Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TƯỢNG LIỄU HẠNH Ở PHỦ NẤP - MỘT PHO TƯỢNG ĐỒNG ĐỘC ĐÁO doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.39 KB, 6 trang )

TƯỢNG LIỄU HẠNH Ở PHỦ NẤP - MỘT PHO TƯỢNG ĐỒNG ĐỘC ĐÁO


Được xem như là một biểu tượng nữ rực rỡ nhất trong tâm thức dân gian Việt
Nam, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, còn là một trong sáu nhân vật kỳ tài của đất Vụ Bản
được truyền tụng là Thiên Bản lục kỳ. Bà cũng là nhân vật nữ duy nhất trong các
thánh “tứ bất tử” của Việt Nam gồm Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, phù
Đổng Thiên Vương và Liễu Hạnh. Theo các truyền thuyết và thư tịch cổ ghi nhận,
thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh có đến 3 lần sinh hóa, để tác oai tác phúc. Đây cũng là
nhân vật chứa đựng trong mình đầy đủ những phẩm chất cũng như các cá tính của
người phụ nữ Việt Nam. Bà vừa là người hiếu nghĩa với cha mẹ, thủy chung với
chồng, tận tụy với con, nhưng cũng là một người đàn bà mang trong mình những
khát vọng yêu đương mãnh liệt. Bà là biểu tượng của lòng thiện tâm, giúp nước
giúp đời, nhưng cũng lại là người thể hiện ra cái khí phách ngang tàng bỡn cợt
trừng trị những thói hư tật xấu trong xã hội phong kiến. Bởi sự hội tụ những phẩm
chất này, nên triều đình Lê Nguyễn đã vinh phong bà là “Thượng Đẳng Thần Chế
Thắng Hòa Diệu đại Vương”, là “Mạ Vàng công chúa”. Triều Nguyễn đã phong
Bà là bậc “Mẫu Nghi Thiên Hạ”.
Đền phủ được dựng lên để thờ Bà có ở khắp nơi. Các tác phẩm điêu khắc tạc nên
để tôn vinh Bà cũng rất phổ biến trong các điện thần Đạo Mẫu. Trong số những
tác phẩm điêu khắc đó thì pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh đặt trong hậu cung
Phủ Nấp, Vỉ Nhuế, ý Yên, Nam Định có thể xem là một trong những tác phẩm
đẹp, độc đáo. Tác phẩm này, không chỉ độc đáo do chất liệu tạo tác bằng đồng mà
còn ghi nhận những giá trị lịch sử và văn hóa của địa danh Phủ Nấp, cũng như
chứng thực cho các truyền thuyết về Mẫu Liễu, vốn được xem là những hư cấu
trong dân gian. Pho tượng tạc Mẫu Liễu Hạnh ngồi xếp bằng rất khoan thai, trong
trang phục giản dị, nét mặt bình thản, và có phần thôn dã. Đôi mắt bà hơi nhìn
xuống như đang tập trung vào nội tâm, hai tay bà đặt trên hai đầu gối trong tư thế
ấn quyết. Theo tiến sĩ Vũ Huy Trác trong “Quảng cung linh từ phả ký” thì pho
tượng đồng này do vợ chồng Lạng Giang Phạm Đại nhân hưng công vào những
năm 70 của thế kỷ XVIII. Như vậy pho tượng qua phong cách tạc tượng và thư


tịch ghi chép đã cho thấy tính chất đồng nhất về niên đại. Tuy nhiên, nếu đặt tác
phẩm này trong mối tương quan với đa phần các tác phẩm tạc Thánh Mẫu Liễu
Hạnh thì đây lại là một pho tượng mang nhiều nhân tố độc đáo.
Về lịch sử hình thành hệ thống điêu khắc thờ Mẫu ở Việt Nam có lẽ không thật
sớm như Đạo Phật hay Đạo Giáo. Có thể nói trước thế kỷ XVII, dường như không
có các tượng thờ đạo Mẫu, bởi theo quan niệm của dân gian thần linh là vô hình.
Pho tượng thường không thể đại diện cho thần linh, do vậy phổ biến h
ơn trong dân
gian cách thờ các thần linh thường là thờ ngai, chứ không thờ tượng. Ngai chính l
à
cái ghế ngồi của các vị anh linh hiển thánh. Trên chiếc ngai thờ, người ta thường
khắc tên lên lưng ngai, hoặc đặt bài vị của người được thờ lên đó. Trong Đạo Mẫu
thì sự hiển linh của các vị Thánh còn được biết đến thông qua các nghi thức lên
đồng. Sự giáng đồng của các thánh mẫu hay các quan, các ông hoàng, các cô, các
cậu Do vậy đôi khi hệ thống tượng thờ là không cần thiết để khắc họa những giá
trị tâm linh, bởi giá trị tâm linh được thể hiện ra trong niềm tin, tâm khảm của mỗi
con người chứ không phải là sự hiện hữu diện tiền. Đồng thời điều này cũng giải
thích cho việc các điêu khắc Đạo Mẫu thường rất khiêm nhường, chiếm một
không gian vừa phải để nhường chỗ cho những hoạt động diễn xướng hiển thánh
khi giáng đồng của các nhân vật được thờ. Mặc dầu vậy, khi hình thành, các điêu
khắc Đạo Mẫu cũng có một vị thế nhất định trong không gian đền phủ để tạo nên
tính chất hoàn thiện cho một tín ngưỡng tôn giáo.
Chúng tôi cho rằng hệ thống điêu khắc Đạo Mẫu chỉ bắt đầu xuất hiện từ khoảng
thế kỷ XVII thịnh hành và nở rộ trong thế kỷ XVIII và các thế kỷ tiếp theo với
những sự thay đổi tiếp biến liên tục. Đây cũng là thời điểm các đền phủ đư
ợc nhập
vào các chùa theo truyền thuyết Liễu Hạnh được Thích Ca Mâu Ni giải cứu, rồi
qui y Phật Pháp sau trận Sòng Sơn đại chiến. Truyền thuyết này có lẽ được xem
như một trong những nhân tố để hợp thức hóa các hiện tượng thờ mẫu trong chùa,
song song với dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” gắn liền với các vị thiền sư (như

chùa Thầy, chùa Keo, chùa Bối Khê). Và không chỉ trong kiến trúc, trong điêu
khắc cũng bắt đầu xuất hiện hình thức tiếu tượng của các vị Thánh, mà trước đó
dường như là không có. Tục đặt tượng thờ hậu trong các đình chùa đến giai đoạn
này cũng phát triển nở rộ. Do vậy tâm lý hình tượng hóa hình ảnh các vị thần linh
trong các điện đường, chùa chiền lúc này dường như đã trở thành một tâm thức
mới, khác với quan niệm về sự vô hình kể trên.
Như vậy sự hình thành của một điện Mẫu từ thế kỷ XVII là do sự hội tụ của nhiều
nhân tố khác nhau. Trong đó tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh cũng đồng thời xuất
hiện với sự phát triển, tiếp biến của hệ thống điêu khắc điện Mẫu này. Hình ảnh
tiếu tượng học của bà cũng được dựa trên các quan niệm, cũng như các thần tích,
truyền thuyết về sự thăng giáng được truyền tụng. Cho dù ra đời khá muộn nhưng
Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã chiếm ngôi vị cao nhất trong điện thờ Mẫu, đó là Đệ
Nhất Thượng Thiên Thánh Mẫu.
Trở lại với pho tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ trong hậu cung của Phủ
Nấp, thì có thể nói đây là một pho tượng mang tính chất đặc biệt. Nó không chỉ
đơn giản là bức tượng khắc họa lên một hình Thánh Mẫu với những tính cách
chung chung, mà ít nhiều liên quan đến một nhân vật có thực với những thần tích
và thần phả. Người ta nhìn thấy ở pho tượng này tính chất tương đồng của hình
tượng Mẫu Liễu Hạnh ở đây với lối tạc tượng hậu rất phổ biến trong các ngôi ch
ùa
Việt vào thế kỷ XVII - XVIII, kể cả về kích thước cũng như phong cách. Điều n
ày
được thể hiện ra trong dáng ngồi xếp bằng rất nghiêm cẩn. Các nếp áo được tạc
một cách giản dị với hai lớp áo choàng ở ngoài và một chiếc yếm đào phía bên
trong. Cách phục trang giản dị này khiến cho pho tượng trở nên sống động gần
gũi.
Đối sánh cách thức tạo hình của pho tượng này với những pho tượng Mẫu Liễu
được thờ trong các chùa, phủ, thì người ta cũng có thể nhận thấy sự khác biệt rất
căn bản. Nếu tính chất lý tưởng hóa theo mẫu thức đư
ợc qui chuẩn từ các tác phẩm

tranh dân gian thì Mẫu Liễu thường được tạc theo tư thế ngồi trên ngai, hai đầu
gối song song, một tay đặt trên đầu gối, một tay ấn quyết, dáng vẻ thư thái, m
ặc áo
màu đỏ (Mẫu Thượng Thiên). Hoặc bà được tạc theo tư thế ngồi xếp bằng khoan
thai, hai tay đặt lên hai đầu gối. Trên đầu bà thường được tạc đội một cái vương
miện lộng lẫy. Mẫu thức này, không chỉ áp dụng đối với các tượng Liễu Hạnh
được tạc thờ trong các đền phủ, mà được áp dụng để tạc tất cả các nhân vật Thánh
Mẫu khác (mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn). Điều khác nhau duy nhất ở
các tượng thờ mẫu này là màu sắc các trang phục.
Từ đó ta thấy rằng, pho tượng Mẫu Liễu ở Phủ Nấp, không chỉ giản dị trong trang
phục, mà trên đầu của bà cũng không đội vương miện lộng lẫy, ở đây chỉ đơn
thuần có một chiếc chụp tóc búi cao, càng làm gương mặt của bà trở nên gần gũi
đời thường. Hơn thế nữa, có thể nói cái khéo của các nghệ nhân dân gian khi tạc
nên pho tượng này chính là sự liên hệ giữa hình thức tạo tác và vị thế đặt pho
tượng tại Vỉ Nhuế, Phủ Nấp. Theo sự ghi nhận của các thần tích thần phả, cũng
như những văn bia câu đối ở các phủ trong quần thể di tích Phủ Dày cho biết: lần
giáng trần đầu tiên của Mẫu là ở Quảng Nạp (Phủ Nấp - Vỉ Nhuế) nay thuộc xã
Yên Đồng, huyện ý Yên, Nam Định. Như câu đối ở phủ chính Tiên Hương: “Tam
Thế luân hồi, vu vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn ngũ bách dư niên quang thực
lục / Lịch triều ba cổn, vi đế nữ, vi đại vương, vi chúng mẫu, ức niên vạn cổ điện
danh bang”. Hay câu đối ở chính Phủ Nấp do Tổng đốc Nam Định Đoàn Tri
ển ghi
năm 1915: “Giáng vu Vỉ Nhuế do tiền sự / Địa hữu Sòng Sơn thuộc hâu thời”(1)
cũng chứng thực về lần giáng trần đầu tiên này. Cũng theo truyền thuyết thì trong
lần giáng trần đầu tiên này bà hiện ra là một cô thôn nữ.
Theo “Quảng Cung Linh Từ phả chí” do đệ nhị giáp tiến sĩ Quốc Tử Giám Tế tửu
Khiếu Năng Tĩnh (người xã Châu Mỹ, huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hưng,
Nam Hà, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, năm Tự Đức thứ 33, 1880) Tiên chúa Giáng
sinh ngày 6-3 ở gia đình ông Phạm Đức Chính, thôn Quảng Nạp vào năm Thiệu
Bình nguyên Niên (1434) được đặt tên là Phạm Thị Nga hay Phạm Tiên Nga). Bà

có nhan sắc nhưng không chịu lấy chồng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, cứu giúp
người nghèo tu sửa đền chùa. Ngày 2-3 năm Quý Tỵ niên hiệu Hồng Đức (1473)
tiên chúa về trời, thọ 40 tuổi. Tác phẩm Cát Thiên tam thế thực lục (bản khắc gỗ
98 trang, hiện còn lưu giữ ở ý Yên) cũng ghi chép nội dung tương tự.(2)
Như vậy việc bức tượng đồng tạc Mẫu Liễu Hạnh trong dáng vẻ một thôn nữ đư
ợc
đặt ở Phủ Nấp là có căn nguyên. Đồng thời nó cũng cho thấy cái thâm ý của ngư
ời
xưa khi tạo tác một tác phẩm nghệ thuật, chứ không đơn thuần áp đặt một hình
thức đã được mẫu thức hóa về một nhân vật được hiển Thánh trong dân gian với
đầy đủ tính chất dung dị và đời thường của nhân vật này.
Trang Thanh Hiền
Tài liệu Tham khảo:
1. Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu, Nxb khoa học xã hội 2007
2. Bùi Văn Tam, Phủ Giày và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh, Nxb Văn hóa dân tộc -
Hà Nội 2001

×