy, mũ
bao, bao tay bằng ngọc được khâu bằng chỉ tơ mầu đỏ khâu nối bằng các
mép hình
vuông, trong mỗi hình vuông có khâu nối chữ X. áo xẻ tà khoảng 20cm có đường
viền gấm đỏ toàn bộ mép quần áo (ti lũ ngọc y) dài 1m73 g
ồm 2291 mảnh ngọc rất
đặc biệt. Trên đầu có một miếng ngọc hình tròn bao đỉnh đầu. Dưới gáy gối một
túi dệt bằng tơ trong đựng toàn ngọc trai (sản vật quý của Việt Nam). Thắt lưng
khảm ngọc Văn đế đeo 10 thanh trường kiếm bằng sắt có khảm vàng, thanh trư
ờng
kiếm dài nhất 1.46m. Khoảng giữa ngực và bụng đặt long kim ấn. Xung quanh thi
hài còn rất nhiều đồ ngọc quý, điêu khắc tinh mỹ, khéo léo. Tư
ờng quanh địa cung
không vẽ trang trí, hai bên Đông và Tây có cửa thông sang. Phòng gian phía đông
chôn theo 4 người vợ của Triệu Muội. Mỗi người đều có ấn chôn theo. Một người
là “Hữu Phu nhân tỉ” tỷ ấn hình rùa lớn (Hoàng hậu) hình vuông 2cmx2cm bằng
vàng; 3 chiếc ấn còn lại là đồng mạ vàng của các phi, núm cũng hình con rùa nhỏ.
Những danh xưng Hoàng hậu của Nam Việt cũng hoàn toàn khác Hán. Cửa sang
phòng phía Tây chôn theo 7 người cùng với các đồ nhà bếp, đây có thể là đầu bếp

và nô tỳ hầu hạ, họ đều mang theo gương đồng, một hoặc hai gương. Phòng nhỏ
sau địa cung là kho chứa thực phẩm hình vuông nhỏ nhất, chứa nhiều loại thực
phẩm gồm 30 loại, chứa các thịt gia cầm, thịt bò, heo, sơn dương, hải sản, cá mè,
tôm, ếch, rùa, sò hến gồm 20 loại. Trong ba hũ sành đựng 200 con chim sẻ, có 11
con đã chặt đầu.
Trong mộ đạo còn chôn theo 2 người, có thể là 1 nội thị (hoạn quan) và một mã
phu. Trước đó ở phòng tiền sảnh có chôn theo 1 người canh cửa (thị vệ). Tổng số
người chôn theo trong mộ Triệu Muội là 15 người. Việc những người phải chôn
theo và những đồ vật quý giá đều rất liên quan mật thiết với nhà vua. Theo giám
định những người tuẫn táng này đều bị đánh mạnh vào ng
ực cho tim ngừng đập để
chôn theo. Đây là phong tục phổ biến thời phong kiến cổ đại. Lăng mộ Văn đế
được chôn ngầm trong núi đá thạch anh khá cứng và để vận chuyển số lượng đá
khổng lồ trọng lượng khoảng 4000kg, có những thanh đá dài 5,5m vận chuyển từ
nơi xa đến chứng tỏ lĩnh vực kiến trúc, xây dựng thời đó đã ở một trình độ phát
triển cao. Đặc biệt là kỹ thuật chôn ngầm trong núi cách đây hơn hai ngàn năm
cho một công trình kiến trúc lớn.
Những bảo vật vàng ngọc, tỷ ấn quý giá trong mộ.
1. Số lượng tỷ ấn gồm 23 chiếc trong đó có 3 chiếc bằng vàng. 9 cái ấn bằng ngọc
trong đó có khắc 3 ấn chữ: Triệu Muội, Thái tử, Đế ấn. Tất cả các đồ trân bảo đều
được bài trí trong địa cung. Một đại bích ngọc đo được 33,4cm điêu khắc chau
chuốt. Các chuyên gia khảo cổ ca ngợi là vua của các loại ngọc bích. Một hộp
ngọc xanh vàng hình viên trụ cao 77cm trên nắp khắc hình 2 con phượng và các
chạm nổi tinh mỹ. Ngoài ra còn nhiều loại ngọc bội, liễn ngọc tổng số 56 đồ ngọc
lớn. Đặc biệt ngọc giác bội chén uống rượu của Văn đế là một khối ngọc lớn tạo
hình tù và, khoét rỗng lòng, điêu khắc nổi bong ôm vòng ra ngoài dư
ới đáy, miệng
rộng vát chéo rất độc đáo đẹp đẽ. Nhiều đồ ngọc trang trí cách điệu khối chữ nhật
dẹt và nữ múa. Tượng ngọc vũ nữ múa vũ điệu thiên thần, thắt đáy lưng ong, búi
tóc lệch, là một tượng điêu khắc hoàn hảo, thân hình uốn lượn như đang chuyển

động trong mầu ngọc ánh vàng, ánh xanh rất mỹ lệ. Pho tượng vũ nữ này có một
giá trị đặc sắc về trang phục Việt cổ.
2. Những bảo vật uy quyền của Văn đế Triệu Muội: kiếm sắt, giáp sắt. Trong mộ
phát hiện hơn 700 món đồ sắt, thép gồm nhiều loại đồ dùng khác nhau đến vũ khí.

- Kiếm sắt có tổng số 15 thanh trường kiếm trong đó một thanh trường kiếm đeo
phía trái thắt lưng đầu rồng dài 18,4cm. Bao kiếm bằng tre, cán gỗ có quấn dây tơ.
Bốn thanh trường kiếm cán khảm ngọc màu vàng xanh nhạt ch
ạm nổi, chạm thủng
hoa văn rồng, phượng, mây móc khuất khúc và linh thú. Những thanh trư
ờng kiếm
này ở Việt Nam cũng đã tìm thấy tương tự thời Đông Sơn hiện lưu giữ tại bảo t
àng
Chăm - Đà Nẵng (tầng trên gác).
- Đồ nghi trượng quyền uy Hoàng đế. Đã tìm được một hổ tiết đúc nổi được chia
làm hai mảnh, khi ghép lại thành một con hoàn chỉnh tư thế sắp vồ mồi, mồm há
răng nanh nối nhau trên dưới tạo thủng lỗ trong miệng, ngực ưỡn lưng nhổm 2
chân sau co lại lấy đà, đuôi cong hình chữ S rất dài. Trên mũi, mắ
t, tai và toàn thân
đều có trang trí những hình vằn hổ dát vàng toàn bộ một hai mặt… Mặt phía trước
có một dòng chữ bố cục dài chia đôi phần ngực đầu với hai chân hướng chéo
“Vương Mệnh xa đồ”. Chữ nét đều mảnh với lối tiểu triện dát vàng. Đây là hổ tiết
tìm được duy nhất từ xưa tới nay của Nam Việt. ở Trung Quốc chưa tìm thấy loại
này thời phong kiến cổ. Lệnh phù này có 3 loại: Long tiết, hổ tiết, nhân tiết dùng
để giao cho các tướng chỉ huy mỗi người cầm một nửa, khi gặp nhau thì khớp lại.
Đây là một loại mật hiệu cao cấp của tướng lĩnh. Hổ tiết tìm thấy này khi đư
ợc vua
giao cho có thể điều động quân đội, chiến xa. Cũng từ chữ hổ tiết cho chúng ta
thấy quân Nam Việt đã sử dụng chiến xa. Trong lăng mộ đã tìm th
ấy nhiều áo giáp

sắt đã cuộn lại, kiểu dáng Việt dài 58cm, khác hẳn kiểu áo giáp của Tần Hán, rất
phù hợp với khí hậu nước ta nóng ẩm phương Nam. áo giáp gồm 709 vẩy (vảy
hình vuông chữ nhật trên lượn góc) phía dưới có trang trí hình học.
- Một thanh mâu sắt pha đồng, khảm vàng, trang trí hoạ tiết mây xoắn uốn lượn
mỹ thuật là một loại bầy nghi trượng bài trí tỏ rõ uy quyền của bậc đế vương cao
quý. Người ta còn tìm thấy một thanh kiếm bằng đồng của nước Sở (Việt) thời
chiến quốc). ở nước ta vùng Lãng Ngâm cũng đã tìm được đoản kiếm cán hình
người phụ nữ ở Hà Bắc trước kia (sách VN trước công nguyên NXBTN 2001).
Đồ sơn bình phong trong Địa cung
Trong nội thất lăng có một tấm bình phong bằng sơn ta l
ớn gồm 5 tấm trang trí cấu
tạo rất đặc biệt, mỹ lệ mang đặc điểm Việt Nam. Năm tấm vóc sơn mài hình chữ
nhật đứng, mầu huyền được vẽ trang trí mầu sơn chu sa tươi. Phía trên tấm vóc
giữa hình linh thú mặt người đúc nổi khối, 2 mắt to, có ria mép, phía sau bờm dài
như những lọn tóc uốn cong chữ S đan chéo nhau toả dài ra hai bên, miệng cười,
lộ hai hàm răng. Trên đầu và hai bên cắm nhiều lông công. Ba tấm ở giữa đến góc
quặt ra trước của hai tấm bên là khung hộp bằng đồng, chẽ ba chạc để bao định
hình bình phong, có độ dày khoảng 8cm. Trên đỉnh góc có hai bên có hai chim trĩ
đúc nổi đứng giang cánh rất sinh động. Phần đuôi cấu tạo như một ống cắm lông
trĩ toả dài nửa cong về phía sau rất dài, trông như hai con chim trĩ đậu. Hai tấm
gấp chéo ra phía trước, ở trên 2 đầu linh thú và cắm lông công. Phần cạnh dưới có
hộp đồng làm khung đỡ các tấm bình phong so le (tấm giữa lớn dài hơn). Kết hợp
là những “con kê” đỡ khung và bình phong là hai tượng linh thú, rắn, hai tượng
lực sĩ ngậm mãng xà quỳ đỡ, trong trang phục Việt là áo cổ chéo vạt, cộc tay, áo
ngắn, quần đùi, chân đất, rõ nét xứ nóng phương Nam. Hình tượng này giống các
bộ tượng đầu chim mình người thời Lý Trần. Tấm bình phong hơn hai ngàn năm
đã toát lên một phong cách thuần Nam Việt từ vật liệu sơn, các hình trang trí điêu
khắc linh thú rang, rắn, chim trĩ, chim công là những đặc sản phương Nam, là đồ
cống thời kỳ bị đô hộ cho phương Bắc. Phong cách nghệ thuật đúc, hình thức mỹ
thuật khoẻ khoắn, tinh giản hình khối trơn bang, không có hoạ tiết phức tạp tỉ mỷ,

nhiều chi tiết như thời Tần Tây Hán, luôn luôn trang trí dầy đặc cầu kỳ.
- Việc phát hiện mộ Triệu văn đế Nam Việt thời cổ đại có thể cầm, nhìn ngắm
đư
ợc các báu vật, có một ý nghĩa lịch sử to lớn, phản ánh một sự thật lịch sử khách
quan, trung thực, xé toạc màn đêm của quá khứ, uốn nắn lại các nhận định không
chính xác, sai méo lịch sử, qua những lăng kính của các sử gia cổ nước ngoài, xưa
nay chúng ta vẫn dùng làm tài liệu coi như mẫu mực này cần phải thận trọng. Thế
mới hiểu hết sự thâm hiểm của quân xâm lược đốt hết sách, thiêu huỷ văn hoá
Việt, còn một chữ cũng đốt (Minh Thành Tổ lệnh cho Chinh Di Hướng quan
trương phụ thế kỷ XV là vô cùng hiểm độc. Từ hàng ngàn hiện vật như đồ bạc,
gồm:
- 600 món đồ đồng gồm 7 loại nhạc khí vài chục món, chuông đồng vài ch
ục món.
Đỉnh đồng 36 cái gồm đại bộ phận là Việt Sở (Việt). Đặc biệt là hàng chục thạp
đồng trang trí Đông Sơn cao cấp cung đình, với nhiều hoa văn chạm khắc mỹ
thuật Việt to lớn, ngoài ra còn nhiều gương đồng đúc tại Việt Triệu thị tác kính Lý
thị tác kính…
- 371 món đồ gốm sứ gồm thạp sứ, hũ, lọ âu, nồi, liễn…
- Nhiều loại tơ lụa, gấm vóc, the mỏng, mầu in vải hoa, ngà voi nước ta 5 cái dài
trên 1m, ngọc trai, mực viết, thuốc chữa bệnh của ả Rập, nhiều loại đồ minh khí…
sẽ là rất thú vị và bổ ích về mỹ thuật. Tôi sẽ viết giới thiệu trong nhiều bài sau.
Riêng về trang trí, hình thuyền của thạp đồng và các loại đồ đồng, gốm sứ.
Trong bài viết này nhằm khảo cứu, so sánh làm rõ văn hoá, mỹ thuật thời Hùng
Vương (Đông Sơn), là một nền văn hoá mỹ thuật đầy bản sắc của người Việt cổ
đại, phát triển đỉnh cao rực rỡ về mỹ thuật Việt Nam trong quá khứ hơn hai ngàn
năm.
TRỊNH QUANG VŨ
Chú thích:
(1) Thuỷ kính chú- toàn thư: Cổ lôi phả truyền thủ của La Sơn Phu tử Nguyễn
Thiêt Sao)

(2) Phát hiện năm 1996 chiếc ấn chữ “Điền vương chi ấn” do nhà Han ban năm
109 TCN cho vua Điền là thời gian tương đương với Văn đế. ấn vàng nặng 90gr,
diện tích 2,4cm x 2,4cm núm ấn hình kỳ lân (Trịnh Quang Vũ)
Tài liệu tham khảo
1. Artoeacts in the nanyue King’s tomb of western han dynasty – Nationnal
Museum of history taipei 1998
2. Bảo tàng lăng mộ Triệu Văn vương tại Quảng Châu – Trương TháI Du.
3. Cổ lôi ngọc phả truyền thư (Quản uy hầu La sơn phu tử Nguyễn Thiếp vâng
lệnh vua Quang Trung sao – Hương quận công vâng sao, Nguyễn Văn Nhẫn (con
thứ ba Nguyễn Thiếp Tự Đức thứ 3 (1850).
4. Các nền văn hoá cổ Việt Nam – NXB Lao động 2005 Hoàng Xuân Chinh
5. Đại việt sử ký toàn thư (bản chính Hoà NXB KHXH 1993 Hà Nội)
6. Lược sử Mỹ thuật Việt Nam – NXB Từ điển Bách khoa – Trịnh Quang Vũ
2009.
7. Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam 2007 NXB Văn
8. Lăng mộ Triệu Văn đế ở Quảng Châu – Nguyễn Duy Chính
9. Một số tư liệu đi điền dã, khảo cổ của tác giả di chỉ Vân Nội
10. Nanyue King’s tomb of the western han (volume I, II) Cultural Relies
Publisling House Beijng 1991.
11. Triệu Đà - Nguyễn Việt
12. Việt Nam trước Công nguyên- NXB Thanh Niên 2001, Trần Quang Trân
13. Thuỷ kinh chú sớ – NXB Thuận Hoá 2001
14. The Archaeological sites of the nanyue King dom 2003
15. Những khám phá mới nhận thức mới về nguồn gốc dân tộc Việt và văn minh
Việt cổ (nhóm nghiên cứu thời tiền sử).

×