Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo khoa học " DIỄN BIẾN KINH TẾ NĂM 2010 VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC DÀI HẠN " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.71 KB, 19 trang )

DIỄN BIẾN KINH TẾ NĂM 2010
VÀ VẤN ĐỀ TÁI CẤU TRÚC DÀI HẠN

TS. Phạm Đỗ Chí
Cựu chuyên gia cao cấp IMF

Chính sách thắt chặt tiền tệ từ cuối năm 2009 đã đem lại kết quả rõ rệt trong
6 tháng đầu năm 2010 với tình hình vĩ mô được ổn định, đáng kể nhất là nguy cơ
lạm phát 2 con số được chặn lại từ quý 2 và tăng trưởng kinh tế hồi phục lên mức
cao hơn năm ngoái, gần hơn tới mục tiêu 6,5 % của Chính phủ cho năm nay.
Tuy nhiên sau việc điều tra những sai phạm và tái cấu trúc Vinashin được
công bố, những vấn đề dài hạn như tái cấu trúc nền kinh tế và quản trị các doanh
nghiệp nhà nước lại xuất hiện nổi cộm như những ưu tiên chính sách mới, nhất là
khi chính phủ đang kết thúc việc sửa soạn các chương trình kinh tế xã hội cho 5 và
10 năm tới.
GDP tiếp tục gia tăng nhờ hoạt động kinh tế trong nước tăng tốc
GDP tăng 6,4% trong Q2.10 so với 5,8% trong Q1.10, và 6,1% cho 6 tháng
đầu năm. Nguyên do là nhờ khu vực công nghệ và xây dựng đã tăng 13,8% trong
Q2.10 và đặc biệt là hoạt động bán lẻ đã tăng 37,6 % so với cùng kì năm ngoái.
Đáng kể là trong một số hoạt động công nghiệp như sản xuất quần áo và da
giày, mặc dù phải đối phó với sự trì trệ tương đối của xuất khẩu sang khu vực Âu
châu do ảnh hưởng khủng hoảng nợ công của châu lục này, các nhà sản xuất đã
linh hoạt quay sang thị trường nội địa để duy trì sản xuất. Điều này nói lên khả
năng tiềm ẩn của thị trường nội địa trong trung hạn khi Việt Nam phải đối phó với
vấn đề xuất khẩu giới hạn.
Khả năng này cho thấy mục tiêu tăng trưởng 6,5% có thể đạt được cho cả
năm khi dự báo tăng cho GDP là 7%-7,2% cho 6 tháng tới.
Lạm phát tiếp tục được kiềm chế
Lạm phát tiếp tục giảm trong quý 2, còn 8,7% vào tháng 6 so với cùng kì
năm ngoái, so với 9,5% vào tháng 3, do chính sách tín dụng thắt chặt và giá cả thực
phẩm và năng lượng giảm.


Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 3,5% trong Q1 và 13% trong 7 tháng đầu
năm; mục tiêu làm giảm cung tiền và tín dụng xuống còn 20%-25% trong năm
2010 có thể thực hiện được và sẽ tiếp tục làm giảm kỳ vọng lạm phát cho 6 tháng
cuối năm, nhờ đó mức lạm phát cho cả năm có thể giữ được ở mức 8%-9%, thay vì
mức hai con số lo ngại dạo đầu năm.
Giá dầu quốc tế giảm xuống còn 75 USD/thùng trong tháng 6 cũng đã góp
phần giảm sức ép cho lạm phát. Nhưng khuynh hướng giá dầu tăng trở lại lên trên
80 USD/thùng vào cuối tháng 7 vẫn còn là áp lực đẩy giá, ngoài vấn đề chính là
NHNN vẫn cố giữ được mức tăng hợp lý cho tín dụng trong những tháng cuối
năm.
Các cố gắng để đem tín dụng trở lại dần với cơ chế thị trường
Mặc dù có sự can thiệp tích cực của NHNN thông qua Hiệp hội Ngân hàng
để đem lãi suất cho vay xuống thêm nữa ở mức công bố là 12%, lãi suất này thật sự
vẫn còn được áp dụng ở dải 12%-16%, và lãi suất tiền gửi giảm xuống còn 11%-
11,2%
Thanh khoản tiếp tục tăng trên thị trường liên ngân hàng, giúp lãi suất đồng
Việt Nam qua đêm giảm xuống còn 6%-7% và lãi suất đồng USD giảm xuống mức
bình thường là 0.5%-1%.
Trong khi đó, các ngân hàng với tình trạng thanh khoản cải thiện đã mua
thêm nhiều trái phiếu chính phủ và giúp cải thiện thị trường trái phiếu qua đó nhiều
trái phiếu Chính phủ được bán qua đấu giá và làm lãi suất trái phiếu giảm nhanh từ
12,2% vào cuối tháng 4 xuống còn 10,7% vào đầu tháng 7.
NHNN đặt mục tiêu giảm lãi suất tiền gửi xuống còn 10% và lãi suất cho
vay thật sự xuống 12% trong quý 3. Điều này khiến một số doanh nghiệp tiếp tục
chờ đợi chưa vay vốn tiền đồng và dùng vốn tự có hay vay vốn bằng USD. Việc
này cũng làm nền kinh tế càng bị đô la hoá hơn và tạo ra áp lực lên tỉ giá như bàn
dưới đây.
Khả năng lãi suất xuống thấp nữa hay không là tuỳ theo nhiều yếu tố : (i)
mức lạm phát tiếp tục xuống trong những tháng còn lại giúp làm giảm kỳ vọng lạm
phát cho năm tới; (ii) sự ổn định của nền tài chính công gây tin tưởng trở lại cho

các doanh nhân cũng như giới đầu tư; (iii) sự hoạt động trở lại của tín dụng theo
các điều kiện thị trường bớt hẳn sự can thiệp của NHNN; và nhất là (iv) sự ổn định
của tỉ giá.
Thâm hụt thương mại tiếp tục ở mức cao và các khoản vay ngân hàng
bằng USD lại làm ảnh hưởng đến tỉ giá
Thâm hụt thương mại lại tăng lên 1,2 tỉ USD vào tháng 6 so với 0, 87 triệu
USD vào tháng 5. Xuất khẩu đã đạt 32,1 tỉ USD trong 6 tháng, nhưng nhập khẩu
tăng lên 38,8 tỉ USD và thâm hụt thương mại vẫn ở mức cao 6,7 tỉ USD.
Sau khi tỉ giá thị trường tự do và thị trường chính thức gần như bằng nhau
19.000ĐVN/1 USD trong quý 2, mới đây áp lực lên tỉ giá lại xuất hiện do (i) thâm
hụt thương mại vẫn cao như nói trên; (ii) lo ngại mức tăng vọt của các khoản vay
ngân hàng bằng USD sẽ gây ra mức cầu USD cao vào cuối năm để trả lại nợ ngân
hàng; và (iii) vì dự trữ ngoại hối quốc gia nói chung vẫn ở mức thấp và vẫn chưa
được công bố chính thức đều đặn khiến dễ sinh ra đồn đại trên thị trường tự do.
Nói chung, thâm hụt kép ở mức cao của hai cán cân ngân sách và thương
mại chưa cho thấy dấu hiệu cải thiện chắc chắn và vẫn là vấn đề cần phải quan tâm
cho năm nay và trong thời gian trung hạn sắp tới.
Nhưng vấn đề dài hạn xuất hiện nổi cộm với việc tái cấu trúc nền kinh tế
Chuyện nợ lớn và khủng hoảng tài chính của VINASHIN vừa mới đây đã
đặt lại những vấn đề dài hạn về chi tiêu và nợ công của chính phủ cũng như hiệu
quả của toàn nền kinh tế. Vào ngày 16/7/2010, Thủ Tướng Chính phủ đã có bài
viết về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho 10 năm tới, đặc biệt nhấn mạnh 3
điểm :
 Mục tiêu cấp bách tái cấu trúc nền kinh tế
 Cải cách Doanh nghiêp Nhà nước (DNNN), nhất là các Tổng Công ty Nhà
nước vốn được nhận nhiều ưu đãi
 Vai trò tác động của các doanh nghiệp tư nhân trong tương lai
Đây là vấn đề cần thời gian suy nghĩ và chắc chắn sẽ được Chính phủ thảo
luận nhiều hơn trong thời gian vài tháng tới cho các lộ trình chính sách 5 năm
(2011-2015) và 10 năm (2011-2020). Nhưng tựu trung chúng tôi thấy có hai khía

cạnh chính lúc này :

 Thay đổi căn bản trong kế hoạch đầu tư quốc gia nhằm : (i) làm giảm các
thất thoát lãng phí khổng lồ gây sốc hiện tại trong các công trình đầu tư, nhất
là các dự án với nguồn vốn quốc gia hay đi vay vốn ODA và các nguồn vốn
tư nhân nước ngoài; (ii) tăng hiệu quả đầu tư bằng cách thật sự nâng cao vai
trò của khu vực tư nhân và áp dụng kế hoạch đầu tư mới bớt dùng vốn công
hơn; và (iii) trong tổng thể nhằm làm giảm hệ số ICOR giữa nhu cầu đầu tư
và độ tăng trưởng đang quá cao của Việt Nam, phản ánh song hành tệ nạn
thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư công.
 Đặt ra vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô dài hạn nhằm chặn đứng tâm lý lạm phát
phải đối phó từng năm như trong thời gian gần đây.
Từ vấn đề tái cấu trúc kinh tế và guồng máy sản xuất…
Tựu chung, kinh tế Việt Nam đã có được "tăng trưởng" với độ tăng GDP
hàng năm cao trong thập niên qua, nhưng vẫn chưa "phát triển" được theo đúng
nghĩa toàn bộ của nó với sự thiếu tính bền vững, thiếu chất lượng cao với các vấn
đề xã hội như môi trường. Hạ tầng cơ sở cũng như nền giáo dục mỗi ngày một
xuống dốc cần thay đổi để tạo sức cạnh tranh cần thiết cho nền kinh tế trong thập
niên tới.
Vấn đề căn bản cho kinh tế Việt Nam vẫn là chọn lựa thể chế thích hợp
cho sản xuất. Chúng ta nên tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bố nhiều tài
nguyên qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là bằng các Tổng Công ty nhà
nước, như đang làm hiện tại, hay cần thật sự tăng cường vai trò tác động của khu
doanh nghiệp tư nhân—một bước đi mới quyết đoán trong tương lai?

Và nếu muốn tăng cường vai trò của khu vực tư nhân, những chính sách
thích hợp gồm cả tiền tệ lẫn tài khoá cần được nghiên cứu để đẩy mạnh đầu tư và
sản xuất tư nhân qua việc thay đổi động cơ kinh doanh, cân bằng rủi ro và lợi
nhuận cho hoạt động đầu tư. Với cơ chế và động cơ khuyến khích hiện nay, dường
như đối với khu vực tư nhân những hoạt động đầu tư dài hạn có rủi ro cao và khả

năng thu lợi thấp hơn những hoạt động đầu cơ ngắn hạn vào thị trường bất động
sản. Việc này tạo những cơn "sốt", "bong bóng" trên thị trường trong nước—nhất
là trong khu vực bất động sản và tiềm ẩn rủi ro đổ vỡ cho khu vực tài chính ngân
hàng nếu không được giám sát.

Hình 1 : Tỷ trọng đầu tư theo sở hữu qua các năm (%) –
Tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước tăng không đáng kể từ sau năm 2004.



Nguồn : Tổng cục thống kê

Yếu tố cốt lõi là mô hình tăng trưởng từ 20 năm qua, dựa trên khuyến khích
xuất khẩu và đầu tư cao với FDI và đầu tư của khu vực công, cần được tái cấu trúc
với một chiến lược mới phát huy tốt hơn lợi thế so sánh của Việt Nam để tăng giá
trị gia tăng của hàng xuất khẩu và gia tăng các kỹ nghệ phụ trợ, đồng thời với việc
phát triển thị trường trong nước bằng những mặt hàng với chất lượng cao hơn.
"Người Việt dùng hàng Việt" có thể là chính sách khả thi với nhiều tiềm năng.

Để dựa vào phát triển "nội lực", yếu tố căn bản là phải cải thiện chất lượng
hoạt động điều hành và nguồn nhân lực trong khu vực công qua việc thực hiện kiên
quyết chương trình cải cách hành chính, chế độ tiền lương hợp lý hơn với việc tăng
năng suất (thí dụ : một người làm việc thay cho 2 người có thể được hưởng lương
gấp đôi), và tăng cường giám sát và minh bạch công khai trong hệ thống.

Trong đề tài tái cấu trúc nền kinh tế, bài của Thủ tướng cũng như ý kiến
nhiều tác giả khác đã nhấn mạnh nền kinh tế đất nước hiện chủ yếu "phát triển theo
chiều rộng" dựa vào các ngành tài nguyên và lao động chi phí thấp. Giải pháp sẽ là
cần một quá trình thay đổi trung và dài hạn theo chiều sâu với một cơ cấu mới về
phân bố và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế một cách hợp lý và hiệu quả hơn. Để

làm được việc này Việt Nam cần có chính sách phù hợp để phát triển khu vực
doanh nghiệp qua việc thay đổi động cơ và khuyến khích cho hoạt động đầu tư như
trình bầy ở trên.

Với cơ cấu sản xuất hiện có luôn đưa đến nhập siêu cao và từ đó áp lực
thường trực trên cán cân thanh toán quốc tế và tỉ giá, một trong những việc tái cấu
trúc cấp thiết khác là giải quyết vấn đề nhập siêu khi có tốc độ tăng trưởng bền
vững hơn. Các nền kinh tế khác ở Đông Á, sau khi có cùng vấn đề nhập siêu và
thất thu cán cân vãng lai cao ở 1-2 thập niên đầu của chu kỳ tăng trưởng nhanh,
thường đạt được mức xuất siêu đáng kể sau đó để có tăng trưởng bền vững do
không bị áp lực của cán cân thanh toán và sau đó còn có thể tăng nhanh quỹ dự trữ
ngoại hối như một gối dựa (cushion) tài chính vững chắc. Chúng ta sẽ cần một dự
án tái cấu trúc toàn diện guồng máy sản xuất để giải quyết lâu dài vấn đề nhập siêu.
Chúng ta cũng sẽ cần một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục –nhất là
giáo dục đại học—để chuyển dịch nhanh hơn nền kinh tế từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ với nhiều chú trọng hơn về công nghệ thông tin chẳng hạn.

Sau hết là một dự án nhằm vào việc công nghiệp hoá nông thôn nhanh hơn
với các công nghệ để tăng năng suất nông nghiệp và cải thiện mãi lực của khu vực
nông thôn. Liên hệ là các kêu gọi khẩn trương tăng tốc phát triển khu vực nông
thôn và cải thiện đời sống nông dân, nhất là nhu cầu phát triển một nền nông
nghiệp sạch để giải quyết đồng thời vấn đề cải thiện môi trường và hướng vào
xuất khẩu các nông sản sạch đang có nhu cầu tăng cao trên thị trường khu vực (như
từ Nhật Bản và Hàn Quốc) và quốc tế.

…Sang đến vấn đề đầu tư công
Vấn đề nan giải nhất là tỉ lệ đầu tư/GDP hiện tại của Việt Nam ở mức quá
cao là 42%, do chiến lược chỉ đạo là dùng đầu tư cao của khu vực nhà nước để đạt
mức tăng trưởng cao hàng năm. Đó cũng là nguyên nhân chính đưa đến thiếu hiệu
quả trong đầu tư và tỉ lệ thất thoát cao. Ưu tiên quan trọng là phải giảm tỉ lệ cao

này bằng nhiều biện pháp quyết liệt gồm cả việc thay đổi guồng máy đầu tư nhà
nước và giảm ngân sách đầu tư công hàng năm trong 5 năm tới.
Bước đột phá đề nghị là cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư công :

o Tách cơ quan quản lý khỏi kinh doanh
o Ban hành một "luật Đầu tư công" tập trung vào việc tăng minh bạch
công khai trong mua sắm và cơ chế giám sát, kiểm toán hiệu quả hơn
với các dự án sử dụng vốn nhà nước
o Tăng cường năng lực cho các tổ chức thanh tra giám sát các hoạt động
đầu tư công như kiểm toán nhà nước, thanh tra chính phủ cũng như
vai trò giám sát và phản biện của Quốc Hội với những dự án lớn và
quan trọng
Bước cụ thể là tăng hiệu quả đầu tư qua việc gia tăng đầu tư tư nhân nhằm
giảm tỉ lệ đầu tư/GDP từ mức 42% hiện tại xuống còn 30% vào năm 2015, qua
việc giới hạn mức đầu tư công xuống mức tối đa là 20% của GDP vào năm 2015,
nhằm vào việc giảm chỉ số ICOR mà không làm phương hại đến mục tiêu tăng
trưởng kinh tế 6%-7% trong 5-10 năm tới.
Riêng đầu tư nhà nước sẽ đặt trọng tâm hơn vào khu vực phát triển hạ tầng,
với việc tăng tốc chương trình hợp tác công tư (Public-Private Partnership
Program PPP) để tăng cường vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực trọng yếu này.
Nhiều nước tận dụng mô hình truyên thống như công ty cổ phần hay hình
thức mới như quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng tư nhân để xã hội hoá hoạt động đầu tư và
Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ kinh nghiệm bổ ích của nước ngoài trong
lĩnh vực này. Một trong các điểm mấu chốt cho việc thành công của mô hình này là
quản trị doanh nghiệp cần minh bạch hơn và có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ các nhà
đầu tư.
Trên đây mới chỉ là vài tiền đề góp ý vào thao thức và mạch nghĩ chung hiện
nay của cả nước ý thức được sự cần thiết của thay đổi, của một tư duy mới cho nền
kinh tế xã hội nói chung và một chiến lược phát triển cho 10 năm tới nói riêng,
nhưng thật sự chúng ta vẫn loay hoay quanh việc tìm ra những ý kiến và hướng đi

cụ thể.
…Và sau hết là việc đánh giá của các cơ quan định mức tín nhiệm nước
ngoài
Ngày 29/7, hãng định mức tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings đã giảm một bậc
định mức tín nhiệm nợ chính phủ của Việt Nam, từ BB- xuống mức B+. Đây là lần
thứ 2 tổ chức này đã hạ bậc xếp hạng của Việt Nam sau lần trước vào tháng 7 năm
2009. Việc hạ bậc lần này của Fitch được dựa vào các lý do trong báo cáo của họ
như sau :
"Mức tín nhiệm nợ quốc gia của Việt Nam đã giảm xuống trong bối cảnh
các dòng vốn từ bên ngoài yếu đi, nhu cầu gia tăng của Việt Nam về vốn để bù đắp
cho thâm hụt cán cân vãng lai và trả nợ tới hạn, nền kinh tế bị Đô la hoá ở mức độ
khá cao và hệ thống ngân hàng còn bộc lộ nhiều điểm yếu "
Mặc dù chúng ta có thể chưa đồng ý với một số điểm trong lập luận của họ
và thông điệp không êm tai nói trên, nhưng thực tế là đánh giá mới này khiến việc
vay vốn tương lai của Việt Nam sẽ trở thành khó khăn hơn và với lãi suất cao hơn.
Do đó cũng nên coi đây là một cảnh báo cần thiết và đúng lúc cho việc giải quyết
tình hình kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, vấn đề tài chính công đã được bàn đến ở trên,
cũng như những vấn đề tồn đọng của hệ thống ngân hàng và tín dụng.
Chỉ khi nào tình hình của nền tài chính nói chung được cải thiện theo nghĩa
rộng này, chúng ta mới có thể hy vọng những dòng tiền đầu tư nước ngoài, cả trực
tiếp (FDI) lẫn gián tiếp (FII) qua thị trường chứng khoán, sẽ tăng cường mạnh mẽ
và đều đặn. Cộng thêm với lòng tin trở lại của giới đầu tư trong nước, từ đó mới hy
vọng chấm dứt tình trạng "đóng băng" hiện tại và tái phát triển hai thị trường bất
động sản và chứng khoán một cách bền vững.
Từ cơn khủng hoảng nợ châu Âu xét tác động và rút bài học sớm cho Việt
Nam
Sau cơn bão nợ của Hy Lạp và gói tài chính tiếp cứu khẩn cấp của khối Euro
và IMF lên đến 147 tỉ USD, đã tưởng tình hình có thể tạm yên với các vòi rồng lớn
chữa cháy và sự chờ đợi thực hiện chính sách kinh tế đáp ứng mạnh mẽ của nước
này cũng như các biện pháp phòng ngừa của vài nước láng giềng Nam Âu, nhất là

Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Nhưng phản ứng tệ hại trên các thị trường tài chính thế giới, nhất là khi các
thị trường chứng khoán Âu Mỹ và Nhật Bản mất từ 10%-15% giá trị trong tuần lễ
ngay sau đó, đã cho thấy tác động của cơn bão này quan trọng hơn mọi quan sát
viên quốc tế đang nghĩ rất nhiều. Phản ứng mới nhất cho là cơn hồi phục kinh tế
thế giới sau khủng hoảng 2008-2009 có thể sẽ mang hình chữ W thay vì chữ V như
mọi người hy vọng dạo đầu năm 2010.
Vì tính cách quan trọng của vấn đề lây lan sang các nước láng giềng, bài này
sẽ dựa trên các số liệu sơ khởi trên Internet về nợ công và chồng chéo của các nước
có vấn đề ở Nam Âu, các giải pháp có thể bàn đến cũng như tác động lên việc duy
trì khối Euro và ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính thế giới, tiếp đến là các nhận
định khởi đầu cho ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam. Và sau cùng, thử rút ra vài bài
học sớm có thể cho vấn đề nợ công liên hệ đến chính sách đầu tư công quá lớn
đang được dùng ở Việt Nam.
Nợ công lớn và chồng chéo ở Nam Âu
Từ hình kèm đây được trích từ trên mạng Internet như một tham khảo sơ
khởi, các món nợ của các nước phia Nam châu Âu thật khổng lồ đối với 3 cường
quốc châu lục là Đức, Pháp và Anh, và cả các món nợ chồng chéo với nhau.
Trước hết là Hy Lạp đã được biết đến rộng rãi với món nợ 236 tỉ USD, quan
trọng nhất là gồm nợ Pháp 75 tỉ, Đức 45 tỉ và Anh 15 tỉ. Tuy nhiên còn chưa thấm
với 2 nước láng giềng được nói đến cũng đang trên bờ khủng hoảng là Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha.
Tây Ban Nha có món nợ tổng cộng là 1.100 tỉ USD, tức hơn 4 lần món nợ
Hy Lạp, bao gồm 238 tỉ với Đức, 220 tỉ với Pháp và 114 tỉ với Anh. Nước này
đang có tỉ lệ thất nghiệp là 20% và có nền kinh tế gần như yếu nhất châu lục.
Bồ Đào Nha có món nợ tổng cộng là 286 tỉ USD, bao gồm 1/3 là nợ Tây
Ban Nha (86 tỉ), rồi đến nợ Đức 47 tỉ, Pháp 45 tỉ và Anh 24 tỉ; nhưng Tây Ban Nha
cũng nợ chéo lại là 28 tỉ. Hy Lạp cũng nợ Bồ Đào Nha gần 10 tỉ.
Ngoài ra, cũng đáng để ý là Ý (Italy) có món nợ lớn tới 1.400 tỉ USD và
Ireland nợ 867 tỉ USD, và cả hai đều mang nợ lớn với 3 nước đã kể là Đức, Pháp

và Anh, dù hai nước chưa bị xếp vào tình trạng "báo động nợ".


Nguồn : Bank for International Settlements (Internet)
Chuyện gì sẽ xảy ra cho khối Euro?
Từ nỗ lực cứu Hy Lạp đã dấy lên một làn sóng sợ hãi cho rằng một cuộc
khủng hoảng nợ công tương tự có thể xảy ra tại một số nước khác như Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha, cũng như những hậu quả nghiêm trọng của nó đối với phục
hồi kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế mới so với khủng hoảng của châu Á
Cuộc khủng hoảng diễn ra tại Hy Lạp làm cho chúng ta nhớ lại khủng hoảng
châu Á diễn ra vào năm 1997-1998, bắt nguồn từ Thái Lan sau đó lan sang Hàn
Quốc và Inđônêsia. Tuy nhiên, sự giống nhau chỉ giới hạn ở bản chất của sự lây lan
và các khoản nợ bên ngoài.
Còn ngoài ra có nhiều sự khác nhau giữa cuộc khủng hoảng mới tại châu
Âu so với cuộc khủng hoảng tại châu Á :
- Các khoản nợ từ cuộc khủng hoảng cũ gần như là nợ tư, ngắn hạn, trong
khi các khoản nợ hiện nay của châu Âu là các khoản nợ công trung và dài hạn với
quy mô lớn hơn rất nhiều so với khoản nợ trước;
- Tổng các khoản nợ trong cuộc khủng hoảng châu Á là 40 tỉ USD trong khi
đó ước tính ban đầu của các khoản nợ tại 3 nước châu Âu lên tới 400-450 tỉ USD
(riêng gói cứu trợ cho Hy Lạp lên tới 147 tỉ USD), gấp hơn 10 lần so với quy mô
nợ tại châu Á;
- Những nỗ lực cứu chữa cuộc khủng hoảng châu Á tuy rất khó khăn nhưng
được khởi động nhanh chóng từ các chương trình của riêng IMF và được sự đồng
tình chấp thuận từ các nước tham gia;
- Trong khi đó, chương trình cứu trợ của EU-IMF thực hiện dưới sự phản
kháng quyết liệt từ phía người dân Hy Lạp, điều này dấy lên nỗi lo lắng về tính khả
thi của lập trình chính sách chữa trị. Sự chi tiêu bừa bãi cũng như sự nhập nhằng
trong số liệu tài chính và nợ công nhằm vội vã thực hiện đủ tiêu chí gia nhập vào

cộng đồng châu Âu của Hy Lạp được coi như nguyên nhân chính gây ra cuộc
khủng hoảng như hiện nay;
- Điều phi lý là chỉ trong thời gian ngắn trước đó, khó tin được là một số
nước châu Âu sẽ có ngày chấp nhận các biện pháp cứu trợ hà khắc của IMF. Sự hy
sinh và gian khổ cần có khó có thể được chấp nhận từ phía người dân châu Âu. Do
vậy, sự cứu trợ chắc chắn sẽ dài hơn, khó khăn hơn và cần huy động vốn nhiều
hơn.
Liệu Đức và Pháp đủ sức hay bằng lòng ra tay cứu khối Euro?
Trong khi gói cứu trợ các nước châu Á chỉ có từ IMF, thì cuộc khủng hoảng
tại châu Âu lớn hơn rất nhiều và cần sự hỗ trợ to lớn từ phía các nước châu Âu giàu
có khác như Đức, Pháp nếu muốn duy trì cộng đồng này và đồng tiền chung Euro.
Tin tức cho biết Đức sẽ tổ chức cuộc trưng cau dân ý về việc "cứu" Hy Lạp
nhưng gói nợ quá lớn của các đối tác châu lục khác cho thấy chính nền kinh tế của
họ sẽ bị đe doạ lớn, và điều này có thể làm chính Đức muốn rút lui ra khỏi khối
Euro.
Liệu Hy Lạp và vài nước nợ lớn khác có thể tiếp tục ở lại trong khối Euro
lâu dài?
Thất thu tài khoá của Hy Lạp hiện tương đương với 13% GDP. Muốn giảm
xuống mức đòi hỏi khoảng 3% GDP, họ phải tăng thuế và cắt chi tiêu công tương
đương với 10% GDP trong vài năm tới : một gánh điều chỉnh không thể kham nổi
với tỉ lệ thất nghiệp đã cao hiện nay là 10%.
Ngoài ra với cán cân nhập siêu hàng hoá đang là 15% của GDP, Hy Lạp
không thể sớm giảm nhập khẩu hay tăng xuất khẩu khi họ không có được chính
sách tiền tệ lẫn tỉ giá độc lập với tính cách thành viên khối Euro và dùng chung
đồng tiền Euro. Thời gian để điều chỉnh chính sách sẽ rất dài hay gần như không
thể được.
Một số chuyên gia quốc tế, như Martin Feldstein, đề nghị Hy Lạp có thể tạm
rút ra khỏi khối Euro trong ít năm và dùng trở lại đồng tiền riêng của mình là
Drachma với tỉ giá mới là 1 Euro = 1.3 Drachmas (tức là chấp nhận phá giá tiền
nội tệ riêng của mình 30% so với tiền Euro) để có được chính sách điều chỉnh và

cạnh tranh hàng hoá hữu hiệu hơn nhằm sớm thu hẹp cả hai mối thất thu : ngân
sách và nhập siêu. Sau độ vài năm lúc tình hình cải thiện trở lại, Hy Lạp có thể trở
lại khối Euro.
Tuy nhiên các nước thành viên có thể chống lại giải pháp giúp Hy Lạp cải
cách như trên vì các nước như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có thể bắt chước như
vậy. Nước cờ lưỡng nan cho các thành viên giàu có của khối Euro là ở chỗ đó : cứu
trợ toàn diện cho Hy Lạp thì không kham nổi và cho phép tạm rút ra thì sợ mối
đoàn kết toàn khối sẽ lung lay. Sự kiện này sẽ ảnh hưởng sâu đậm đến nền kinh tế
toàn cầu.
Ảnh hưởng tới nền kinh tế và tài chính thế giới
Trước tiên, có thể thấy sự phục hồi kinh tế ở khu vực châu Âu sẽ chậm hơn
và khá khiêm tốn khi mà Đức và Pháp sẽ phải chia sẻ gánh nặng lớn từ gói cứu trợ
những thành viên khó khăn trong cộng đồng do vậy nguồn lực cho những chính
sách tài khoá trong nước họ sẽ ít hơn;
Sự hồi phục nhanh của kinh tế Mỹ vì thế cũng không chắc chắn, đặc biệt
khi tỉ lệ thất nghiệp tăng cao trở lại gần mức 2 con số (9.9% trong tháng 4 từ mức
9.7% trong tháng 3). Sự phục hồi kinh tế Mỹ và toàn cầu do đó có thể chững lại
sau 6 tháng tới và có thể mang hình chữ W thay vì chữ V như mong muốn;
Đặc biệt lúc này khó loại trừ trường hợp cơn khủng hoảng nợ các xứ Nam
Âu có thể lan rộng thành một cuộc khủng hoảng tài chính thế giới mới do sự vỡ nợ
của thị trường tài chính Âu châu với các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit
Default Swap—CDS). Các hợp đồng này là các giấy tờ bảo hiểm có giá thường
được mua bởi các nhà đầu tư tài chính cho trường hợp vỡ nợ của các trái phiếu,
cũng sẽ xuống giá nặng nếu thị trường cho là các nước phát hành trái phiếu ban
đầu cùng không đủ sức chi trả nợ công.
Nhiều nhà phân tích quốc tế đã kết nối cơn khủng hoảng nợ công hiện tại
với đợt đầu của mối lo CDS, giống hệt như sự đổ vỡ của món nợ 7 nghìn tỉ USD
của thị trường cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ phát hiện vào giữa
năm 2007 đã gây nên cơn đại hoạ tài chính không lường được cho Mỹ đúng một
năm sau, vào giữa năm 2008, tiếp nối bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tương tự,

thị trường CDS hiện tại được ước tính ở mức trên 20,000 tỉ CDS, tức là trị giá gấp
3 lần thị trường thế chấp BĐS dưới chuẩn của Mỹ, nếu gây phá sản lan rộng sẽ có
tác động lớn hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính thế giới mới đây.
Đó chính là nguyên nhân lo lắng khiến các thị trường chứng khoán Mỹ và
thế giới lại sụp đổ mới trong tuần đầu tháng 6. Các thị trường chứng khoán sẽ trải
qua những rối ren mới do sự thiếu tin tưởng từ phía các nhà đầu tư gây ra bởi cuộc
khủng hoảng sâu rộng này mà ít ai tiên đoán được tầm hậu quả;
Đồng US và đặc biệt là đồng Yen sẽ tiếp tục trên đà tăng mạnh so với đồng
Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này;
Giá dầu quốc tế giảm xuống sau khi đạt mốc cao 87-89 USD/thùng vài tuần
trước khủng hoảng Hy Lạp hiện rơi xuống 75 USD và có thể rơi xuống còn khoảng
60-65 USD/thùng do tốc độ phục hồi kinh tế chậm hơn của thế giới;
Giá các hàng hoá khác, bao gồm các sản phẩm trong ngành công nghiệp và
nông nghiệp, có thể sẽ theo đó giảm xuống;
Chỉ có một ngoại lệ đó là giá vàng khi mà giá mặt hàng này đã nhẩy vọt trở
lên mức 1,200 $/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu mua vàng như tài sản dự trữ an
toàn hơn so với các đồng tiền giấy sau khi các cá nhân và tổ chức châu Âu và châu
Á đua nhau mua vàng ngay sau khủng hoảng Hy Lạp. Giá vàng tăng lên mức cao
mới 1,249 USD/ounce cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD từ vài tuần
qua là điều hiếm khi xảy ra. Cho các nhà đầu tư cá nhân, lúc này họ muốn tăng
phần tiền mặt lưu giữ cùng với vàng và có thể ngay cả địa ốc ở Mỹ là món "bị
chán" từ 3 năm nay.
Ảnh hưởng có thể xảy ra đối với Việt Nam
Khi tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, triển vọng đối với xuất khẩu
của Việt Nam sẽ kém thuận lợi hơn so với dự kiến trong năm nay và có thể trong
trung hạn. Đặc biệt là khi mãi lực mua hàng kém đi cho toàn châu Âu và tiền VND
lên giá nhiều so với Euro (do VND được kết dính với USD), xuất khẩu sang châu
lục này sẽ giảm sút lớn.
Trong trường hợp đồng USD được coi là phương tiện dự trữ an toàn cao và
tiếp tục đạt mức tỉ giá cao trên thế giới, và các thâm hụt thương mại và tài khoản

vãng lai của Việt Nam vẫn tiếp tục ở mức cao, dự báo mới đây của một vài quan
sát viên địa phương cho rằng tiền VND sắp lên giá so với USD trong phần còn lại
của năm 2010 e rằng hơi lạc quan. Những khó khăn về thanh toán quốc tế vẫn là
một thực tại của năm 2010, tiếp tục cần đến các chính sách hiệu quả để duy trì
đồng Việt Nam ổn định.
Cùng với việc tiếp tục duy trì chính sách tín dụng chặt, xu hướng giảm giá
của dầu xăng và các mặt hàng hoá khác có thể làm giảm áp lực về lạm phát trong
những tháng tới so với quý I. Theo đó, mặt bằng lãi suất ngân hàng cũng có thể
giảm theo.
Tuy nhiên, giá xuất khẩu đối với các mặt hàng nông nghiệp sẽ giảm và điều
này sẽ là một mối quan tâm đối với khu vực nông nghiệp. Những biện pháp sớm
nên được chuẩn bị.
Tương tự như vậy, thị trường chứng khoán VN cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi
cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu, giống như các thị trường chứng khoán khác trên
thế giới đang suy giảm.
Và bài học nào cho Việt Nam từ khủng hoảng châu Âu?
Với cơ cấu sản xuất hiện có luôn đưa đến nhập siêu cao và từ đó áp lực
thường trực trên cán cân thanh toán quốc tế và tỉ giá, đã đến lúc Việt Nam phải
nghĩ đến việc tái cấu trúc nền kinh tế để giải quyết vấn đề nhập siêu khi có tốc độ
tăng trưởng bền vững hơn. Các nền kinh tế khác ở Đông Á, sau khi có cùng vấn đề
nhập siêu và thất thu cán cân vãng lai cao ở 1-2 thập niên đầu của chu kỳ tăng
trưởng nhanh, thường đạt được mức xuất siêu đáng kể sau đó để có tăng trưởng
bền vững do không bị áp lực của cán cân thanh toán và sau đó còn có thể tăng
nhanh quỹ dự trữ ngoại hối như một gối dựa (cushion) tài chính vững chắc.
Ngoài ra, khủng hoảng nợ tại châu Âu đang làm thức tỉnh toàn thế giới về
nhu cầu duy trì tính ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường thắt chặt hoạt động tài
khoá để giảm bớt nợ công nếu không thật cần thiết cho nhu cầu tăng trưởng bền
vững.
Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ trong việc cần áp dụng thêm kỷ
luật tài khoá, đặc biệt trong bối cảnh của món thất thu kép (twin deficit) càng ngày

càng lớn trong cán cân tài khoá và cán cân ngoại thương. Đặc biệt là với tình hình
rối ren mới đây của VND so với USD và sự khó khăn bán trái phiếu chính phủ ở
thị trường trong nước.
Khi nói về nợ công, trước hết cần duy trì và thông báo các số thống kê đầy
đủ và chính xác hơn về các món nợ này gồm nợ của chính phủ và của cả các xí
nghiệp công do chính phủ bảo lãnh.
Mới đây con số tổng nợ công được thông báo đã tăng rất nhanh lên mức
44,6% của GDP cho năm 2010. Và con số này cần làm VN thận trọng hơn khi cứu
xét một số dự án đầu tư công "hấp dẫn" rất lớn vừa được công bố như dự án đường
sắt cao tốc Bắc - Nam với vốn đầu tư ban đầu ước lượng là 56 tỉ USD (tương
đương hơn 50% GDP), hay ngay cả một dự án trên 90 tỉ USD khác được nói trên
báo chí để mở rộng và tân trang Hà Nội.
Tất nhiên nguồn tài trợ là nợ công, dù là với điều kiện ưu đãi của nợ ODA
hay nợ thương mại. Do đó, vài vấn đề cần được cứu xét ưu tiên là :
- Vấn đề thêm nợ công để chi tiêu công ở mức lớn như vậy đã được xét đến
kỹ lưỡng trong bối cảnh tỉ lệ đầu tư quá cao so với GDP (trên 42%) của Việt Nam,
hay nói cách khác là với hệ số ICOR rất cao của Việt Nam từ nhiều năm (hàm ý
hiệu quả đầu tư vốn rất thấp), chưa?
- Đành rằng đầu tư cho các dự án này rất cần thiết cho vấn đề phát triển,
nhưng đã có làm các nghiên cứu khác so sánh hiệu quả đầu tư thí dụ của dự án
đường sắt cao tốc với, lại thí dụ, vài dự án căn bản khác cùng số vốn đầu tư khổng
lồ trên 50 tỉ USD như :
(i) một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục - nhất là giáo dục đại học - để
chuyển dịch nhanh hơn nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp với nhiều chú
trọng hơn về công nghệ thông tin chẳng hạn; hay
(ii) một dự án công nghiệp hoá nông thôn nhanh hơn và với các công nghệ
cao hơn để tăng năng suất nông nghiệp và cải thiện mãi lực của khu vực nông thôn;
hay
(iii) một dự án tái cấu trúc toàn diện nền kinh tế để giải quyết lâu dài vấn đề
nhập siên như đã nêu trên đây.

-Sau nữa, đã tính kỹ các phương án tài trợ và ảnh hưởng lên tổng nợ công
cho các dự án mới chưa, so với hiệu quả kinh tế của dự án ra sao, và tác động lên
các cân bằng kinh tế vĩ mô ra sao cho 5 năm tới?
-Đặc biệt cho vấn đề nợ công, đây là lúc cần xem lại vấn đề định nghĩa nợ
công và thống kê chính xác, giải quyết sự khác biệt giữa công bố tỉ lệ nợ/GDP là
41% về phía Việt Nam và cùng tỉ lệ tính bởi Ngân hàng Thế giới là 47% cho năm
2009. Ngoài ra ảnh hưởng của các dự án lớn đang xét lên tỉ lệ nợ trên cần xét đến
cho 10-20-30 năm tới cũng như khả năng chi trả của VN, trong đó cần xem vấn đề
thực tế là tổn phí có thể tăng 25%-50% vượt dự tính ban đầu trong thời gian dài
thực hiện dự án.
















Cán cân tài chính chung của Chính phủ (% so với GDP)

… … -4,5 -1,1 -5,3 -4,7 -7,8
-8,0

Chi tiêu của Chính phủ (% so với GDP)

… … 27,3 27,5 29,8 28,8 32,6
33,0
Cung tiền và tín dụng



Tổng phương tiện thanh toán (M2, %, mức tăng từng năm)

15,8 23,3 29,4 27,5 46,1 20,3 26,0
18,0
Tổng tín dụng trong nước (%, mức tăng từng năm)

30,4 29,1 39,7 23,5 53,9 25,4 37,7
22,0
Cán cân thanh toán



Xuất khẩu (chỉ tính hàng hoá, tỉ đô
-la)
20,2 26,0 32,2 39,6 48,4 62,9 56,6
64,0
Nhập khẩu (chỉ tính hàng hoá, tỉ đô
-la)
25,2 31,5 36,8 44,4 60,8 75,2 68,8
78,0
Cán cân thương mại


-5,0 -5,5 -4,6 -4,8 -12,4 -20 -12,2
-14,0
Cán cân tài khoản vãng lai (tỉ đô
-la)
-1,9 -1,6 0,2 -0,4 -6,4 -9,2 -9,8
-12,0
Cán cân tài khoản vãng lai (% so với GDP)

-4,8 -3,5 0,4 -0,7 -9,0 -10,2 -10,5
-9,7
Đầu tư nước ngoài được giải ngân (tỉ đô
-la)
1,5 1,6 1,9 2,3 6,6 11,0 10,0
10,0
oài và quỹ dự trữ



Nợ nước ngoài (tỉ đô
-la, tính đến cuối năm)
14,2 16,9 17,2 19,1 23,7 26,8 27,9

Nợ nước ngoài (% so với GDP, tính đến cuối năm)

36,3 37,2 32,5 31,4 33,3 29,8 39,0




Nguồn: Ngân Hàng Nhà Nước, IMF, World Bank, và ước tính dự báo riêng

PHỤ LỤC

VIỆT NAM : MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ ĐÁNG CHÚ Ý, 2003-2010


2003 2004 2005 2006
2007


2008


2009

ước tính
2010

dự báo
Tài khoản quốc gia


Tỷ lệ tăng GDP thực (%)
7,3 7,8 8,4 8,2 8,5 6,2 5,2
6,5
Đầu tư (% so với GDP)
33,4 33,3 32,9 32,8 32,9 30,0 42,0

40,0
Tổng GDP danh nghĩa (tỉ đô-la) 39,6 45,5 53,0 60,9 71,1 89,9 110,0
124,0

Giá, lãi suất và tỉ giá


Chỉ số giá tiêu dùng (%, tháng
12 năm nay so với tháng 12
năm trước)
3,0 9,5 8,4 6,6 12,6 20,0 6.9
8,5-9,0
Tỷ giá VND/USD (cuối năm)
15.634 15.762 15.900 16.055 16.015 17.500 19.400
19.700
Các dữ liệu tài chính


Cán cân tài chính chung của
Chính phủ (% so với GDP)
… … -4,5 -1,1 -5,3 -4,7 -7,8
-8,0
Chi tiêu của Chính phủ (% so
với GDP)
… … 27,3 27,5 29,8 28,8 32,6
33,0
Cung tiền và tín dụng

Tổng phương tiện thanh toán
(M2, %, mức tăng từng năm)
15,8 23,3 29,4 27,5 46,1 20,3 26,0
18,0
Tổng tín dụng trong nước (%,
mức tăng từng năm)

30,4 29,1 39,7 23,5 53,9 25,4 37,7
22,0
Cán cân thanh toán


Xuất khẩu (chỉ tính hàng hoá, tỉ
đô-la)
20,2 26,0 32,2 39,6 48,4 62,9 56,6
64,0
Nhập khẩu (chỉ tính hàng hoá,
tỉ đô-la)
25,2 31,5 36,8 44,4 60,8 75,2 68,8
78,0
Cán cân thương mại -5,0 -5,5 -4,6 -4,8 -12,4 -20 -12,2
-14,0
Cán cân tài khoản vãng lai (tỉ
đô-la)
-1,9 -1,6 0,2 -0,4 -6,4 -9,2 -9,8
-12,0
Cán cân tài khoản vãng lai (%
so với GDP)
-4,8 -3,5 0,4 -0,7 -9,0 -10,2 -10,5
-9,7
Đầu tư nước ngoài được giải
ngân (tỉ đô-la)
1,5 1,6 1,9 2,3 6,6 11,0 10,0
10,0
Nợ nước ngoài và quỹ dự trữ

Nợ nước ngoài (tỉ đô-la, tính

đến cuối năm)
14,2 16,9 17,2 19,1 23,7 26,8 27,9

Nợ nước ngoài (% so với GDP,
tính đến cuối năm)
36,3 37,2 32,5 31,4 33,3 29,8 39,0







Nguồn : Ngân Hàng Nhà Nước, IMF, World Bank, và ước tính dự báo riêng
Các dấu hiệu cảnh báo : Tình hình kinh tế ngắn hạn cải thiện
7/2010 nhưng nhiều vấn đề dài hạn xuất hiện


Phát triển theo hướng
tích cực
Phát triển theo hướng tiêu cực
Nền kinh
tế


(Tích cực)

-

GDP tăng 6,4% trong Q2.2010

so với 5,8% trong Q1, và 6,1%
cho 6 tháng đầu năm.
- Lạm phát tiếp tục giảm trong
quý 2, còn 8,7% vào tháng 6
so với cùng kì năm ngoái.
- Tăng trưởng tín dụng 3,5%
trong Q1 và 10,5% trong 6
tháng đầu năm; mục tiêu làm
giảm cung tiền và tín dụng
xuống còn 20%-25% trong
năm 2010 tiếp tục làm giảm kỳ
vọng lạm phát.
- Giá dầu giảm xuống còn 75
USD/ thùng và có thể giảm
sức ép cho lạm phát.
- Do đó, chúng tôi điều chỉnh dự
báo lạm phát xuống còn 8,5-
9% trong năm 2010.

-

Xu
ất khẩu đ
ã
đ
ạt 32,1 tỉ USD trong 6 tháng,
nhưng nhập khẩu tăng lên 38,8 tỉ USD và
thâm hụt thương mại vẫn ở mức cao 6,7 tỉ.
- Thâm hụt ở cả ba cán cân (ngân sách, cán cân
vãng lai và thương mại) chưa cho thấy dấu

hiệu cải thiện và vẫn là vấn đề cần phải quan
tâm trong năm nay và trong thời gian trung
hạn sắp tới.
- Dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp.
- Ảnh hưởng của việc cúp điện kéo dài và lan
rộng có thể ảnh hưởng xấu đến sản xuất và
xuất khẩu.
- Chuyện nợ lớn và khủng hoảng tài chính của
VINASHIN có thể đặt ra những vấn đề dài
hạn về chi tiêu và nợ công của chính phủ
cũng như hiệu quả của toàn nền kinh tế.
Khu vực
tài chính


(Tích cực)

+

Th
ị tr
ư
ờng tín dụng đ
ã ho
ạt
động trở lại bình thường với
lãi suất cho vay xuống thêm
nữa ở 12-13%, lãi suất tiền gửi
ở 11-11,2%.
+ Thanh khoản tăng trên thị

trường; lãi suất đồng Việt
Nam qua đêm giảm xuống
6%-7% và lãi suất đồng USD
giảm còn 0.5%-1%.
+ Cải thiện ở thị trường trái
phiếu : nhiều trái phiếu CP
được bán qua đấu giá.

+

Ch
ỉ số VNIndex sẽ có thể xuống thấp, thử
thách mức 450 là mức thấp nhất từ đầu năm,
phản ánh sự giảm sút từ cả 2 nguồn tiền đầu
tư từ nước ngoài và trong nước, do những lo
ngại mới về tình hình vĩ mô.
+ Sau khi tỉ giá thị trường tự do và thị trường
chính thức gần như bằng nhau 19.000d/1
USD trong quý 2, mới đây áp lực mới lên tỉ
giá lại xuất hiện do lo ngại mức tăng vọt của
các khoản vay bằng USD sẽ gây ra mức cầu
USD cao vào cuối năm để trả lại nợ ngân
hàng.
Hoàn
cảnh thế
giới


(Tiêu cực)


+

H
ồi phục nền kinh tế to
àn c
ầu
sẽ chậm lại.
+ Chính sách tài khoá bảo thủ
hơn đang lan rộng trong nhiều
nước sẽ làm giảm mức chi tiêu
và nhu cầu nhập khẩu toàn
cầu, ảnh hưởng đến triển vọng
xuất khẩu trung hạn của Việt
-

Cu
ộc khủng hoảng nợ Ch
âu Âu có
ảnh h
ư
ởng
kéo dài. Khác với khủng hoảng Châu Á với
chủ yếu những khoản nợ tư ngắn hạn, thì
những khoản nợ của các nước Châu Âu trên
là những khoản nợ công trung và dài hạn khó
trả và cần phải có thay đổi chính sách quan
trọng.
- Giá chứng khoán thế giới có thể sẽ lại giảm



Nam.

m
ạnh v
ào tháng 8, ph
ản ánh nỗi lo sợ ng
ày
càng tăng về khả năng phục hồi kinh tế toàn
cầu chậm hơn dự báo.



×