Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA SƠN MÀI ỨNG DỤNG BÌNH DƯƠNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.01 KB, 11 trang )

NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA SƠN MÀI ỨNG
DỤNG BÌNH DƯƠNG

Trong hàng trăm, ngàn di vật do cha ông ta sáng tạo ra từ bao đời nay,
còn được lưu giữ, dưới góc độ thẩm mỹ, sơn mài có một nét độc đáo
nhất định. Bởi vì sơn không phải là chất liệu để tạo nên đồ vật như gỗ,
tre, nứa, đất, đá, đồng v.v mà sơn là chất liệu góp phần làm tăng giá
trị thẩm mỹ của đồ vật. Nó dường như đư
ợc sản sinh ra bởi nhu cầu của
thẩm mỹ !
Nghề sơn mài ở đất Bình Dương xưa ra đời trong điều kiện lịch sử có
nhiều lớp nghệ nhân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Đông Nam Bộ
để khai hoang lập ấp. Họ đã tận dụng nguồn gỗ vô cùng phong phú của
vùng đất mới kết hợp với kỹ thuật truyền thống của cha ông để tạo ra
nhiều sản phẩm gia dụng, nhiều tác phẩm mỹ thuật trang trí phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt, nhu cầu thẩm mĩ của cộng đồng. Có thể nói
Bình Dương - Thủ Dầu Một là vùng đất lâu đời với nhiều điều kiện ưu
đãi của thiên nhiên để phát triển các nghề truyền thống, và đặc biệt
vùng đất duy nhất này ở phía Nam (và cả nước) chứa đựng đầy đủ 3
loại hình của sơn mài truyền thống đó là: sơn mài trang trí, sơn mài
ứng
dụng và tranh sơn mài trong một không gian thống nhất nhưng lại rất
riêng biệt về ngôn ngữ tạo hình và nghệ thuật thể hiện thông qua các
đặc điểm nghệ thuật và kỹ thuật mà các nghệ nhân, họa sĩ đã khéo kết
hợp giữa truyền thống và cách tân, giữa các vùng và địa phương để tạo
nên một địa danh nghệ thuật, một thương hiệu nổi tiếng: Sơn mài Bình
Dương.
Không phải ngẫu nhiên, sản phẩm sơn mài của Bình Dương lại nổi
tiếng, được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Để sản xuất ra
một sản phẩm hoàn chỉnh, từ gỗ nguyên liệu đến khâu cuối cùng phải
qua quá trình với 25 công đoạn. Công việc của mỗi công đoạn đòi hỏi


phải có kỹ thuật riêng, vừa tỉ mỉ lại vừa công phu. Có công đoạn l
àm đi
làm lại tới 6 lần mới đạt yêu cầu như công đoạn hom, sơn lót
Quá trình thực hiện một sản phẩm sơn mài ứng dụng của Bình Dương
rất phức tạp, công phu, trong đó, để bảo đảm độ phẳng, bóng láng nghệ
thuật, người thợ phải gia công rất kỹ lưỡng các công đoạn, trung bình
mỗi sản phẩm phải mất từ 3 tới 6 tháng mới đảm bảo yêu cầu chất
lượng. Và trong quá trình thực hiện hệ thống quy trình đó, trải qua
nhiều thời kỳ, những bí quyết nghề nghiệp được truyền thụ cho nhau
trong từng gia đình, dòng họ, địa phương, chính nhờ vậy sản phẩm sơn
mài mới đạt được giá trị nghệ thuật cao và đ
ộc đáo so với các sản phẩm
sơn mài ứng dụng ở những nơi khác. Kỹ thuật sơn mài ứng dụng của
Bình Dương vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, đậm đà tính cách á
Đông.
Để một sản phẩm có giá trị và đảm bảo được độ bền, quy trình thực
hiện cốt vóc là yếu tố khá quan trọng. Các họa sĩ, nghệ nhân ở Bình
Dương đã tuân thủ nghiêm ngặt các bước thực hiện cốt vóc như sau:
l. Mài nhám gỗ, lót sơn sống hom sớ gỗ, làm phẳng mặt gỗ trước khi
bọc vải.
2. Bọc vải lót sơn mặt gỗ: Dùng vải tám bọc sát và sơn lót lên mặt vải
một lớp sơn nữa. Bọc vải nhằm giúp cho sản phẩm không bị co rút,
méo mó hoặc bị nứt.
3. Hom chu: hom chu 3 lần để tăng tính bền chắc cho sản phẩm. Lần
hom thứ ba, mài bằng đá, mực nang hoặc giấy nhám cho phẳng.
4. Lót và mài lót: Tiếp tục lót 3 lớp sơn sống, ủ khô, để tăng độ bền
chắc của sản phẩm, cuối cùng mài lớp sơn tùy theo màu nền của đề tài.

Đến nay, qua khảo sát thực tế, kỹ thuật sơn mài Bình Dương bao g
ồm 7

hình thức thể hiện sau đây:
l . Vẽ màu vàng bạc:
a. Dát vàng làm nền: Sau khi sản phẩm được chuẩn bị xong phần cốt
vóc, mài quang phẳng mịn xong đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc sơn
cẩm sách lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho ráo mặt sau đó dùng vàng
hay bạc dán lên sản phẩm, là đến giai đoạn vẽ hoạ tiết lên. (Minh họa
H. 1 và H. 2)
b. Dát vàng trên họa tiết: Sản phẩm đã được chuẩn bị phần cốt vóc, m
ài
quang phẳng mịn, đánh bóng xong thì đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc
sơn cẩm sách (còn gọi là cẩm sắc) lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho
ráo mặt sau đó dùng vàng hay bạc dát lên họa tiết, ủ khô vẽ chi tiết lên
hoạ tiết .
2. Vẽ phủ (còn gọi là Vẽ phủ mỏng):
Dùng lớp sơn trong phủ lên để hình ảnh và màu sắc chìm dưới lớp sơn
này. Tạo cho tranh cảm giác ẩn hiện, thường đư
ợc áp dụng trong những
đề tài như cá vàng, chim trĩ, hoa điểu. (Minh họa H. 3)
3. Vẽ lặn :
a. Vẽ lặn mỏng: Sau khi lót, mài lót là in mẫu và vẽ hoạ tiết lên thật
mỏng và đều, sau đó phủ lớp sơn cánh dán hoặc đánh lên một lớp verni.

b. Vẽ lặn phức tạp: là hình thức gồm nhiều chất liệu như vỏ trứng, ốc,
vàng lá, bạc lá, cách thực hiện gồm nhiều giai đoạn: in mẫu, cẩn trứng,
cẩn ốc, vẽ màu, theo các bước sau:
- Đặt mẫu vẽ lên sản phẩm.
- Đặt giấy can có rắc bột phấn vào giữa.
- Dùng bút chì cứng hoặc vật nhọn để đồ theo mẫu vẽ, vẽ nét phấn lại
bằng cọ, chạm sơn đen, xong đem ủ khô. Phần nào cẩn trứng, cẩn ốc th
ì

dùng dao cắt khoét xuống cẩn ốc, để khi vẽ lên tranh được bằng phẳng.
ủ khô dùng sơn hoặc màu lót lên phần ốc và trứng rồi mài cho bằng
phẳng, kế đến vẽ màu, tạo chất liệu vàng bạc cho bức tranh và làm
phông. Sau khi hoàn chỉnh đem ủ khô, phủ mài đánh bóng. Cách thể
hiện này có khác với cách thể hiện nhiều lớp màu theo từng mảng của
truyền thống nhưng vẫn đạt hiệu quả trong suốt của chất liệu do vẽ
bằng sơn ta và đáp ứng được thời gian thực hiện nhanh, mặt tranh luôn
phẳng bóng có thể áp dụng trên nhiều loại sản phẩm như án gió, xa
lông, bình soa, liễn thờ
Mài: Dùng giấy nhám mịn mài đều, nhẹ tay, lúc mài phải luôn có nư
ớc,
xoa đều cho đến khi tranh phẳng và đúng theo mẫu, đây là công đoạn
quan trọng quyết định giá trị sản phẩm.
Đánh bóng: Đầu tiên dùng bột than, bột chu gói trong túi vải thưa, chà
sát đều sản phẩm, sau đó dùng lòng bàn tay chà sát thật mạnh cho đến
khi mặt phẳng hơi nóng, cuối cùng lau dầu bóng (Minh họa H. 4).
4. Cẩn ốc: Không phải là khâu chính trực tiếp tạo ra sản phẩm, tuy
nhiên cẩn ốc cũng giúp cho sản phẩm có giá trị cao về mặt nghệ thuật
mỹ thuật. Thợ khảm dùng nguyên liệu là gỗ (thường là loại tốt), sơn ta
(dùng để gắn) và vỏ trai, vỏ ốc để tạo ra những sản phẩm, những mặt
hàng cao cấp về thủ công mỹ nghệ. (minh họa H. 5, H. 6 và H. 7).
Người thợ khảm tiến hành nhiều công đoạn như: vẽ mẫu, mài, cưa,
chạm, hạ mặt, mài dũa, đánh bóng vỏ ốc, trai.
a. Cẩn chìm: Trước đây, theo lối truyền thống ở Hà Nội thì cẩn sau giai
đoạn mài lót, dùng dao khoét sâu chỗ cẩn phủ sơn sống để giữ dính xà
cừ đặt vào, lót thêm hai hoặc ba lớp sơn để phủ kín chỗ hở. Sau này,
nghệ nhân Bình Dương nghiên cứu cẩn ốc vào sau giai đoạn mài hom,
và tiếp tục hom cho bằng mặt ốc, dùng nhám và nang mực mài cho m
ặt
ốc hơi cao hơn mặt sơn hom một ít, sau đó dùng sơn lót lên mài cho

bằng phẳng quang hoặc phủ là xong. Như vậy sẽ giảm đư
ợc nhiều công
đoạn và tiết kiệm công và vật tư.
b. Cẩn nổi: Cẩn lên trên lớp sơn hom đã mài phẳng, sau đó lót tiếp vài
nước sơn sống cho bằng mặt với xà cừ, ủ khô, mài phẳng. Sản phẩm
khi hoàn chỉnh mặt ốc cao hơn mặt tranh. Thể loại này thực hiện nhanh
ít tốn công và vật tư.
5. Cẩn vỏ trứng: Dùng vỏ trứng kết hợp với kỹ thuật sơn mài truyền
thống (sơn ta), nhưng khác ở chỗ vỏ trứng trên nền sơn phẳng không
chỉ tạo mảng màu trắng mà có thể cẩn riêng thành một thể loại hay đề
tài như chân dung, phong cảnh, cảnh sinh hoạt, lao động v.v Cẩn vỏ
trứng có nhiều kỹ thuật: cẩn úp, cẩn ngửa, trứng rây với nhiều sắc độ
bằng cách chuyển đậm nhạt hoặc nướng vỏ trứng trư
ớc khi cẩn, hay tạo
nhiều mảng vỏ trứng lớn nhỏ khác nhau. Vỏ trứng còn kết hợp với vẽ
màu tạo ra nhiều hiệu ứng quý. Các cơ sở sơn mài ứng dụng Bình
Dương đã thực hiện nhiều sản phẩm lớn như đĩa tròn đường kính 1,5m,
bình cao 2,4m cẩn vỏ trứng với đề tài phong cảnh, hoa văn trang trí
Cách cẩn mới của các họa sĩ là vỏ trứng được phủ hầu như toàn bộ sản
phẩm, không thành mảng tách bạch, mà nó vừa lấn át một cách kín đáo
trên bề mặt rộng, vừa ẩn sâu trong mọi vật, đem lại những hiệu quả bất
ngờ (Minh họa H. 8 và H. 9).
6. Khắc trũng: Là hình thức được khách hàng yêu thích nhiều, được
thực hiện trên tranh, bình, hũ, hộp. Sau khi làm bóng, can mẫu, dùng
dao, đụt bén nhọn khắc trũng xuống, hoặc xủi lên họa tiết rồi tô màu.
Có thể tô màu dầy lên bằng phông rồi đánh bóng sau, đề tài thường
được thể hiện là hoa điểu, phong cảnh, đền chùa (Minh họa H. 10).
7. Đắp nổi: Sau khi làm bóng, dùng chu trộn sơn thành chất dẻo để đắp
nổi lên. Hoặc đắp nổi lên tranh sau đó mài phẳng là đến giai đoạn làm
phông, quang, mài phẳng và vẽ. (Minh họa H. 11 và H. 12)

Yếu tố kỹ thuật trước hết phải kể đến khâu pha chế nhựa sơn. Để có
được một kỹ thuật độc đáo, nghệ nhân và họa sĩ Bình Dương đã không
ngừng tìm tòi sáng tạo ra một phương pháp, một cách thức thể hiện
riêng để phục vụ cho các thể loại, sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Kỹ
thuật thể hiện phong phú qua nhiều thể loại, việc pha chế sơn cũng đòi
hỏi có những kỹ thuật khác nhau, mỗi thể loại cần một cách pha chế
riêng. Ví dụ như khắc trũng là loại tranh phần lớn được quang bóng
xong mới khắc xuống nên lớp sơn phía dưới phải dẻo, bền chắc, không
dòn và có độ dày đều nhau, do đó, khi pha chế sơn Phú Thọ các nghệ
nhân và họa sĩ Bình Dương đã pha trộn thêm sơn Nam Vang có tính
dẻo vào để khi khắc xuống không bị bể, nứt hoặc hư nét. Sơn dùng phủ
cá vàng khi pha chế phải trong, bóng, có như vậy khi mài ra mới thấy
rõ từng vảy cá ẩn hiện dưới làn nước. Sơn quang đen, quang son, cần
độ dẻo, sơn tỏa khi quang không bị trằn, quánh đặc, không đều. Nhiều
sản phẩm quá lớn lại tranh thủ làm ban đêm cho nên các nghệ nhân tìm
cách làm cho sơn chín và tỏa để có thể quang cả ban đêm. Với kỹ thuật
quang sản phẩm tủ, án gió lớn phải là thợ có tay nghề cao vì yêu cầu ra
sơn phải thật đều, nhanh tay, mặt sơn phải thật đều và tỏa, yêu cầu
không bụi, không sọc thép, không dày hoặc mỏng, có như thế khi mài
quang mới đạt, nếu có sơ xuất thì phải phủ lại toàn bộ.
ở phía Bắc thế mạnh là những sản phẩm nhỏ, yêu cầu về số lư
ợng, phần
lớn tranh thủ thời gian nông nhàn nên tiến độ thi công rỗi rãi hơn. Pha
chế bằng sơn Phú Thọ, độ trong nhiều và sơn mau khô hơn. Sơn Bình
Dương pha chế thường có thêm sơn Nam Vang nên sơn thêm độ dẻo v
à
ấm (nâu đậm) hơn. Cách pha chế của mỗi miền và nghệ nhân đều khác
nhau, nhưng mỗi cách pha chế có ưu điểm riêng nhằm đạt đến hiệu quả
t
ốt nhất. Khi thực hiện phải tính toán chu đáo từng lớp để tiết kiệm thời

gian và vật tư mà sản phẩm vẫn đẹp. So với những sáng tác tạo hình
của các họa sĩ Hà Nội thì cách thực hiện của sơn mài Bình Dương đơn
giản hơn, chất liệu và phương pháp tạo hình mang tính ước lệ, thực tế
và mang tính ứng dụng. Nên việc thực hiện thuận lợi và nhanh. Từ đó
có thể giải quyết được số lượng lớn sản phẩm cho nhu cầu khách hàng.

Trong nghề sơn cổ truyền hay hiện đại, kỹ thuật pha chế sơn đóng vai
trò đặc biệt quan trọng. Sơn là nguyên liệu chính và cũng là yếu tố h
àng
đầu quyết định chất lượng sản phẩm. Bằng phương pháp sản xuất hiện
đại, sử dụng sơn keo hóa học kết hợp với sơn ta, m
ột số nghệ nhân, họa
sĩ trẻ Bình Dương vẫn đang tìm tòi th
ể nghiệm để tiếp tục tạo ra các sản
phẩm mới có chất lượng dựa trên kỹ thuật sơn mài truyền thống. Điều
này cũng là tất yếu trong cơ chế kinh tế thị trường, của cạnh tranh khốc
liệt mà Bình Dương là một trong những địa phương đi đầu trong cả
nước. Chúng ta chấp nhận thực tế sinh động này như là yếu tố ngoại
sinh mà PGS - TS Nguyễn Tri Nguyên đã viết: “Di sản văn hóa mà cốt
lõi của nó là truyền thống văn hóa, đóng một vai trò rất quan trọng với
tư cách là nguồn lực nội sinh cho quá trình tiếp biến văn hóa. Trên con
đường hiện đại hóa văn hóa, xã hội và con người, một sự phát triển nội
sinh của văn hóa dân tộc, - xuất phát từ những nhu cầu và điều kiện b
ên
trong, có vai trò động lực. Truyền thống văn hóa dân tộc đã chuẩn bị
cho văn hóa phát triển theo hướng hiện đại. Chỉ với một sự phát triển
như thế mới có thể vừa đổi mới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc của văn
hóa. Trong sự phát triển đó, yếu tố giá trị được gia tăng” (“Văn hóa -
tiếp cận lý luận và thực tiễn”, NXB Văn hóa thông tin, Hà N
ội 2006, tr.

235).
Tóm lại, có thể khẳng định yếu tố kỹ thuật đã tạo nên nét độc đáo của
sơn mài ứng dụng Bình Dương qua việc tiếp thu kỹ thuật sơn mài
truyền thống. Với lịch sử phát triển hàng mấy trăm năm, nghề sơn mài
ở đất Bình Dương đã trở thành vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc
văn hóa của địa phương. Nó kế thừa nghề sơn truy
ền thống của dân tộc,
phát huy đến đỉnh cao chất liệu truyền thống và nghệ thuật thể hiện,
tiếp cận với các xu thế mỹ thuật hiện đại. Nghề sơn mài Bình Dương đ
ã
tồn tại và truyền từ đời này qua đời khác bằng bàn tay, khối óc và tâm
huyết của biết bao thế hệ, nó đã để lại dấu ấn trong đời sống qua biết
bao sản phẩm, góp phần vào di sản truyền thống mỹ thuật Việt Nam.
Ngày nay, trong điều kiện mới, cuộc sống, con người và ngh
ề nghiệp, ở
lĩnh vực nào cũng có thể có cơ hội đồng thời có thách thức mất còn.
Trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại với kiểu sản xuất
hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm sơn mài theo kiểu “hàng
chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm không còn giữ được vẻ đẹp của sơn
mài truyền thống. Người ta chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào
nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài
giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch.
Cũng bắt đầu có dư luận chê cái kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và
một loạt sản phẩm, tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ
lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn
lộn. Nghề sơn mài truyền thống đã dần bị mai một.
Một số họa sĩ trẻ và nghệ nhân đã đóng góp đáng kể cho sơn mài ứng
dụng Bình Dương trong thập niên 90 bằng sự ra đời một dòng sản
phẩm mỹ nghệ theo kỹ thuật mới. Dầu vậy, so với danh tiếng sơn mài
Thanh Lễ hay Trần Hà những năm 60 về chất lượng không thể bằng

được. Sơn mài ứng dụng Bình Dương cũng còn nhiều hạn chế cần đư
ợc
khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về kỹ thuật sơn mài ứng
dụng của Bình Dương làm cơ sở nhận thức để các họa sĩ (nhất là các
họa sĩ trẻ), các nghệ nhân hãy cùng góp phần khôi phục, bảo tồn và
phát triển nghề sơn mài Bình Dương trong tương lai.
Nguyễn Văn Minh

×