Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

thử nghiệm loại thức ăn và ương ấu trùng tôm bác sĩ lysmata amboinensis (de man, 1888)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 96 trang )

i

LỜI CÁM ƠN
Tôi xin trân trọng kính gửi đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Ban
Chủ nhiệm Khoa Nuôi trồng Thủy sản lời cảm ơn chân thành, đã tạo điều kiện thuận
lợi để tôi thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên hướng dẫn: Tiến sĩ Lục Minh
Diệp đã tận tình chỉ bảo, dìu dắt và hỗ trợ tôi nhiệt tình trong suốt thời gian thực tập,
giúp tôi hoàn thành tốt đồ án tốt nghiệp.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Võ Ngọc Thám, thầy Ngô Văn Mạnh, thầy
Châu Văn Thanh đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập.
Tôi chân xin chân thành cảm ơn các thành viên tại Trại Thực nghiệm Sản xuất
Giống Đường Đệ, Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang đã giúp đỡ
và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi thực tập tại đây.
Xin cảm ơn sự hợp tác nhiệt tình của bạn Hoàng Hải Long trong quá trình thực
tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng là lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ và là chỗ
dựa tinh thần để tôi luôn học tập và làm việc tốt.



Người thực hiện
Lê Nguyễn Văn Khoa

ii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CÁM ƠN i
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
Phần 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 3
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM BÁC SĨ: 3
1.1.1. Hệ thống phân loại: 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái: 4
1.1.3. Đặc điểm phân bố: 5
1.1.4. Tập tính sống: 5
1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng: 5
1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển: 6
1.1.7. Đặc điểm sinh sản: 7
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN TRONG SẢN
XUẤT GIỐNG TÔM CẢNH BIỂN: 9
1.2.1. Năng lượng Lecithotrophy và “điểm không hồi phục”: 9
1.2.2. Dinh dưỡng và các loại thức ăn đối với ấu trùng tôm cảnh biển: 10
1.2.3. Nghiên cứu thử nghiệm các loại thức ăn cho ấu trùng tôm cảnh biển: 14
Phần 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: 15
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 15
2.3. SƠ ĐỒ KHỐI NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 15
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 16
iii

2.4.1. Xác định thời gian bỏ đói không hồi phục: 16
2.4.2. Thử nghiệm các loại thức ăn cho ấu trùng tôm bác sĩ: 18
2.4.3. Thử nghiệm ương ấu trùng tôm bác sĩ: 20
2.5. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU: 22
2.5.1. Phương pháp xác định các thông số: 22
2.5.2. Phương pháp xử lý số liệu: 23
Phần 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24

3.1. XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM BỎ ĐÓI KHÔNG HỒI PHỤC VÀ THỜI ĐIỂM
BẮT ĐẦU CHO ĂN THÍCH HỢP: 24
3.1.1. Kết quả thí nghiệm 1: 24
3.1.2. Kết quả thí nghiệm 2 29
3.1.3. Kết quả thí nghiệm 3 33
3.1.4. Thảo luận: 34
3.2. THỬ NGHIỆM THỨC ĂN CHO ẤU TRÙNG TÔM BÁC SĨ: 36
3.2.1. Kết quả thí nghiệm 4: 36
3.2.2. Kết quả thí nghiệm 5: 41
3.2.3. Thảo luận: 45
3.3. THỬ NGHIỆM ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM BÁC SĨ: 48
Phần 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50
Kết luận: 50
Kiến nghị: 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO - 1 -
PHỤ LỤC - 3 -
Phụ lục 1: Kết Quả Phân Tích Phương Sai Một Yếu Tố (one way ANOVA) - 3 -
Bảng 1.pl1: Kết quả phân tích thí nghiệm 1 - 3 -
Bảng 2.pl1: Kết quả phân tích thí nghiệm 2 - 7 -
iv

Bảng 3.pl1: Kết quả phân tích thí nghiệm 4 - 11 -
Bảng 4.pl1: Kết quả phân tích thí nghiệm 5 - 15 -
Phụ lục 2: Tỷ Lệ Sống Và Thời Gian Biến Thái Ấu Trùng - 23 -
Bảng 1.pl2: Tỷ lệ sống và thời giai chuyển giai đoạn của thí nghiệm 1. - 23 -
Bảng 2.pl2: Tỷ lệ sống và thời giai chuyển giai đoạn của thí nghiệm 2. - 25 -
Bảng 3.pl2: Tỷ lệ sống và thời giai chuyển giai đoạn của thí nghiệm 4 - 27 -
Bảng 4.pl2: Tỷ lệ sống và thời giai chuyển giai đoạn của thí nghiệm 5 - 29 -
Phụ lục 3: Số Liệu Môi Trường - 33 -
Bảng 1.pl3: Số liệu môi trường thí nghiệm 1 - 33 -

Bảng 2.pl3: Số liệu môi trường thí nghiệm 2 - 34 -
Bảng 3.pl3: Số liệu môi trường thí nghiệm 3 - 34 -
Bảng 4.pl3: Số liệu môi trường thí nghiệm 4 - 35 -
Bảng 5.pl3: Số liệu môi trường thí nghiệm 5 - 36 -
Bảng 6.pl3: Số liệu môi trường trong quá trình ương - 37 -

v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Chế độ cho ăn của thí nghiệm thức ăn………………………….………….19
Bảng 2.2: Chế độ cho ăn của thí nghiệm ương……………………………………….20
Bảng 2.3: Lượng nước cấp vào trong quá trình ương……………………………… 21
Bảng 2.4: Các dụng cụ và thời gian thu thập số liệu…………………………… … 22
Bảng 3.1: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo giai đoạn của thí nghiệm 1……………… 26
Bảng 3.2: Thời giai chuyển giai đoạn của ấu trùng trong thí nghiệm 1……… …….27
Bảng 3.3: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo giai đoạn của thí nghiệm 2…………… …30
Bảng 3.4: Thời giai chuyển giai đoạn của ấu trùng của thí nghiệm 2…………… …31
Bảng 3.5: Tỷ lệ sống của ấu trùng trong thí nghiệm 3…………… …………………33
Bảng 3.6: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo giai đoạn của thí nghiệm 4………….… … 38
Bảng 3.7: Thời giai chuyển giai đoạn của ấu trùng của thí nghiệm 4………… … 39
Bảng 3.8: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo giai đoạn của thí nghiệm 5 đợt 1……… … 41
Bảng 3.9: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo giai đoạn của thí nghiệm 5 đợt 2……… …42
Bảng 3.10: Thời gian chuyển giai đoạn ấu trùng của thí nghiệm 5 đợt 1………….…43
Bảng 3.11: Thời gian chuyển giai đoạn ấu trùng của thí nghiệm 5 đợt 2………….…43
Bảng 3.12: Tỷ lệ sống trong quá trình ương……………………………….………….49
Bảng 3.13: Thời gian biến thái của ấu trùng trong quá trình ương……………… …49
Bảng 3.14: Phân biệt các giai đoạn ấu trùng………………………………………….50

vi


DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình Trang
Hình 1.1: Tôm bác sĩ Lysmata amboinensis……………………………………… … 3
Hình 1.2: Đặc điểm phân biệt loài Lysmata amboinensis và Lysmata grabhami … …4
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu……………………………………… ….15
Hình 2.2: Ấu trùng Zoea 5 của Lysmata amboinensis……………………………… 23
Hình 3.1: Tỷ lệ sống ấu trùng ở nghiệm thức không cho ăn của thí nghiệm 1……….24
Hình 3.2: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo số lượng ban đầu trong thí nghiệm 1……… 25
Hình 3.3: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo số lượng ban đầu trong thí nghiệm 2……… 29
Hình 3.4: Tỷ lệ sống ấu trùng ở nghiệm thức không cho ăn của thí nghiệm 4……….36
Hình 3.5: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo số lượng ban đầu trong thí nghiệm 4……… 37
Hình 3.6: Ấu trùng không được cho ăn………………………………………….……38
Hình 3.7: Ấu trùng được ăn vi tảo………………………………………………….…38
Hình 3.8: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo số lượng ban đầu trong thí nghiệm 5 đợt 1….42
Hình 3.9: Tỷ lệ sống của ấu trùng theo số lượng ban đầu trong thí nghiệm 5 đợt 2….43

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HUFA: High Unsaturated Fatty Acids
EPA: Eicosapentaenoic Acids (C20:5n-3)
DHA: Docosahexaenoic Acids (C22:6n-3)
Tetra: Tảo Tetraselmis chuii
E-Rot: Luân trùng làm giàu (Enriched Rotifers)
Art3: Artemia được cho ăn ở giai đoạn 3
TH: Thức ăn tổng hợp (50% Lansy + 30% Frippak + 20% tảo khô)
Tetra + E-Rot: Cho ăn luân trùng làm giàu có bổ sung tảo
TH + Art3: Cho ăn thức ăn tổng hợp kết hợp giai đoạn Zoea 3 cho ăn Artemia
K: Không cho ăn

Z1: Giai đoạn Zoea 1
Z2: Giai đoạn Zoea 2
Z3: Giai đoạn Zoea 3
Z4: Giai đoạn Zoea 4
Z5 Giai đoạn Zoea 5
TL: Chiều dài toàn thân
Tetra+E-Rot+Art3: Cho ăn luân trùng làm giàu có bổ sung tảo kết hợp cho ăn Artemia
ở giai đoạn 3.

1


MỞ ĐẦU
Những năm qua, kinh tế trong nước có những bước nhảy vượt bậc. Năm 2010
chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng ở khu vực nông thôn đạt 891
nghìn đồng, tăng 62,4% so với năm 2008; khu vực thành thị đạt 1.726 nghìn đồng,
tăng 54,9% so với năm 2008 (theo Tổng Cục Thống kê Việt Nam), tỷ trọng chi cho
dịch vụ ăn uống có xu hướng giảm. Do đó, nhu cầu các loại hình giải trí tăng lên đáng
kể, việc nuôi bể cá cảnh sinh thái đang được người dân yêu thích và lựa chọn.
Tulusty (2002); Wabnitz và ctv (2003) đã thống kê hầu hết các sinh vật cảnh từ
rạn san hô được buôn bán rộng rãi trên thị trường thế giới [4]. Để chọn lựa được loài
nuôi phù hợp trong điều kiện nuôi nhốt là điều cần thiết. Hiện nay, có rất nhiều loài cá
dễ nuôi và sặc sỡ như: cá bò mặt khỉ (Naso lituratus), cá bò rằn (Balistapus
undulatus), cá hề (Amphiprion )… Nhưng như thế vẫn chưa đủ cung ứng cho nhu cầu
khách hàng ngày một nhiều như hiện nay. Ngoài đối tượng cá, khách hàng còn ưa
chuộng nhiều loài giáp xác thuộc Bộ Decapoda như: tôm hề (Hymenocera picta), tôm
sexy (Thor amboinensis), tôm cẩm thạch (Saron marmoratus), tôm bác sĩ (Lysmata
amboinensis)… Calado và ctv (2003) đã nhận định tôm bác sĩ có màu sắc đẹp, dễ nuôi
và còn là loài có thể ăn động vật kí sinh trên cá và các mô hoại tử trên cá bị bệnh nên
được nhiều người chơi cá cảnh ưa thích và chọn lựa [3].

Wabnitz và ctv (2003) cho biết ở các nước phát triển trên thế giới đã đầu tư
hàng triệu đô la để hỗ trợ ngành công nghiệp cá cảnh. Tổng giá trị hàng năm do ngành
công nghiệp này tạo ra ước tính khoảng 200-300 triệu USD [9], Lysmata amboinensis
là một trong bốn loài tôm cảnh có giá trị cao nhất, trị giá khoảng 65-85 USD/cá thể
[6]. Do đó, sức ép khai thác rõ rệt đến các rạn san hô ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi
các quốc gia như Philippines và Indonesia có tỷ lệ khai thác ở mức cao nhất [4];[9].
Hiện nay, nguồn tôm bác sĩ ngoài tự nhiên đang giảm đáng kể vì bị khai thác quá mức,
một đợt ra ghe đánh bắt chỉ được 40-60 cá thể và có khoảng 5-10 cá thể đạt kích cỡ
sinh sản. Mặc dù Lysmata amboinensis rất có giá trị kinh tế nhưng có rất ít thông tin
về nuôi vỗ tôm bố mẹ loài này và đa phần nỗ lực ương nuôi ấu trùng L. amboinensis
đều không thành công [6]. Vấn đề đặt ra hiện nay là nguồn cung cấp tôm bác sĩ cho thị
trường nuôi cảnh hoàn toàn khai thác từ tự nhiên và việc khai thác này còn tạo áp lực
không nhỏ đến các hệ sinh thái rạn san hô.
2


Để giảm thiểu những tác động tiêu cực trên, các nhóm nghiêm cứu sinh vật
cảnh trên thế giới đã chú trọng tìm hiểu và nghiên cứu, bước đầu đã có những kết quả
về đặc tính sinh học, sinh sản. Nhưng để thương mại hóa loài tôm cảnh tiềm năng này
thì việc sản xuất giống nhân tạo là vấn đề đặt ra hiện nay.
Khó khăn của sản xuất giống nhân tạo là chưa xác định được các giai đoạn biến
thái ấu trùng, đặc điểm hình thái ấu trùng từng giai đoạn, thức ăn phù hợp cho từng
giai đoạn và điều kiện ương nuôi. Do đó, tỷ lệ sống thấp và chất lượng ấu trùng không
ổn định.
Xuất phát từ những khó khăn trên và được sự cho phép của khoa Nuôi trồng
Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang, tôi thực hiện đề tài: “Thử nghiệm loại thức ăn
và ương ấu trùng tôm bác sĩ Lysmata amboinensis (De Man, 1888)” với mong muốn
xác định được những khiếm khuyết trong việc sinh sản nhân tạo đối tượng mới này và
góp phần nhỏ vào phát triển ngành sinh vật cảnh biển ở Việt Nam.
Nội dung chính của đề tài:

- Xác định thời điểm bỏ đói không hồi phục.
- Thử nghiệm các loại thức ăn cho ấu trùng tôm bác sĩ.
- Thử nghiệm ương ấu trùng tôm bác sĩ.
Mục đích của đề tài:
- Giúp sinh viên làm quen với phương pháp bố trí thí nghiệm và phương pháp làm
báo cáo khoa học, phục vụ cho công tác nghiêm cứu khoa học sau này.
- Tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội trực tiếp quản lý, chăm sóc đối tượng nuôi.
Từ đó củng cố thêm kiến thức thực tế cho bản thân.
- Nghiên cứu thử nghiệm các loại thức ăn, thời gian chuyển giai đoạn và ương
nuôi ấu trùng tôm bác sĩ.
Ý nghĩa thực tiễn:
Tạo cơ sở khoa học cho các nghiên cứu sâu rộng hơn để hoàn thiện quy
trình sản xuất giống nhân tạo tôm bác sĩ (L. amboinensis).
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã có nhiều cố gắng nhưng trình độ
chuyên môn và kiến thức thực tế còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi sai sót. Tôi rất
mong được sự đóng góp ý kiến của quí thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện
hơn.
3


Phần 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM BÁC SĨ:
1.1.1. Hệ thống phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Phân Bộ: Caridea
Họ: Hippolytidae
Giống: Lysmata
Loài: Lysmata amboinensis (De Man, 1888)

Tên thường gọi:
- Tên tiếng Anh: Scarlet Skunk Cleaner Shrimp, Cleaner Shrimp
- Tên tiếng Việt: Tôm bác sĩ, tôm vệ sinh
Trong bài báo cáo này tôi xin gọi là tôm bác sĩ.

Hình 1.1: Tôm bác sĩ Lysmata amboinensis.

4


1.1.2. Đặc điểm hình thái
Tôm bác sĩ có năm đôi chân bơi, năm đôi chân bò, ba đôi chân hàm. Năm đôi
chân bơi giúp tôm di chuyển trong nước, ôm trứng và quạt nước cung cấp oxy cho
trứng. Đôi chân bò đầu tiên biến thành dạng kìm phát triển to hơn dùng để giữ và xé
thức ăn, đôi chân bò thứ hai thường xuyên xếp lại dùng cho việc tách vỏ khi lột xác.
Đôi chân hàm thứ 3 phát triển to hơn có màu trắng dùng để gắp thức ăn.
Chúng có hai đôi râu. Đôi anten A1 tách thành 2 nhánh luôn hướng về phía
trước. Đôi anten A2 cũng tách thành hai nhánh, nhánh trong kéo dài, luôn hướng về
phía sau, nhánh ngoài biến thành vẩy râu. Các anten đều có màu trắng, gốc anten A1
bắt màu đỏ và có những gai nhỏ.
Tôm bác sĩ là loài tôm có kích thước nhỏ, chiều dài toàn thân tối đa đạt 5-6cm.
Trên thân tôm bác sĩ có hai ban màu đỏ chạy dọc bên thân, chính giữa có sọc
màu trắng kéo dài đến cuối telson nhưng đứt quãng tại nữa đầu của telson. Đây là đặc
điểm phân biệt với loài Lysmata grabhami. Chân đuôi của Lysmata amboinensis có
màu đỏ và có bốn chấm trắng.
Trong giống Lysmata có loài Lysmata grabhami thường phân bố ở vùng biển
nhiệt đới Đại Tây Dương. Về hình thái, loài này chỉ khác tôm Lysmata amboinensis
một đặc điểm: sọc trắng trên lung chạy dài liên tục xuống hết telson, không đứt quãng
tại nữa đầu của telson. Hai loài này không thể giao vĩ với nhau [5].


Hình 1.2: Đặc điểm phân biệt loài Lysmata amboinensis và Lysmata grabhami
Lysmata amboinensis
Lysmata grabhami
5


1.1.3. Đặc điểm phân bố
Theo nghiên cứu của Takeda (1982) và Wicksten (1990) thì tôm bác sĩ (L.
amboinensis) là một phần của hệ sinh thái đá ngầm, rạn san hô của các vùng biển nhiệt
đới, phân bố nhiều ở biển Đỏ, vùng nước nông biển nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình
Dương, ngoại trừ phía Đông Thái Bình Dương [1]; [5]; [7]. Đây là vùng biển có mức
độ đa dạng sinh học rất cao, bao gồm các vùng biển nhiệt đới của Ấn Độ Dương, phía
Tây và Trung Thái Bình Dương và vùng biển nối liền hai khu vực của Indonesia.
Chúng được tìm thấy trong các dải đá ngầm san hô, các gờ và khe đá hoặc trong
các phế phẩm do con người tạo ra như lốp xe, thùng không.… Hệ sinh thái rạn san hô
là ngôi nhà của tôm bác sĩ. Ở đó, chúng có quan hệ mật thiết với các sinh vật xung
quanh. L. amboinensis là loài sống hòa đồng, chúng thường xuyên dùng màu sắc trên
cơ thể phát tín hiệu tới các sinh vật có trong rạn để làm vệ sinh. Điều kiện môi trường
thích hợp nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng là:
-pH: 8.1-8.4
-Nhiệt độ: 25°C – 28°C
-Độ mặn (S‰): 30-35‰
1.1.4. Tập tính sống
Tôm bác sĩ thường ẩn mình vào hốc đá, những vỏ nhựa nhân tạo. Chúng phân
chia lãnh địa với nhau và những kẻ lạ xâm nhập sẽ bị tấn công. Trong điều kiện tự
nhiên, chúng tìm mồi xung quanh lãnh địa của mình hoặc làm “vệ sinh” cho các loài
khác sống trong lãnh địa đó. Ở điều kiện nhân tạo, chúng sẽ rời lãnh địa của mình để
tới nơi có thức ăn và sau khi ăn xong chúng lại về nơi mình đã chiếm lĩnh.
Trong nghiên cứu của Debelius (1984) cho biết, tôm bác sĩ thường bắt cặp với
nhau, nhưng đôi khi chúng sống trong một nhóm lớn [5]. Trong nhóm lớn này chúng

vẫn phân lãnh địa với nhau, mỗi lãnh địa cách nhau 0,5-1m.
Tôm bác sĩ là loài ăn thịt. Do đó, chúng sẽ ăn thịt đồng loại khi bị bỏ đói.
Chúng thường tấn công những cá thể đang lột xác, những cá thể nhỏ hơn hoặc những
con yếu sức do bệnh.
1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm bác sĩ ăn các loại ký sinh trùng, các mô bị hoại tử trên vết thương ở các
loài cá ở rạn san hô mà chúng hợp tác. Chính vì thế mà chúng được gọi là tôm vệ sinh
6


hay tôm bác sĩ. Ở các hang và mỏm đá nơi mà tôm bác sĩ sinh sống, chúng dùng các
anten của mình để thu hút các loài cá sống gần đó đến để được vệ sinh. Và nơi đó
được gọi là trạm làm sạch. Nghiên cứu của Randall (1958) và Fiedler (2000) cho biết
tôm bác sĩ có quyền xâm nhập vào miệng và mang của các sinh vật chủ kể cả cá chình
mà chúng không bị ăn thịt khi đang làm vệ sinh [5]; [11]. Ngoài ra, chúng còn được
biết đến như là loài ăn thịt. Chúng có thể ăn các động vật chân đốt, động vật không
xương sống khác kể cả đồng loại của mình.
Tôm bố mẹ trong nuôi vỗ thành thục thường được cho ăn Artemia sinh khối,
nhuyễn thể, tép nhỏ…[4]. Khi ta kết hợp cho ăn nhiều loại thức ăn thì tôm mẹ sẽ cho
chất lượng trứng và ấu trùng tốt hơn khi cho ăn một loại thức ăn đơn thuần. Theo
Coman và ctv (2007) thì cho ăn mực là phương pháp bổ sung quan trọng để kích thích
những loài trong bộ Decapoda thành thục tốt ở điều kiện nuôi nhốt [3]; [9]. Harrison
(1990) và Anger (2001) cho biết những loại thức ăn cung cấp nhiều lipid là cần thiết
cho quá trình nuôi vỗ tôm bố mẹ. Lipid là nguồn năng lượng dự trữ (triacylglycerols),
thành phần cơ bản của màng tế bào (phospholipids) và có trong nhiều loại hormone
(sterol) [8]. Lipid là đại diện cho nguồn năng lượng quan trọng nhất trong sự phát triển
phôi của hầu hết các động vật giáp xác. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho thấy một sự gia
tăng mạnh nồng độ lipid trong buồng trứng lên đến 40% tổng khối lượng khô của
buồng trứng khi phát triển hoàn toàn [8].
1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển

Thời kỳ phát triển phôi của tôm bác sĩ giống với thời kỳ phát triển phôi của một
số loài tôm nước ngọt thuộc họ Palaemonidae. Thời kỳ phôi bắt đầu từ khi trứng thụ
tinh đến khi trứng nở, thời gian phát triển phôi tùy vào nhiệt độ nước, thường khoảng
13 ngày [7], trải qua tám giai đoạn: trứng mới đẻ, trứng phân chia tế bào, đĩa phôi,
phôi nauplius, đầu hậu nauplius, giữa hậu nauplius, cuối hậu nauplius, trứng trước khi
nở.
Theo nghiên cứu của Wunsch (1996); Fletcher và ctv (1995) thì Lysmata
amboinensis có một chu kì ấu trùng dài và phức tạp, với 14 giai đoạn khác biệt về hình
thái, chiếm đến 150 ngày để hoàn thành các giai đoạn biến thái ấu trùng [8]; [9]; [10].
Để phân biệt các giai đoạn ta dựa vào các đặc điểm: sự xuất hiện cuống mắt, đặc điểm
anten, số chân bò, sự xuất hiện mầm chân bơi, sự thay đổi hình thái của đuôi… [10].
7


Các ấu trùng vừa nở ra là giai đoạn Zoea 1, chúng bơi lội bằng các phần phụ ngực, dò
tìm và bắt mồi liên tục. Chúng trải qua 14 giai đoạn Zoea và sau đó là đến giai đoạn
hậu ấu trùng. Ấu trùng giai đoạn Zoea có khả năng hướng quang, ánh sáng chiếu trực
tiếp ở cường độ cao cũng sẽ làm ấu trùng chết. Ở giai đoạn Zoea, ấu trùng rất yếu, nếu
bị nhày đáy bám trên các bộ phận phụ thì ấu trùng sẽ chết.
Quá trình lột xác bao gồm bốn giai đoạn: giai đoạn tiền lột xác, lột xác, giai
đoạn phục hồi sau lột xác, gian kỳ lột xác. Các giai đoạn này xảy ra trong một chu kỳ
liên tục. Trong thời gian chuyển giai đoạn (khoảng thời gian từ bắt đầu lột xác đến sau
khi lột xác xong) nếu như các yếu tố môi trường không thuận lợi: nhiệt độ, độ mặn bị
biến động, môi trường ô nhiễm, ấu trùng bị đói thì tỉ lệ sống ấu trùng sau khi lột xác
rất thấp. Ấu trùng lột xác từ 54–72 giờ/lần, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng giai
đoạn phát triển, dinh dưỡng và điều kiện môi trường.
Jones, Yule và Holland (1997) cho biết trong tự nhiên, nhu cầu dinh dưỡng của
ấu trùng được đáp ứng thỏa mãn bởi thức ăn rất đa dạng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
chế độ cho ăn của giai đoạn ấu trùng sống phù du là rất khó khăn do chất lượng thức
ăn, kích thước thức ăn không phù hợp cỡ miệng, sự phân tán của dòng chảy, chế độ

ương nuôi không giống tự nhiên. Vì vậy, để đạt kết quả cao phải thay đổi chế độ cho
ăn phù hợp trong ương nuôi [8].
Đối với tôm bác sĩ trưởng thành thì chu kỳ lột xác 14 ngày/lần ở nhiệt độ 26 –
28 °C, thường tôm mẹ lột xác khoảng 24 giờ sau khi hoàn thành quá trình ấp trứng và
khối trứng nở ấu trùng [11]. Ta có thể biết được tôm trưởng thành chuẩn bị lột xác
thông qua biểu hiện của tôm, trước khi lột xác, chúng dùng đôi chân bò thứ 2 rà soát
khắp cơ thể, dùng chân lồng vào bên trong lớp vỏ tách hẳn lớp vỏ cũ để chuẩn bị cho
giai đoạn lột xác
1.1.7. Đặc điểm sinh sản
Các kết quả chỉ ra rằng, tôm bác sĩ là loài lưỡng tính đồng thời về mặt hình thái
học, mô học và chức năng. Đây là loài tôm đầu tiên được xác định đặc tính này trong
bộ giáp xác mười chân [3]; [5]; [7]; [11].
Mỗi cá thể khi đạt tuổi trưởng thành sẽ mang giới tính đực (male-phase), sau
khi đạt đến một độ tuổi, kích thước nhất định sẽ chuyển sang lưỡng tính đồng thời
(euhermaphrodite-phase) với hai chức năng đực và cái [5]; [7]; [11]. Cá thể trong giai
8


đoạn lưỡng tính đồng thời có lúc đóng vai trò là đực, giao vĩ với một cá thể lưỡng tính
đồng thời khác đóng vai trò là cái. Trong các nghiên cứu của Zhang và Lin (2005) về
tôm cảnh Lysmata wurdemanni (Gibbes, 1850) và Lysmata boggessi (loài này trước
đây được phân loại là Lysmata rathbunae Chace, 1970) cho thấy rằng khi đạt độ tuổi
thành thục thì giai đoạn đầu là đực sau đó chúng sẽ qua 4 giai đoạn chuyển tiếp để trở
thành cá thể lưỡng tính khi đạt chiều TL=23,0mm, chiều dài CL=5-6mm. Lysmata
amboinensis cũng là loài lưỡng tính đồng thời những thay đổi từ giai đoạn đực sang
giai đoạn lưỡng tính khi TL=34-36mm, CL=8,6mm [7]; [11]. Trong quá trình nuôi
nhốt, kích thước để chuyển đổi gian đoạn lưỡng tính TL=37,1mm [7].
Những cá thể trưởng thành được nuôi riêng đẻ trứng không thụ tinh đã chỉ ra
rằng loài này không lưu trữ tinh trùng ngoại sinh và không tự thụ tinh được. Việc đồng
bộ hóa chu kì lột xác của các cặp tôm bố mẹ đảm bảo rằng các cá thể sẵn sàng thụ tinh

cho bạn tình của mình, nó có thể hỗ trợ tiếp tục luân phiên vai trò giới tính giữa các
đôi bạn tình [5].
Tôm trưởng thành có thể phát hiện bạn khác giới bằng thị giác, khứu giác và cả
xúc giác. Và những giác quan này giúp chúng nắm bắt được hành vi ve vãn của bạn
tình. Tôm cái thành thục thường bắt cặp với những con đực nhỏ hơn chúng, nhưng sự
khác biệt về kích thước không ảnh hưởng hay gây cản trở đến quá trình bắt cặp và giao
phối. Hoạt động giao vĩ của tôm bác sĩ không được rõ ràng, tôm đực theo tôm cái
trong vòng 30 phút trước khi tôm cái lột xác, tôm đực không theo con cái ngay lập tức
sau khi con cái di chuyển, chỉ bắt đầu theo sau 1-5 phút khi con cái di chuyển, không
phải lúc nào cũng tiếp cận và theo sau tôm cái, sau khi bắt kịp thì 2 con sẽ ở gần nhau.
Thời gian từ giao vĩ đến lúc đẻ trứng từ 9,4 ± 0,5 giờ, thời gian giao vĩ khoảng 9,3 ±
3,7 giây, thời gian từ lột xác đến lúc giao vĩ 79,6 ± 82,8 giây, khoảng thời gian lột xác
56,8 ± 6,1 giây [11].
Sau khi đẻ, trứng được tôm mẹ ôm dưới phần bụng, trứng đươc dính trên các
sợi tơ ở nhánh trong phần phụ bụng. Trứng được ấp và ôm ở đó cho đến khi nở. Trứng
mới đẻ có màu xanh ngọc bích đậm, sau nhạt dần, đến khi trứng chuyển sang màu bạc,
xuất hiện điểm mắt rồi nở. Thời gian tính từ khi tôm mẹ đẻ trứng cho đến khi trứng nở
là khoảng 13-14 ngày [7]. Điều đặc biệt ở loài tôm này là trong khi đang ôm trứng ở
9


phần bụng, thì buồng trứng bên trong vẫn phát triển và thành thục khi dinh dưỡng
được cung cấp đầy đủ.
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN TRONG SẢN
XUẤT GIỐNG TÔM CẢNH BIỂN
1.2.1. Năng lượng Lecithotrophy và “điểm không hồi phục”
Sinh vật phù du là loại thức ăn cần thiết cho ấu trùng của Decapoda. Một số
loài thuộc bộ Decapoda, ấu trùng của chúng có thể duy trì được hoạt động sống bình
thường khi vắng mặt của thức ăn trong một khoảng thời nhất định, chúng dựa vào
nguồn dự trữ nội sinh, được gọi là Lecithotrophy [1]; [2]; [3]. Đó có thể xem là một

thích ứng với sự biến đổi về nguồn năng lượng từ thức ăn của môi trường sống và
thích ứng của ấu trùng khi nguồn thức ăn bị giới hạn một cách nghiêm trọng.
Đối với tôm cảnh biển, noãn hoàng được tích lũy ở một mức độ cao, tuy nhiên
lượng dinh dưỡng tích lũy noãn hoàng chưa đủ để cho ấu trùng của chúng trải qua các
giai đoạn tiếp theo mà không sử dụng thức ăn ngoài. Theo nghiên cứu của Zhang và
ctv (1998); Calado và ctv (2005) cho thấy sự tích lũy cao của dinh dưỡng noãn hoàng
cho phép ấu trùng mới nở có thể lột xác và chuyển sang giai đoạn tiếp theo khi lượng
thức ăn ngoài dung cấp không đủ. Sự tích lũy này được gọi là Primary Lecithotrophy
(Lecithotrophy sơ cấp) [2]; [3].
Còn một dạng tích lũy năng lượng nữa là Secondary Lecithotrophy
(Lecithotrophy thứ cấp). Tích lũy năng lượng dạng Lecithotrophy thứ cấp là năng
lượng mà ấu trùng tích lũy được khi chúng sử dụng thức ăn ngoài. Khi bỏ đói ấu trùng
vào cuối giai đoạn và gần lột xác, khi đó năng lượng dự trữ được sử dụng, năng lượng
này có nguồn gốc từ các chất hữu cơ có mặt trong thức ăn mà ấu trùng sử dụng ở giai
đoạn đầu. Ngoài khả năng giúp ấu trùng lột xác, thì năng lượng này còn giúp ấu trùng
có thể ăn trở lại sau thời gian bị bỏ đói. Và kiểu năng lượng dự trữ này được gọi là
Lecithotrophy thứ cấp.
Ấu trùng của Decapoda thường phải được cho ăn ngay sau khi nở, để tránh ảnh
hưởng tác hại gây ra bởi thời gian bỏ đói kéo dài. Thực nghiệm chứng minh: có một
giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của ấu trùng Decapoda được gọi là “ điểm
không trở lại” tức thời điểm bỏ đói không hồi phục. Theo nghiên cứu của Blaxter &
Hempel (1963); Paschke và ctv (2004) đã xác nhận “Điểm không trở lại” là điểm quan
10


trọng trong phát triển ấu trùng, đó là một ngưỡng mà tại đó ấu trùng đã bị đói, và sau
đó được cho ăn lại, chúng vẫn có thể sống thêm một thời gian, nhưng lúc này ấu trùng
không có khả năng phục hồi, không thể phát triển thêm nữa do thiếu dinh dưỡng trầm
trọng và cuối cùng là chết [1]. Các nghiên cứu sơ bộ cho thấy rằng điểm không trở lại
của giai đoạn Zoea đầu tiên ấu trùng L. amboinensis xảy ra dưới 24 giờ [3]. Nhưng

một số nghiên cứu sâu hơn lại cho kết quả rằng, ấu trùng L. amboinensis có điểm
không hồi phục trên 24h [2].
1.2.2. Dinh dưỡng và các loại thức ăn đối với ấu trùng tôm cảnh biển
Trong tự nhiên, ấu trùng của giáp xác được tiếp cận với nhiều loại thức ăn như:
chất hữu cơ hòa tan, nhóm vi sinh vật thuộc picolankton ( có kích thước bé hơn 2μm)
và nanoplankton (từ 2-20μm) , mảnh vụn và chất thải, thực vật phù du (cụ thể là
microplankton với kích thước từ 20-200μm), microzooplankton (từ 20-200μm),
mesozooplankton (từ 200-2000μm) và macrozooplankton (lớn hơn 2000 μm). Rõ ràng
các loại thức ăn này có sự khác biệt về chất lượng và kích thước, tạo điều kiện cho ấu
trùng lựa chọn loại thức ăn phù hợp nhất cho từng giai đoạn của chúng [1].

Vi tảo
Vi tảo được sử dụng phần lớn như là thức ăn sống trong ương nuôi ấu trùng của
giáp xác, đặc biệt là tôm he, cũng như trong ương nuôi các loài động vật phù du khác
(luân trùng, Copepoda …). Trong những thập kỷ gần đây, nhiều loài vi tảo được xem
là tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, chỉ có giới hạn một ít loài (dưới 25
loài) đã được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Những loài vi tảo được sử
dụng trong nuôi trồng thủy sản phải đảm bảo các tính năng sau:
(1) Có kích thước phù hợp để làm thức ăn (1 - 15 μm).
(2) Dễ tiêu hóa.
(3) Có mức tăng trưởng cao cho phép nuôi sinh khối, chịu được biến động về
ánh sáng, nhiệt độ và yêu cầu mức độ về dinh dưỡng vừa phải.
(4) Có giá trị dinh dưỡng phù hợp.
Việc sử dụng các loài vi tảo, cụ thể là Skeletonema costatum. và Chaetoceros
spp. đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của ương ấu trùng ăn lọc giai
đoạn đầu của tôm he. Tuy nhiên, ở ấu trùng mới nở của họ Stenopodidea chỉ có khả
11


năng lọc các hạt nhỏ vi tảo. Nếu chỉ cho ăn hoàn toàn vi tảo đã được chứng minh là

không cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho ấu trùng Caridea hoàn tất quá trình biến
thái [1].
Trong nghiên cứu của Cunha và ctv (2008) đã cho thấy tác dụng của vi tảo đối
với ấu trùng tôm bác sĩ. Khi cho ấu trùng mới nở sử dụng vi tảo sẽ giúp hệ thống tiêu
hóa được cải thiện, kích hoạt enzyme và bổ sung protein [4].
Sự hiện diện của vi tảo trong bể ương có thể điều chỉnh các điều kiện ánh sáng,
và cải thiện hành vi, tập tính bắt mồi của ấu trùng. Việc bổ sung các vi tảo vào bể nuôi
có thể có lợi cho việc ương nuôi ấu trùng thông qua việc bài tiết vitamin hoặc các chất
kích thích tăng trưởng khác. Vi tảo giàu HUFA có thể sử dụng để cải thiện hiệu quả
giá trị dinh dưỡng của động vật phù du, nghĩa là cho động vật phù du sử dụng vi tảo
trước khi dùng chúng cho ấu trùng trong ương nuôi [1].

Luân trùng
Luân trùng Brachionus là loại thức ăn sống quan trọng cho ương nuôi ấu trùng
giáp xác. Nó có kích thước từ 100 – 340 μm. Chúng dễ nuôi đạt sinh khối cần thiết,
dinh dưỡng cao. Chất lượng của luân trùng phụ thuộc vào vấn đề vệ sinh, phương pháp
nuôi và thức ăn. Các vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến việc sản xuất sinh khối luân
trùng:
(1) Sự không chủ động
(2) Những vấn đề về quản lý và thu hoạch khi nuôi với số lượng luân trùng để
đáp ứng nhu cầu sản xuất.
(3) Khó khăn khi sản xuất luân trùng sạch mầm bệnh và vi sinh vật có hại.
Dinh dưỡng của luân trùng cần được cải thiện để đáp ứng yêu cầu của ương
nuôi ấu trùng. Để cải thiện chất lượng dinh dưỡng của luân trùng, luân trùng có thể
được làm giàu thông qua việc sử dụng các loại vi tảo được lựa chọn [1]. Để làm giàu
luân trùng: sử dụng vi tảo Nannochloropsis để tăng hàm lượng EPA (20:05 n-3), dùng
Isochrysis và Rhodomonas để tăng hàm lượng DHA (C22:6 n-3). Ngoài ra, có thể làm
giàu luân trùng bằng các sản phẩm làm giàu thương mại như DHA protein Selco… Vì
luân trùng có thể làm giàu vài giờ đã đạt được lượng dinh dưỡng cần thiết nên được sử
dụng phổ biến trong ương nuôi ấu trùng giáp xác.

12


Nếu cho ăn chỉ hoàn toàn dựa vào luân trùng là không đủ để thành công trong
ương nuôi ấu trùng tôm biển cảnh. Tuy nhiên, cho ấu trùng ăn luân trùng từ khi nở đến
giai đoạn 3 là rất quan trọng cho việc tăng tỷ lệ sống cho ấu trùng và giúp cho sự biến
thái ấu trùng để chuyển giai đoạn một cách dễ dàng [1].

Artemia
Artemia được sử dụng rộng rãi trong ương nuôi ấu trùng giáp xác. Ngoài giá trị
dinh dưỡng của nó, thì việc sử dụng phổ biến của Artemia là do chúng có thể lưu trữ ở
dưới dạng trứng bào xác, và được giữ lâu dài trong các lon kim loại. Khi cần sử dụng
thì chỉ cần ấp trứng bào xác của chúng trong vòng 24 giờ, thuận lợi và chủ động cho
ương nuôi ấu trùng giáp xác. Nauplius Artemia có kích thước từ 422-517μm chiều dài,
chúng lột xác chuyển sang giai đoạn sau trong vòng 6 – 8 giờ sau đó. Khi ương nuôi
ấu trùng giáp xác, điều quan trọng là cung cấp cho ấu trùng sử dụng nauplius Artemia
mới nở, không nên lưu giữ số Artemia còn dư cho lần sử dụng tiếp theo. Vì Artemia
lưu giữ lâu trong bể thì mức độ dinh dưỡng thấp đáng kể, thể hiện rõ ở năng lượng và
amino axit amin tự do. Trong ương nuôi ấu trùng, khi sử dụng nauplius Artemia lưu
giữ lâu luôn cho tỷ lệ sống thấp hơn. Nguyên nhân là do năng lượng hấp thụ mà ấu
trùng nhận được từ quá trình tiêu hóa nauplius Artemia này là rất thấp, không đủ cho
duy trì các hoạt động sống [1].
Giá trị dinh dưỡng của Artemia thay đổi theo vùng địa lý và mùa vụ. Tuy nhiên,
nó có thể được cải thiện bằng việc sử dụng các loại vi tảo hoặc các sản phẩm làm giàu
khác để nâng cao dinh dưỡng cho Artemia, cải thiện thức ăn cho ấu trùng. Tuy nhiên,
kỹ thuật làm giàu cũng có những hạn chế nhất định, do khả năng chọn lọc của chúng
đối với các chất làm giàu, cụ thể là DHA và phospholipids [1].
Việc sử dụng Artemia làm giàu sẽ giúp nâng cao chất lượng của ấu trùng tôm
cảnh biển. Nhưng nếu sử dụng Artemia không làm giàu thì chi phí cho ương nuôi ấu
trùng tôm cảnh biển sẽ giảm đi đáng kể. Việc sử dụng Artemia cho ương nuôi ấu trùng

giúp cải thiện tỷ lệ sống và biến thái ấu trùng. Nhưng mặt hạn chế của chúng nảy sinh
trong quá trình ấp trứng bào xác và làm giàu chúng. Việc sử dụng Artemia thu thập từ
ngoài tự nhiên cũng cần được xem xét kỹ lưỡng, vì chúng có thể mang những mầm
bệnh và những sinh vật có hại khác trên lớp vỏ bào xác của chúng.
13


Artemia sống là loại thức ăn sống phổ biến trong việc thử nghiệm ương nuôi ấu
trùng, chủ yếu là vì giá trị dinh dưỡng cao của chúng. Tuy nhiên, Artemia cũng có thể
được cung cấp dưới dạng đông lạnh, đông khô và dưới các dạng thức ăn chế biến khác
[1].
Khi sử dụng Artemia, các vi sinh vật có hại phát triển trên lớp vỏ bào xác của
chúng đôi khi gây nên những sự cố, vấn đề đáng kể trong các thử nghiệm ương nuôi ấu
trùng. Đề xuất giải pháp để giảm thiểu và kiểm soát vi sinh vật trong môi trường bằng
cách khử trùng các trứng nang Artemia, ví dụ như: dùng formaldehyde để khử trùng
nauplius Artemia trước khi cho vào hệ thống nuôi.

Thức ăn tổng hợp
Thức ăn tổng hợp được sử dụng để thay thế một phần hoặc hoàn toàn cho thức
ăn sống trong ương nuôi ấu trùng. Nó làm giảm thiểu chi phí sản xuất và ít biến đổi về
giá trị dinh dưỡng như thức ăn sống. Có giá thấp hơn so với việc sử dụng nauplius
Artemia hay Artemia làm giàu hoặc luân trùng hay luân trùng làm giàu. Sự thành công
của việc sử dụng thức ăn tổng hợp là do khả năng kiểm soát về hình dạng, kích thước,
độ ẩm và chất kết dính của chúng. Ấu trùng của L. amboinensis dùng phần phụ miệng
để bắt và sử dụng các hạt thức ăn, có thể làm nhỏ chúng thành nhiều phần trước khi
chuyển chúng vào đường ruột. Chính vì thế đối với tôm cảnh biển thì hình dạng và
kích thước của thức ăn là không quan trọng [1]. Thức ăn tổng hợp được sản xuất
thường có kích thước hạt phù hợp với từng giai đoạn ấu trùng. Thức ăn tổng hợp
thường có các chất kết dính và các phụ gia khác nhằm kích thích quá trình bắt mồi của
ấu trùng. Độ ẩm trong thức ăn tổng hợp cao hơn thì mức độ sử dụng thức ăn của ấu

trùng sẽ tốt hơn. Trên thực tế có rất ít nghiên cứu nói đến khả năng sử dụng thức ăn
của ấu trùng các loài tôm cảnh biển.
Việc xác định thành phần dưỡng chất trong thức ăn tổng hợp để nâng cao hiệu
quả sử dụng và tăng khả năng tiêu hóa của ấu trùng giáp xác vẫn còn là nhiệm vụ
trọng tâm cho các nhà nghiên cứu [1]. Các loài tôm cảnh biển đang dần được nuôi
thương mại hóa, đặc biệt là trong giống Lysmata và Stenopus đang là mối quan tâm
của các nhà nghiên cứu. Cho đến khi tạo ra được một công thức thức ăn hiệu quả hơn
14


thì các loại thức ăn công nghiệp hiện có đóng một vai trò quan trọng khi thức ăn sống
không đủ cung cấp cho việc ương nuôi ấu trùng tôm cảnh biển.
Ấu trùng mới nở sau 2 – 3 giờ ăn sinh vật phù du như tảo, mặc dù nguồn năng
lượng dự trữ vẫn đảm bảo cho chúng duy trì sự sinh tồn trong 24 giờ đầu tiên sau khi
nở. Trong thực tế các nhà nghiên cứu thấy rằng tỉ lệ sống của ấu trùng cải thiện đáng
kể nếu thức ăn sống được đưa vào những ngày đầu tiên sau khi nở của ấu trùng. Trong
ương nuôi, vài tiếng sau khi ấu trùng nở thì ấu trùng ăn Artemia, luân trùng làm giàu
Theo nghiên cứu Rhyne (2002), trong giai đoạn đầu ấu trùng tôm sẽ không ăn các loại
thức ăn công nghiệp nếu như trong bể có sẵn thức ăn sống [1].
1.2.3. Nghiên cứu thử nghiệm các loại thức ăn cho ấu trùng tôm cảnh biển
Nghiên cứu của Cunha (2008) đã nhận định việc xác định quá trình ương nuôi
phù hợp cho ấu trùng là chìa khóa để cải thiện chất lượng ấu trùng, rút ngắn thời gian
phát triển giai đoạn ấu trùng và giảm chi phí ương nuôi tôm bác sĩ Lysmata
amboinensis. Cũng trong nghiên cứu này, Cunha (2008) đã thử nghiệm nhiều loại thức
ăn trong quá trình ương nuôi ấu trùng như: vi tảo, luân trùng làm giàu, Artemia…và đã
có nhiều kết quả [4].
Zhang và ctv (1998) đã cho thấy rằng, ấu trùng Lysmata amboinensis có sử
dụng tảo ngay sau khi nở nhưng nếu chỉ ăn tảo sẽ không đảm bảo được hoạt động sống
bình thường của ấu trùng [4].
Trong báo cáo của Calado (2007) về thí nghiệm tìm thời gian bỏ đói không hồi

phục của bốn loài tôm thuộc Giống Lysmata (L. amboinensis, L. boggessi, L. debelius,
L. seticaudata) đã sử dụng nauplius Artemia làm thức ăn duy nhất trong tất cả đợt thí
nghiệm [2].
Nghiên cứu của Simoes và ctv (2002) trên tôm Lysmata debelius, ấu trùng L.
debelius được cho ăn vài giờ sau khi nở sẽ có tỷ lệ sống cao.
Với những nghiên cứu trên vẫn còn những khó khăn trong việc hoàn thiện quy
trình sản xuất giống nhân tạo loài mới này. Tuy nhiên đã có quá trình ương nuôi thành
công, ấu trùng chuyển qua các giai đoạn biến thái ấu trùng nhưng tỷ lệ sống chỉ được
vài cá thể [10]. Do đó, đề tài này vẫn có ý nghĩa thực tiễn, đóng góp vào qui trình sản
xuất giống nhân tạo tôm bác sĩ Lysmata amboinensis.

15


Phần 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Địa điểm nghiên cứu: Trại Thực nghiệm Sản xuất Giống Hải sản, Khoa Nuôi
trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang.
- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 20/02/2012 đến ngày 02/06/2012.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: tôm bác sĩ Lysmata amboinensis (De Man, 1888)
2.3. SƠ ĐỒ KHỐI NỘI DUNG NGHIÊN CỨU



















Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Xác định thời gian bỏ đói
không hồi phục
Thử nghiệm thức ăn cho ấu trùng
Thí Nghiệm 1
Thí Nghiệm 2
Thí Nghiệm 3
Thí Nghiệm 4
Thí Nghiệm 5 (2 đợt)
Thử nghiệm ương ấu trùng tôm bác sĩ
Kết luận và đề xuất ý kiến
- Cho ăn lúc 0 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 12 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 24 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 36 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 48 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 60 giờ sau khi nở
- Không cho ăn
- Cho ăn lúc 0 giờ sau khi nở

- Cho ăn lúc 6 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 12 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 18 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 24 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 30 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 60 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 72 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 84 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 96 giờ sau khi nở
- Cho ăn lúc 108 giờ sau khi nở

Các nghiệm thức thức ăn:
- Tảo Tetraselmis chuii (Tetra)
- Luân trùng làm giàu (E-Rot)
- Luân trùng làm giàu và Artemia (E-Rot+Art3)
- Thức ăn tổng hợp (TH)
- Không cho ăn
Các nghiệm thức kết hợp thức ăn:
- Tetra+E-Rot
- Tetra+E-Rot+Art3
- TH
- TH+Art3

16


2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vì đây là đối tượng nghiên cứu mới nên trước khi thực hiện các thí nghiệm, đã
thử nghiệm ương ấu trùng, bước đầu nắm được các đặc điểm cơ bản để ương ấu trùng
đến giai đoạn Z4

2.4.1. Xác định thời gian bỏ đói không hồi phục
2.4.1.1. Điều kiện thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trong các bình nhựa đáy chóp có thể tích 1L, được
đặt trong thùng xốp cách nhiệt có thể tích 250L. Mỗi bình đều có một vòi sục khí.
2.4.1.2. Bố trí thí nghiệm
a. Thí nghiệm 1: thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, với mật độ ban đầu
là 30 ấu trùng/l, thí nghiệm gồm 7 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.
Các nghiệm thức cụ thể như sau:
Nghiệm thức 1: 0h (cho ăn ngay sau khi ấu trùng vừa nở)
Nghiệm thức 2: 12h (cho ăn sau 12 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 3: 24h (cho ăn sau 24 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 4: 36h (cho ăn sau 36 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 5: 48h (cho ăn sau 48 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 6: 60h (cho ăn sau 60 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 7: K (không cho ăn)
Kết quả thí nghiệm 1 là cơ sở để bố trí tiếp thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3
b. Thí nghiệm 2: thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, với mật độ ban đầu
là 20 ấu trùng/l, thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.
Các nghiệm thức cụ thể như sau:
Nghiệm thức 1: 0h (cho ăn ngay sau khi ấu trùng vừa nở)
Nghiệm thức 2: 6h (cho ăn sau 6 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 3: 12h (cho ăn sau 12 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 4: 18h (cho ăn sau 18 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 5: 24h (cho ăn sau 24 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 6: 30h (cho ăn sau 30 giờ từ khi ấu trùng nở)
17


c. Thí nghiệm 3: thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, với mật độ ban đầu
là 20 ấu trùng/l, thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần.

Các nghiệm thức cụ thể như sau:
Nghiệm thức 1: 60h (cho ăn sau 60 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 2: 72h (cho ăn sau 72 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 3: 84h (cho ăn sau 84 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 4: 96h (cho ăn sau 96 giờ từ khi ấu trùng nở)
Nghiệm thức 5: 108h (cho ăn sau 108 giờ từ khi ấu trùng nở)
2.4.1.3. Thức ăn, chế độ cho ăn và quản lí thí nghiệm
- Thức ăn và chế độ cho ăn: ấu trùng được cho ăn với tảo Tetraselmis chuii và
luân trùng làm giàu. Ấu trùng được cho ăn ngày 2 lần, chế độ cho ăn điều chỉnh
hợp lý sao cho mật độ luân trùng là 10 con/ml.
- Quản lý thí nghiệm: theo dõi các yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH và độ
mặn. Hàng ngày, lượng nước thay chiếm khoảng 20% thể tích nước trong bình.
2.4.1.4. Các thông số được xác định
- Xác định các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, pH và độ mặn
- Tỷ lệ sống của ấu trùng: mỗi giai đoạn của ấu trùng được xác định tỷ lệ sống ở
đầu giai đoạn và cuối giai đoạn thông qua việc đếm trực tiếp ấu trùng. Ngoài ra,
ấu trùng trong nghiệm thức không cho ăn còn được xác định tỷ lệ sống theo
từng ngày để biết được sự suy giảm ấu trùng khi không cho ăn.
+ Đầu giai đoạn: thời điểm sau khi nở đối với Z1, thời điểm sau khi lột xác đối
với ấu trùng từ Z2 trở đi.
+ Cuối giai đoạn: là thời điểm trước lột xác chuyển sang giai đoạn kế tiếp.
- Thời gian chuyển giai đoạn ấu trùng được xác định từ khi xuất hiện giai đoạn
mới.

18


2.4.2. Thử nghiệm các loại thức ăn cho ấu trùng tôm bác sĩ
2.4.2.1. Điều kiện thí nghiệm
Tương tự thí nghiệm xác định thời gian bỏ đói không hồi phục (mục 2.4.1.1.)

2.4.2.2. Bố trí thí nghiệm
a. Thử nghiệm các loại thức ăn (thí nghiệm 4): thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên
hoàn toàn, với mật độ ban đầu là 20 ấu trùng/l, thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức,
mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Các nghiệm thức cụ thể như sau:
Nghiệm thức 1: Tetra (cho ăn tảo Tetraselmis chuii)
Nghiệm thức 2: E-Rot (cho ăn luân trùng làm giàu)
Nghiệm thức 3: E-Rot + Art3 (cho ăn luân trùng làm giàu và bổ sung
nauplius Artemia khi ấu trùng đạt giai đoạn 3)
Nghiệm thức 4: TH (cho ăn thức ăn tổng hợp gồm 50% Lansy + 30%
Frippak + 20% tảo khô)
Nghiệm thức 5: K (không cho ăn)
b. Thử nghiệm kết hợp các loại thức ăn (thí nghiệm 5): được tiến hành 2 lần (2 đợt
thí nghiệm).
+ Đợt 1 với mật độ ban đầu là 15 ấu trùng/l
+ Đợt 2 với mật độ ban đầu là 30 ấu trùng/l
Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm
thức lặp lại 3 lần. Các nghiệm thức cụ thể như sau:
Nghiệm thức 1: Tetra + E-Rot (cho ăn luân trùng làm giàu có bổ sung tảo
Tetraselmis chuii)
Nghiệm thức 2: Tetra + E-Rot + Art3 (cho ăn luân trùng làm giàu có bổ
sung tảo T. chuii và Artemia bổ sung khi ấu trùng đạt giai đoạn 3)
Nghiệm thức 3: TH (cho ăn thức ăn tổng hợp gồm 50% Lansy + 30%
Frippak + 20% tảo khô)
Nghiệm thức 4: TH + Art3 (cho ăn thức ăn tổng hợp gồm 50% Lansy +
30% Frippak + 20% tảo khô và Artemia bổ sung khi ấu trùng đạt
giai đoạn 3)

×