Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.49 KB, 135 trang )


i

Lời Cảm Ơn

Sau một thời gian học tập và rèn luyện dưới mái trường Đại học Nha Trang,
được sự tận tâm hướng dẫn giảng dạy của thầy cô. Em đã hoàn thành khóa học của
mình đồng thời hoàn thành đồ án tốt nghiệp này. Để đạt được kết quả như ngày
hôm nay, em xin gửi lời biết ơn đến toàn thể thầy cô trường Đại học – Nha Trang đã
truyền đạt cho em kiến thức và kinh nghiệm quý báu để em có thể trưởng thành và
vững tin khi bước vào đời.
Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Dương Trí Thảo
và cô Đỗ Thị Thanh Vinh đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo cho em rất nhiều trong
việc tiếp cận nghiên cứu và hoàn thành đồ án này.
Nhân đây, cháu cũng xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến ban lãnh đạo Sở
thủy sản Hà Tĩnh mà đặc biệt là Phó giám đốc Trần Văn Liễu đã tạo điều kiện, giúp
đỡ cháu nhiều trong quá trình thực tập và tiếp xúc thực tiễn.
Cuối cùng, con xin gửi lời cảm ơn thành kính và sâu sắc tới bố mẹ và những
người trong gia đình, những người đã nuôi dưỡng, chăm sóc, động viên và tạo mọi
điều kiện cho con học tập và được như ngày hôm nay.

Sinh viên thực hiện

Võ Thị Cẩm Hiếu











ii

MỤC LỤC

Quyết định thực tập
Nhận xét của cơ sở thực tập
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Lời cảm ơn
Lời nói đầu
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng và biểu đồ
Chương 1: Tổng Quan Và Phương Pháp Nghiên Cứu
1.1 Sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài 1
1.2 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 2
1.3 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 4
1.5 Nội dung và kết cấu của đề tài 4
Chương 2: Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Bền Vững Ngành Thủy Sản
2.1 Phát triển bền vững. 6
2.2 Bối cảnh toàn cầu sự phát triển ngành thủy sản và những vấn đề đặt ra 8
2.3 Phát triển bền vững ngành thủy sản 13
2.4 Các chỉ tiêu phát triển bền vững ngành thủy sản 17
2.6.1 Lĩnh vực kinh tế 18
2.6.2 Lĩnh vực xã hội 18
2.6.3 Lĩnh vực tài nguyên môi trường 18
2.6.4 Lĩnh vực thể chế 18
2.5 Phương hướng phát triển bền vững ngành thủy sản nước ta 18

2.6 Phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản 21
2.6.1 Vị trí và vai trò của ngành nuôi trồng thủy sản 21
2.6.2 Đặc điểm của ngành nuôi trồng 22
2.6.3 Hiện trạng ngành nuôi trồng thủy sản nước ta 24
2.6.4 Các chỉ tiêu phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản 25
2.6.4.1 Về Kinh tế, xã hội 25
2.6.4.2 Về môi trường và nguồn lợi 28

iii

2.6.4.3 Về thể chế 30
Chương 3: Thực Trạng Phát Triển Ngành Nuôi Trồng Thủy Sản Hà Tĩnh
3.1 Điều kiện tự nhiên và các đặc điểm kinh tế xã hội Hà Tĩnh 32
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 32
3.1.1.1 Vị trí địa lý 32
3.1.1.2 Địa hình 32
3.1.1.3 Khí tượng thủy văn 33
3.1.2 Tài nguyên thiên nhiên 35
3.1.3 Đặc điểm môi trường 39
3.1.3.1 Hiện trạng môi trường nước sông 39
3.1.3.2 Môi trường trầm tích 39
3.1.4 Đặc điểm kinh tế xã hội Hà Tĩnh 39
3.1.4.1 Dân số - Lao động 39
3.1.4.2 Cơ cấu GDP của tỉnh 40
3.1.4.3 Văn hóa – xã hội 42
3.1.4.4 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 42
3.1.4.5 Hiện trạng phát triển một số ngành 43
3.1.4.6 Cơ sở hạ tầng phục vụ NTTS 46
3.1.4.7 Những khó khăn và thuận lợi chính về điều kiện tự nhiên môi trường
và kinh tế xã hội đối với phát triển NTTS Hà Tĩnh 47

3.2 Khái quát chung về ngành thủy sản Hà Tĩnh 48
3.2.1 Cơ cấu bộ máy hành chính quản lý thủy sản 48
3.2.2 Khái quát chung 50
3.3 Thực trạng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh dưới góc độ phát
triển bền vững 52
3.3.1 Về kinh tế xã hội 52
3.3.1.1 Các hình thức và phương pháp NTTS 52
3.3.1.2 Tiềm năng và việc sử dụng diện tích mặt nước 54
3.3.1.3 Sản lượng và năng suất NTTS các năm 64
3.3.1.4 Hiệu quả kinh doanh nuôi trồng 72
3.3.1.5 Việc làm và các vấn đề kinh tế xã hội trong lĩnh vực nuôi trồng 79
3.3.2 Về môi trường và nguồn lợi 82

iv

3.3.2.1 Các tác động của nuôi trồng đến môi trường, nguồn lợi 82
3.3.2.2 Các mô hình thực hành nuôi tốt(GAP) 84
3.3.3 Về thể chế 84
3.3.3.1 Quy hoạch và thực hiện quy hoạch NTTS 84
3.3.3.2 Các chính sách, quy định của Nhà nước và địa phương áp dụng đối với
ngành NTTS Hà Tĩnh 85
3.4 Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành thủy sản Hà Tĩnh 87
3.4.1 Những thành tựu nổi bật 87
3.4.2 Những vấn đề đặt ra với sự phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy
sản Hà Tĩnh 88
Chương 4: Phương Hướng Và Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Phát
Triển Bền Vững Ngành Nuôi Trồng Thủy Sản Hà Tĩnh
4.1 Phương hướng chung 91
4.1.1 Phương hướng phát triển ngành NTTS Việt Nam 91
4.1.2 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội Hà Tĩnh 92

4.1.3 Định hướng phát triển NTTS Hà Tĩnh 92
4.2 Một số giải pháp cụ thể 96
Giải pháp 1: Các giải pháp về kỹ thuật 96
Giải pháp 2: Về quy hoạch và thực hiện quy hoạch 103
Giải pháp 3: Các giải pháp về chính sách 105
Giải pháp 4: Một số giải pháp phát triển các dịch vụ hỗ trợ NTTS 107
Kết luận 111
Kiến nghị 112
Tài liệu tham khảo 113
Phụ lục

v

Danh Mục Các Bảng Và Biểu Đồ

Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu phát triển NTTS bền vững
Bảng 3.1: Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh phân theo ngành kinh tế(giá hiện hành)
Bảng 3.2 : Kết quả sản xuất thủy sản Hà Tĩnh từ năm 2004 – 2006
Bảng 3.3 : Phương thức chủ yếu trong nuôi cá nước ngọt năm 2006
Bảng 3.4 : Phương thức chủ yếu trong nuôi tôm năm 2006
Bảng 3.5 : Diện tích có khả năng NTTS mặn, lợ đến năm 2015
Bảng 3.6: Diện tích có khả năng phát triển NTTS nước ngọt đến 2015
Bảng 3.7 : Diện tích NTTS nước ngọt phân theo Huyện
Bảng 3.8:Tốc độ phát triển diện tích NTTS nước ngọt phân theo Huyện
Bảng 3.9: Diễn biến sử dụng diện tích NTTS nước ngọt
Bảng 3.10: Kế hoạch và thực hiện kế hoạch diện tích NTTS nước ngọt đến 2006 theo
địa phương
Bảng 3.11: Kế hoạch và thực hiện kế hoạch diện tích NTTS nước ngọt đến 2006 theo
loại hình

Bảng 3.12 : Diện tích NTTS mặn, lợ phân theo loại hình
Bảng 3.13 : Tốc độ phát triển diện tích NTTS mặn, lợ theo loại hình
Bảng 3.14 : Diện tích NTTS mặn, lợ phân theo đối tượng
Bảng 3.15: Kế hoạch và thực hiện kế hoạch diện tích NTTS mặn lợ đến 2006
Bảng 3.16: Tốc độ phát triển diện tích NTTS mặn, lợ phân theo đối tượng
Bảng 3.17: Sản lượng NTTS nước ngọt phân theo Huyện
Bảng 3.18: Tốc độ phát triển sản lượng NTTS nước ngọt phân theo Huyện
Bảng 3.19: Sản lượng NTTS nước ngọt theo loại hình thủy vực
Bảng 3.20: Năng suất NTTS nước ngọt theo loại hình thủy vực
Bảng 3.21: Năng suất NTTS nước ngọt
Bảng 3.22 : Sản lượng NTTS mặn, lợ phân theo đối tượng
Bảng 3.23: Tốc độ phát triển sản lượng NTTS mặn, lợ phân theo đối tượng
Bảng 3.24 : Năng suất NTTS mặn, lợ
Bảng 3.25: Tình hình dịch bệnh trong nuôi tôm sú

vi

Bảng 3.26: Hiệu quả cho 1 ha cá – lúa
Bảng 3.27: Kết quả mô hình nuôi cá ruộng lúa năm 2006 của chủ hộ Phan Duy Đồng
Bảng 3.28: Kết quả mô hình nuôi cá lóc bông năm 2006 của chủ hộ Hoàng Ngọc Trà
Bảng 3.29: Chi phí, doanh thu cho 1 ha nuôi ếch trong 1 năm
Bảng 3.30: Chi phí, doanh thu cho 1 ha nuôi ba ba trong 1 năm
Bảng 3.31: Chi phí, doanh thu cho 1 ha nuôi tôm sú trong 1 vụ
Bảng 3.32: Chi phí, doanh thu cho 1 ha nuôi cá mú
Bảng 4.1: Kế hoạch nuôi trồng nước mặn, lợ 2010
Bảng 4.2: Kế hoạch diện tích nước ngọt 2010 phân theo đối tượng
Danh mục biểu đồ
Hình 1.1: Sơ đồ tóm tắt nội dung và trình tự nghiên cứu
Hình 2.1: Sơ đồ quan hệ cốt lõi trong phát triển bền vững
Hình 2.2: Sơ đồ 5 thành phần liên quan Phát triển bền vững ngành thủy sản

Hình 3.1: Bản đồ hành chính Tỉnh Hà Tĩnh
Hình 3.2: Biểu đồ giá trị tổng sản phẩm phân theo ngành kinh tế
Hình 3.3: Sơ đồ bộ máy hành chính quản lý thủy sản tỉnh Hà Tĩnh
Hình 3.4: Phương thức nuôi cá nước ngọt năm 2006
Hình 3.5 : Diện tích nuôi trồng của Tỉnh 2001 – 2006
Hình 3.6: Biểu đồ sản lượng nuôi trồng của Tỉnh 2001 – 2006
Hình 3.7: Năng suất nuôi trồng của Tỉnh 2001 – 2006
Hình 3.8: Lao động trong ngành NTTS 2001 - 2006


vii

Danh Mục Viết Tắt

NTTS: Nuôi trồng thủy sản
BTC: Bán thâm canh
QCCT: Quảng canh cải tiến
UBND: Ủy ban nhân dân
XNK: Xuất nhập khẩu
HTX: Hợp tác xã
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
VAC: Vườn ao chuồng
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CS: Chính sách
SX: sản xuất
SL: Sản lượng
PTBV: phát triển bền vững
THCS: trung học cơ sở
DT: Diện tích

K/n: Khả năng
SXTS: sản xuất thủy sản
RNM: Rừng ngập mặn
CN: Công nghiệp



viii

LỜI NÓI ĐẦU

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội là sự
thay đổi nhu cầu thực phẩm và sự gia tăng tiêu dùng sản phẩm thủy sản của con
người. Ở Việt Nam, việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm thủy sản từ nghề đánh bắt hải
sản ngày càng hạn chế do đã khai thác quá mức trữ lượng nguồn lợi cho phép. Để
bù đắp vào sự thiếu hụt đó thì nuôi trồng thủy sản phải được phát triển.
Trải qua nhiều thập kỷ, nuôi trồng thủy sản cung cấp một khối lượng lớn thực
phẩm thủy sản và góp phần giảm bớt áp lực khai thác thủy sản tự nhiên, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, hạn chế suy thoái môi trường sinh thái, đồng thời giải quyết
nhiều vấn đề xã hội phức tạp như: giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,
hạn chế sự di cư từ nông thôn ra thành thị và từ vùng này đến vùng khác, đem lại sự
thịnh vượng cho cộng đồng dân cư và xã hội.
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển miền trung, có tiềm năng đất và mặt nước có khả
năng phát triển nuôi trồng thủy sản rất lớn. Phát triển nuôi trồng thủy sản đặc biệt là
nuôi trồng thủy sản mặn, lợ được coi là hướng phát triển mũi nhọn để tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu nông nghiệp của Tỉnh nhà. Nuôi trồng
mấy năm qua thực sự đã đem lại nhiều lợi ích cho người dân và góp phần quan
trọng phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên sự phát triển nuôi trồng thủy sản hiện
nay của tỉnh còn mang tính tự phát, chưa tương xứng với tiềm năng, nuôi theo hình
thức quảng canh cải tiến là chủ yếu nên năng suất thấp, chưa có nhiều vùng nuôi tập

trung, ô nhiễm môi trường, rủi ro trong nuôi trồng cao… tóm lại là nuôi trồng thủy
sản còn thiếu bền vững.
Xuất phát từ thực trạng trên, em đã chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp phát
triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh ”. Những vấn đề được đề cập
trong đồ án này không ngoài mục đích tự trang bị thêm cho mình những kiến thức
thực tế, đồng thời đề xuất hướng và một số giải pháp góp phần phát triển bền vững
ngành NTTS Hà Tĩnh trong thời gian tới.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu tìm hiểu nhưng đây vẫn còn là vấn đề mới ở Việt
Nam. Hơn nữa, thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm thực tiễn thiếu thốn đồng
thời kiến thức còn hạn chế nên đồ án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính

ix

mong nhận được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bác, cô, chú,
anh, chị trong Sở thủy sản Hà Tĩnh để đồ án được hoàn thiện hơn.
Đồ án này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy Dương Trí Thảo, cô Đỗ
Thị Thanh Vinh, cùng sự giúp đỡ của lãnh đạo và nhân viên trong Sở thủy sản Hà
Tĩnh đã cung cấp tài liệu, thông tin để em hoàn thành cuốn đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Nha Trang, ngày 25 tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện

Võ Thị Cẩm Hiếu








1

Chương 1: Tổng Quan Và Phương Pháp Nghiên Cứu

1.1 Sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài
Trong thời gian qua, ngành thủy sản ngày càng phát triển và dần trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng
cho cộng đồng các dân cư trên toàn thế giới.
Tuy nhiên theo đánh giá của Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO), hiện có
khoảng 50% nguồn lợi thủy sản thế giới đã bị khai thác đến mức tới hạn. Trong khi
các nguồn tài nguyên thủy sản đang giảm mà nhu cầu sử dụng ngày càng cao. Do đó
chỉ dựa vào nguồn thủy sản tự nhiên chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu cần
thiết. Để có đủ nguyên liệu thủy sản sử dụng và chế biến ở thế kỷ 21, chủ yếu phải
dựa vào sự tích cực phát triển các nghề NTTS. Việc tăng trưởng nhanh chóng của
hoạt động nuôi trồng trong hai thập niên gần đây đã mang lại một sự mở rộng diện
tích nuôi trên toàn cầu, làm thay đổi nhanh chóng công nghệ nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên xu hướng tăng trưởng của hoạt động nuôi trong thập kỷ 80 đã không còn
tiếp tục sang thập niên 90 và bắt đầu có những giao động từ giữa thập niên 90 cho tới
ngày nay. Những vấn đề xuất hiện và ngăn cản sự phát triển của hoạt động nuôi
trồng bao gồm bùng phát bệnh dịch do virus, sự xuống cấp của môi trường, triệt phá
rừng ngập mặn. Ngoài ra, việc thay đổi môi trường tự nhiên ven biển đã làm xuất
hiện những lo ngại liên quan tới chất lượng nước và đất, sự cân bằng môi trường.
Vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn ở Việt Nam nói chung và đặc biệt là ở tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng khi mà thủy sản có vai trò to lớn đối với công tác xoá đói giảm nghèo,
tạo sinh kế bền vững và việc làm ổn định cho người dân khu vực ven biển.
Nhưng hiện nay, thủy sản Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức như: nguồn lợi
hải sản đang có xu hướng giảm dần, việc tăng trưởng với tốc độ cao liên tục về diện tích
và sản lượng đang phải đối mặt với tình trạng yếu kém trong xây dựng và quản lý quy
hoạch, hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa được đáp ứng kịp thời, môi
trường nuôi ở một số vùng đã xuất hiện dấu hiệu xuống cấp, tình trạng sử dụng hóa chất

kháng sinh bị cấm, việc mở rộng tuỳ tiện diện tích nuôi đã gặm nhấm gần hết các vùng
rừng ngập mặn, che kín các cửa sông, lấp kín các đầm phá, l àm cho hệ sinh thái ven bờ bị
phá hủy mạnh, gây tổn hại lớn cho tài nguyên môi trường sinh học, sinh thái biển và
những vùng đất ngập nước ven biển vẫn đang diễn ra.
Bên cạnh đó thủy sản nước ta lại mang đặc tính của một ngành kinh tế có hoạt động
sản xuất đa dạng, chịu nhiều rủi ro về mặt thị trường và môi trường, trong bối cảnh hội


2

nhập kinh tế thế giới và gia tăng các tác động xấu từ các hoạt động của con người. Do
vậy, để ổn định mức tăng trưởng kinh tế của ngành trong thời gian dài, không có cách
nào khác là phải đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển.
Phát triển bền vững là xu thế tất yếu, là vấn đề sống còn trong tiến trình phát triển
của xã hội loài người, vì vậy đã được toàn thể thế giới quan tâm và trở thành một mục
tiêu quan trọng trong các chương trình nghị sự của các địa phương, các quốc gia và
quốc tế. Đến nay đã có nhiều nghiên cứu khoa học được tiến hành nhằm xây dựng các
tiêu chí PTBV, trong đó nghiên cứu về PTBV cũng đã được triển khai trong ngành nuôi
trồng thủy sản. Tuy nhiên, nhìn chung các công trình nghiên cứu này có một điểm
chung là thao tác hóa khái niệm phát triển bền vững theo Brundtland, còn mang tính liệt
kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương,
vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn chưa được làm rõ. Do
đó việc nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp chính trong công tác NTTS theo hướng
bền vững là yêu cầu hết sức cần thiết tại Việt Nam nói chung và trên từng địa phương
cụ thể nói riêng. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó em thực hiện đề tài: “Thực trạng và
những vấn đề đặt ra đối với sự p hát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh ”
1.2 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Phát triển bền vững là vấn đề được toàn thế giới quan tâm, được các quốc gia
trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát
triển của lịch sử kể từ khi Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (Uỷ ban

Brundland) đưa ra khái niệm phát triển bền vững (1987). Liên tiếp sau đó là những
hội nghị thảo luận về vấn đề này diễn ra ở nhiều nước trên thế giới như: năm 1992,
tại Rio de Janeiro Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc; Năm
2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững…
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biến đến ở Việt Nam vào những khoảng
cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan
mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như
“Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại
học Tổng hợp Hà Nội. “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc
gia ở Việt Nam - giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội
Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành.
“Một số vấn đề về phát triển bền vững đối với ngành thủy sản” - Chu Hồi - Hà
Nội, 2004.


3

Đề tài “Sử dụng và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản Việt Nam” của Nguyễn
Thị Thu Hương - Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Nhưng đó chỉ là đánh giá khá tổng
quát về tình trạng nguồn lợi biển Việt Nam trong bối cảnh toàn khu vực. Tác giả đã đưa
ra những định hướng chung để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thủy
sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút
của nguồn lợi biển nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển.
Hiện nay trên địa bàn các tỉnh miền Trung chưa có một đề tài nghiên cứu nào về
sự phát triển bền vững ngành NTTS. Do vậy, đề tài sẽ đi nghiên cứu thực trạng và
những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển ngành NTTS Hà Tĩnh từ đó đưa ra một số
giải pháp để phát triển NTTS bền vững cho Tỉnh nhà.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa lý luận chung về phát triển bền vững, cụ thể hóa lý luận đối với
phát triển bền vững ngành thủy sản.

Phân tích thực trạng phát triển ngành NTTS Hà Tĩnh dưới góc độ phát triển bền
vững (Kinh tế, xã hội, môi trường, nguồn lợi và thể chế) từ đó rút ra một số vấn đề
quan trọng đã và đang đặt ra đối với sự phát triển bền vững ngành NTTS Hà Tĩnh.
Trên cơ sở Chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam, chiến lược phát triển
kinh tế xã hội Hà Tĩnh và những vấn đề đặt ra ở trên, đề xuất hướng và một số giải
pháp góp phần phát triển bền vững ngành NTTS Hà Tĩnh trong thời gian tới.
1.4 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu các khía cạnh của sự phát triển bền vững đối với
NTTS trên địa bàn Hà Tĩnh gồm các doanh nghiệp, hộ gia đình.
1.4.2 Phương pháp nghiên cứu
1.4.2.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
 Nguồn dữ liệu thứ cấp: Bao gồm các số liệu thống kê của các cơ quan quản lý
Nhà nước ( Niên giám thống kê, số liệu thống kê của các sở, UBND Tỉnh…)
 Nguồn dữ liệu sơ cấp: Bao gồm các số liệu, tài liệu, thông tin của các doanh
nghiệp, hộ gia đình ngư dân (doanh thu, chi phí…), chưa có trong các tài liệu thứ
cấp được tiến hành điều tra trực tiếp thông qua phỏng vấn.
1.4.2.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
Phương pháp hệ thống hóa và tổng hợp cơ sở lý thuyết.
Sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp tình hình kinh tế xã hội(điều kiện
tự nhiên, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, tài nguyên đất, tài nguyên sinh


4

vật…). Thống kê và so sánh số liệu theo thời gian. Sử dụng phần mềm Excel để xử
lý dữ liệu thu thập được.
1.5 Nội dung và kết cấu của đề tài
Tóm tắt nội dung nghiên cứu của đề tài được thể hiện ở hình sau
Hình 1.1 : Sơ đồ tóm tắt nội dung và trình tự nghiên cứu



























Đ
ặc điểm các
yếu tố tự
nhiên, kinh

tế, xã hội ở
địa bàn
nghiên cứu
- Vị trí, địa hình
- Tài nguyên, khí hậu, đất, nước

- Tài nguyên sinh vật
- Tài nguyên có th ể P/Triển NTTS

- Kinh tế, dân số, tập quán
- Thực trạng SX T/Sản
- Cơ sở hạ tầng …

Các giải pháp CS
CS kinh tế, xã hội
CS môi trường
CS công nghệ
CS đầu tư, tín dụng

Các giải pháp quy
hoạch, quản lý
Tổ chức nuôi
Quy ho
ạch diện tích
nuôi trồng
Phân cấp quản lý
Hoàn thiện tổ chức
khuyến ngư

Phân tích và đánh giá


Những thành tựu.
Khả năng tiềm tàng.
Lợi thế cho sự phát triển
bền vững ngành NTTS.

Các giải pháp cơ bản
nhằm phát triển bền
vững ngành NTTS tại
địa bàn nghiên cứu
Mục tiêu, phương hướng
phát triển ngành
Phương hướng phát triển
KTXH địa phương.
Phương hướng phát triển
NTTS
Các giải pháp kỹ
thuật
Mô hình nuôi
Kỹ thuật nuôi
Kỹ thuật xử lý chất
thải
Cơ sở lý luận về phát
triển bền vững ngành
NTTS.
Các chỉ tiêu phát triển

bền vững NTTS
Phương pháp phân
tích.


Những tồn tại.
Vấn đề đặt ra đối với
phát triển bền vững
ngành NTTS.


5

Đề tài gồm 4 chương
Chương 1: Tổng Quan Và Phương Pháp Nghiên Cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về phát triển bền vững ngành thủy sản.
Chương 3: Thực trạng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh.
Chương 4: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững
ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh.


























6

Chương 2: Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Bền Vững
Ngành Thủy Sản

2.1 Phát triển bền vững.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.
Trong lời nói đầu của Chương trình nghị sự 21 toàn cầu ( Agenda 21 ) tại Rio de
Janeiro 1992 đã viết: “Để đảm bảo có một tương lai an toàn hơn, phồn vinh hơn,
chúng ta chỉ có một con đường là giải quyết một con đường là giải quyết một cách
cân đối các vấn đề về môi trường và phát triển cùng một lúc”. Đó chính là phát triển
bền vững.
Một cách tổng quát nhất, theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
(WCED, 1987) nay là Ủy ban Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển
nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ

tương lai”.
Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng
những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự
nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua các bản tuyên bố
quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng
lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự
bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ.
Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả,
xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các
thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội phải bắt tay nhau thực
hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
Như vậy, khái niệm “Phát triển bền vững” được .đề cập trong báo cáo
Brundtland với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh tế và
môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nội dung


7

khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã
hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng chuông” hay nói cách khác là “tấm
biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.
Theo Hội đồng Chính phủ Australia (1992) đĩnh nghĩa Phát triển bền vững là “
Sử dụng, bảo tồn và phát triển các nguồn lợi của cộng đồng sao cho các quá trình
sinh thái mà con người phụ thuộc vào được giữ gìn, và chất lượng chung của cuộc
sống con người trong hiện tại và tương lai có thể cải thiện được”.
Hội đồng của FAO (1988 ) định nghĩa Phát triển bền vững là “ Quản lý và bảo
tồn các nguồn lợi tự nhiên và hướng tới thay đổi về kỹ thuật và thể chế nhằm đảm
bảo đạt được sự thỏa mãn các nhu cầu thường xuyên của con người cho thế hệ hôm
nay và thế hệ mai sau. Phát triển bền vững bảo tồn nguồn lợi ở đất , nước, nguồn
gen động, thực vật, là thân thiện với môi trường và không làm môi trường bị suy

thoái, phù hợp về công nghệ, thích hợp về kinh tế và được xã hội chấp nhận”. Định
nghĩa của FAO về phát triển bền vững có thể được xem là khung chung nhất cho
phát triển bền vững nghề cá của mỗi quốc gia.
Như vậy, phát triển bền vững có nghĩa là cả ba khía cạnh chủ yếu liên quan đến
đời sống con người là: kinh tế, xã hội và môi trường phải được tổng hòa, kết hợp
lồng ghép khi có thể và được cân đối một cách có hiệu quả qua các cơ chế, công cụ
và quá trình thực hiện các chính sách.
Phát triển bền vững giống như việc xây dựng một tòa nhà kinh tế-xã hội trên nền
móng hệ môi trường sinh thái. tòa nhà chỉ bền vững khi cả khung nhà, mái nhà và
nền móng đều vững chắc, gắn kết chặt chẽ và hài hòa với nhau.
Quan hệ cốt lõi trong phát triển bền vững là mối quan hệ giữa Con người (Human)
và Môi trường (Environment).







Hình 2.1: Sơ đồ quan hệ cốt lõi trong phát triển bền vững
Mục
tiêu

h
ội

Bảo vệ
Môi
trường


PT
BV

Mục tiêu
Kinh tế
Kinh tế
MÔI TRƯỜNG
Đời sống


8

2.2 Bối cảnh toàn cầu sự phát triển ngành thủy sản và những vấn đề đặt ra.
Từ trong thần thoại
Những chú cá, con sò hay ông lão, chàng trai đánh cá không phải là nhân vật
hiếm gặp trong truyện cổ tích của nhiều nước, nhiều dân tộc trên thế giới. Điều đó
là hoàn toàn dễ hiểu, bởi hoạt động săn bắt - trong đó có săn bắt cá và các loài thủy
sinh - chính là những bước đầu tiên chuyển từ cuộc sống leo trèo trên cây xuống
mặt đất, kiếm sống nhờ lao động, giúp cho loài vượn người tiến hóa thành con
người thông minh sau này. Bởi thế, không ít dân tộc có những câu chuyện kể về
tiếng hát mê hồn của các nàng tiên cá, những chú cá vàng tốt bụng hay viên ngọc
trai thần kỳ.
Song, đem cả lịch sử hình thành của một dân tộc, một quốc gia gắn với những
huyền thoại về nghề sông nước, với các loài thủy tộc, thì có lẽ chỉ có một Việt Nam.
Đó là câu chuyện về năm mươi người con của Mẹ Âu Cơ đã theo Cha Lạc Long
Quân ra biển mở mang bờ cõi. Đó cũng là Chử Đồng Tử, con trai người đánh dặm,
đã trở thành một trong những vị thần hộ mệnh quốc gia, được phong vào hàng bốn
vị thánh Bất Tử của nước Nam. Từ những đề tài về công cuộc xây thành, dựng nước
của Thục phán An Dương Vương, đến cuộc chiến tranh gian khổ để giành độc lập
chủ quyền của Lê Thái Tổ đều gắn với một vị thần thủy tộc - Kim Quy - Rùa Vàng.

Cho đến cả cái kết cục đắng cay của câu chuyện tình lầm lỡ kinh điển giữa nàng
công chúa Mỵ Châu với chàng hoàng tử - gián điệp - Trọng Thủy cũng kết tinh lại
thành những hạt ngọc trai để còn mãi làm đẹp cho đời.
Có lẽ, câu thành ngữ dân dã của người dân miền Trung “Cơm với cá như Mạ với
Con” (Mạ - cách gọi Mẹ của người bắc Trung Bộ) đã tổng quát hóa thật đầy đủ sự
gắn bó của cá - thủy sản - với đời sống của người dân Việt. Nghĩa là, không cần
phải là dân của những đảo quốc như Inđônêxia, Nhật Bản … mới có tập quán ăn cá
từ lâu đời, mà người Việt cũng đã thân quen với nguồn thực phẩm này từ thuở khai
sinh lập địa. Thật khó tưởng tượng nổi một “nhà bếp Việt Nam” thiếu hương vị của
nước mắm! Không chỉ là nguồn thực phẩm quý giá để thoả mãn sự “No”, các loài
thủy sinh còn là kho tàng những thần dược để làm vững bền thêm sự “Khỏe” cho
con người. Thêm vào đó, chúng còn mang theo vẻ kiều diễm có thể tôn thêm cái


9

“Đẹp” cho ngay cả Hoa hậu Hoàn vũ. Chính vì thế, nghề cá - nghề đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản - ở Việt Nam cũng có lịch sử dài lâu như bản thân dân tộc vậy.
Đến lẽ tự nhiên
Sự gắn bó ấy giữa người Việt với nghề cá là kết quả của lẽ tự nhiên. Ở một vùng
đất nhiều sông, hồ, đầm, phá, kênh rạch chi chít, lại thêm có một bờ biển dài với
vùng biển dồi dào nguồn lợi, lẽ nào người dân không thân thuộc với thủy sản.
Đường bờ biển của Việt Nam kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên
(Kiên Giang). Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải rộng 226 nghìn km
2
, diện tích
vùng biển đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km
2
. Vùng biển Việt Nam có nguồn lợi
sinh vật phong phú, đa dạng, là một trong những ngư trường có trữ lượng hàng đầu

trong các vùng biển trên thế giới.
Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thủy sản
nước ngọt ở trong 2,860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu ha đất ngập nước, ao hồ,
ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long,
v.v… đó là nguồn thực phẩm chính hằng ngày của hầu hết ngư dân vùng nông thôn
Việt Nam.
Để hình thành một nghề cá có quản lý
Dẫu ra đời từ rất sớm, nghề cá Việt Nam cho đến những năm giữa thế kỷ trước
vẫn mang đậm dấu ấn của một loại hình hoạt động kinh tế tự nhiên theo kiểu “hái,
lượm”, tự cấp tự túc với trình độ hết sức lạc hậu. Hoạt động nghề cá được xem như
một nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp.
Từ sau những năm 1950, đánh giá được vị trí ngày càng đáng kể và sự đóng góp
mà nghề cá có thể mang lại cho nền kinh tế quốc dân, cùng với quá trình khôi phục
và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã bắt đầu quan tâm
phát triển nghề cá và hình thành các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Từ đó, nghề cá - ngành Thủy sản - đã dần hình thành và phát triển như một ngành
kinh tế - kỹ thuật có vai trò và đóng góp ngày càng lớn cho đất nước. Quá trình ấy
có thể phân chia một cách tương đối thành 3 giai đoạn chủ yếu :
Giai đoạn 1954 - 1960 là thời kỳ kinh tế thủy sản bắt đầu được chăm lo phát
triển để manh nha một ngành kinh tế kỹ thuật.


10

Trong những năm 1960 - 1980, thủy sản có những giai đoạn phát triển khác
nhau với diễn biến của lịch sử đất nước. Những năm 1960 - 1975, đất nước có chiến
tranh, cán bộ và ngư dân ngành thủy sản “vững tay lưới, chắc tay súng”, hăng hái
thi đua lao động sản xuất với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, cùng cả nước
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đánh thắng giặc
Mỹ, giải phóng miền Nam”. Mặc dù tổ chức quản lý ngành được thành lập (Tổng

cục thủy sản năm 1960, Bộ Hải sản năm 1976, Bộ Thủy sản năm 1981), nhưng do
đất nước có chiến tranh và sau đó là những năm khôi phục hậu quả nặng nề của
chiến tranh và phần nào hậu quả cơ chế quản lý chưa phù hợp nên vào cuối giai
đoạn này, kinh tế thủy sản lâm vào sa sút nghiêm trọng.
Năm 1981, với sự ra đời của Công ty XNK thủy sản Seaprdex Việt Nam, ngành
đã chủ động đề xuất và được nhà nước cho phép áp dụng thử nghiệm cơ chế gắn sản
xuất với thị trường, được gọi là cơ chế “tự cân đối, tự trạng trải”. Việc áp dụng
thành công cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường đã tạo ra bước ngoặt quyết định
cho sự phát triển của kinh tế thủy sản, mở đường cho sự tăng trưởng liên tục suốt
hơn 23 năm qua.
Qua thành công bước đầu của cơ chế mới, năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VII đã xác định xây dựng thủy sản thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nhà
nước, phát huy các nguồn lực, đổi mới để phát triển, trong xu thế mở cửa và hội
nhập đất nước, ngành luôn coi xuất khẩu là động lực và ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực
này. Ngành đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến,
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Từ các giải pháp đúng đắn đó,
trong những năm cuối thế kỳ XX, ngành thủy sản đã thu được những kết quả quan
trọng. Đến năm 2000, tổng sản lượng thủy sản đã vượt qua mức 2 triệu tấn, giá trị
kim ngạch xuất khẩu 1.475 tỷ USD, đến năm 2002 xuất khẩu thủy sản vượt qua
mốc 2 tỷ USD (đạt 2.014 tỷ USD). Năm 2005, ngành thủy sản bằng sự nỗ lực phấn
đấu liên tục, không mệt mỏi, vượt qua những khó khăn khách quan và chủ quan, đã
hoàn thành một cách vẻ vang các chỉ tiêu kế hoạch cơ bản mà ngành đã xây dựng và


11

được Đại hội Đảng toàn quốc lần thư IX ghi nhận trong kế hoạch kinh tế - xã hội

giai đoạn 2001 - 2005 : Tổng sản lượng đạt 3.43 triệu tấn, tăng 9.24% so với năm
2004. Kim ngạch xuất khẩu đạt 2.74 tỉ USD, đi qua mốc 2.5 tỉ USD, tăng 13% so
với năm 2004 và bằng 185% so với năm 2000. Tính chung năm năm 2001 - 2005,
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 11 tỉ USD, chiếm khoảng 9%
tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt cơ cấu sản phẩm của kinh tế thủy sản
cũng được thay đổi mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, tăng tỷ trọng sản
phẩm có giá trị cao, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu.
Tiến tới nghề cá công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Quá trình CNH, HĐH ngành thủy sản, trước hết trên lĩnh vực khai thác và chế
biến hải sản, trên thực tế đã diễn ra trước những năm 1970 qua quá trình động cơ
hóa tàu cá, ni lon hóa ngư cụ và xây dựng các cơ sở chế biến đông lạnh. Quá trình
CNH, HĐH đã khởi động, tuy chưa thực sự sâu sắc và toàn diện nhưng kết quả của
quá trình đó đã mang lại sự phát triển đáng kể cho nghề cá nước ta. Và đến năm
1981, sau khi được áp dụng cơ chế mới “tự cân đối, tự trang trải”, thực chất là bước
đầu tiếp cận cơ chế thị trường, nối liền các khâu sản xuất - lưu thông - tiêu thụ,
hướng về xuất khẩu, ngành mới thực sự tạo được đà tăng trưởng và duy trì liên tục
từ đó đến nay.
Trong khai thác hải sản, từ một nghề cá thủ công, quy mô nhỏ, hoạt động ở vùng
gần bờ, đã chuyển dịch theo hướng trở thành một nghề cá cơ giới.
Nghề nuôi trồng thủy sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp
tự túc đã trở thành một ngành sản xuất hàng hóa tập trung với trình độ kỹ thuật tiên
tiến, phát triển ở tất cả các thủy vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền
vững, bảo vệ môi trường, hài hóa với các ngành kinh tế khác, từng bước trở thành
một trong những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực.
Chế biến xuất khẩu là lĩnh vực phát triển rất nhanh, Việt Nam đã tiếp cận với
trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh
vực chế biến thủy sản, tạo dựng được uy tín trên thị trường thế giới. Các cơ sở sản
xuất không ngừng được gia tăng, đầu tư, đổi mới.



12

Thách thức và triển vọng
Từ những chặng đường trưởng thành, phát triển đã qua, có thể thấy ngành thủy
sản đã liên tục phấn đấu, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, để lại dấu ấn đậm nét trong nền kinh tế
- xã hội nói chung của đất nước. Đó là những thuận lợi cơ bản, tạo nên tiền đề vững
chắc cho ngành tiếp tục đi lên trong tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng cần phải nhận
thấy sự phát triển của ngành Thủy sản nước ta còn bộc lộ khá nhiều những tồn tại,
yếu kém và những vấn đề cần phải giải quyết một cách có hệ thống để có thể đưa
ngành Thủy sản tiếp tục phát triển trong những năm tới một cách bền vững. Cụ thể:
Khai thác: Sản lượng đạt trên 50% mức nguồn lợi cho phép chủ yếu ở vùng gần
bờ. Phương án khai thác vùng khơi chưa có hiệu quả, vấn đề khai thác chưa đi đôi
với bảo vệ nguồn lợi, có nhiều nơi hoạt động khai thác còn mang tính chất hủy diệt,
triệt phá nguồn lợi. Tàu thuyền có số lượng lớn nhưng hầu hết công suất nhỏ, một
số có công suất lớn thì nay đã cũ, tiêu hao nhiều nguyên liệu do đó năng suất đánh
bắt thấp và kém hiệu quả.
Nuôi trồng: Đã đưa được hơn 1/3 diện tích mặt nước vào nuôi trồng thủy sản
nhưng dưới hình thức quảng canh là chủ yếu, do đó năng suất thấp. Việc nuôi các
đặc sản xuất khẩu chưa được quan tâm đúng mức. Do đó chưa tạo được giống để
đáp ứng nhu cầu, chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát dịch bệnh trên các vùng
nuôi.
Chế biến: Mặt hàng chế biến cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tuy có phát
triển nhưng còn nghèo về chủng loại, chất lượng chưa cao, thất thoát sau thu hoạch
còn lớn. Tổ chức quản lý trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản chưa chuyển biến kịp
thời với tình hình thực tế, thiếu thông tin đặc biệt là thông tin về thị trường.
Cơ sở hậu cần và dịch vụ nghề cá: Chưa đồng bộ, trang bị lạc hậu, hệ thống cầu
cảng, bến cá còn thiếu, đời sống vật chất văn hóa tinh thần của người dân còn thấp.
Như vậy, thách thức lớn nhất của ngành trong giai đoạn sắp tới là sự chuyển

mình từ quá trình “tăng trưởng” sang quá trình “phát triển”. Trong đó, nhiệm vụ
hàng đầu là phải cải thiện “chất lượng của sự phát triển”, đảm bảo đáp ứng yêu cầu
“nhanh, hiệu quả, bền vững với sức cạnh tranh cao”, khi mà ngành thủy sản Việt


13

Nam đã có một quy mô đáng kể trên bản đồ thủy sản toàn cầu, trong những biến đổi
khôn lường của bức tranh kinh tế thế giới mà chúng ta đang hội nhập, trong sự hạn
chế về tài nguyên, các cảnh báo, về suy thoái môi trường, trong những đòi hỏi bức
xúc gắn liền sự phát triển của ngành với tiến trình công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và trong nông nghiệp
nói riêng, với tổ chức lại sản xuất để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của các
thành phần kinh tế, tham gia thực sự vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo và làm giàu
cho đất nước, biến “huyền thoại” thành thực tiễn, đóng góp xứng đáng để xây dựng
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.
2.3 Phát triển bền vững ngành thủy sản.
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế rất quan trọng đối với sự phát triển
của Việt Nam, có vai trò to lớn đối với công tác xoá đói giảm nghèo, tạo sinh kế bền
vững và việc làm ổn định cho người dân khu vực ven biển. Tuy nhiên, để ngành
thủy sản Việt Nam thực sự có bước đi bền vững đã và đang là vấn đề đặt ra đối với
ngành trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Những năm qua, ngành thủy sản đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh
tế, hàng năm sản lượng đánh bắt thủy sản trung bình đạt 1.5 triệu tấn, tạo công ăn
việc làm cho hàng triệu lao động nông thôn (từ 740 ngàn lao động năm 1985 lên
đến 4 triệu người năm 2005). Thủy sản Việt Nam đã xuất đi 105 thị trường trên thế
giới, với tổng kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, năm 2005 đạt 2,740 triệu USD,
trong 5 tháng đầu năm 2006 giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 1,095 tỷ USD.
Việc nuôi trồng thủy sản đã thực sự trở thành hoạt động sản xuất có hiệu quả kinh tế
cao, đem lại thu nhập và việc làm cho đông đảo người dân vùng nông thôn, góp

phần từng bước xoá đói giảm nghèo.
Song thực tế, thủy sản nước ta lại mang đặc tính của một ngành kinh tế có hoạt
động sản xuất đa dạng, chịu nhiều rủi ro về mặt thị trường và môi trường, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế thế giới và gia tăng các tác động xấu từ các hoạt động của con
người. Do vậy, để ổn định mức tăng trưởng kinh tế của ngành trong thời gian dài,
không có cách nào khác là phải đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển.
Bắt đầu từ năm 2005, mục tiêu phát triển bền vững ngành thủy sản đã được đẩy
mạnh, Bộ Thủy sản đã tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tăng cường rà


14

soát lại các tiêu chuẩn kỹ thuật, xây dựng bổ sung các tiêu chuẩn mới theo yêu cầu
của thị trường, tiến hành thử nghiệm tổ chức các mô hình sản xuất nuôi trồng thủy
sản theo cộng đồng từ sản xuất giống, nuôi thương phẩm, sản xuất thức ăn, quản lý
và sử dụng thuốc kháng sinh, quản lý môi trường vùng nước nuôi, bảo quản sản
phẩm sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
Tuy nhiên, phải nói rằng, kết hợp được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững là
một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Bởi hiện nay, thủy sản Việt Nam đang đối mặt với
nhiều thách thức như: nguồn lợi hải sản đang có xu hướng giảm dần, việc tăng
trưởng với tốc độ cao liên tục về diện tích và sản lượng đang phải đối mặt với tình
trạng yếu kém trong xây dựng và quản lý quy hoạch, hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi
trồng thủy sản chưa được đáp ứng kịp thời, môi trường nuôi ở một số vùng đã xuất
hiện dấu hiệu xuống cấp, tình trạng sử dụng hóa chất kháng sinh bị cấm vẫn đang là
vấn đề nổi cộm gây khó khăn cho việc xuất khẩu, năng lực của cán bộ trong ngành
thủy sản còn hạn chế…
Như trên đã nói, phát triển bền vững, về bản chất phản ánh mối quan hệ cốt lõi
giữa con người (H) và môi trường (E). Ngành Thủy sản là ngành sản xuất ra đời và
phát triển trên nền tảng của tài nguyên, nguồn lợi thủy sản để đáp ứng nhu cầu của
đời sống xã hội, đồng thời sự phát triển của các hoạt động thủy sản có tác động rất

lớn đến sự phục hồi, tái tạo nguồn lợi và qua đó là sự tác động đến các yếu tố môi
trường sinh thái.
Do đó, phát triển bền vững ngành thủy sản là sự phát triển các hoạt động của
ngành sao cho có thể tận dụng tối đa tài nguyên, nguồn lợi tự nhiên đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển kinh tế hiện tại mà không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho sự
phát triển của các mảng hoạt động khác của con người cũng như cho hoạt động tái
sản xuất nguồn lợi của tự nhiên phục vụ cho lợi ích lâu dài trong tương lai.
Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của FAO (cũng như các tổ chức chính phủ và
phi chính phủ khác), ngày càng có nhiều sự quan ngại về các kết quả của tăng
trưởng nghề cá đối với sự phát triển bền vững. Nhiều nghề cá đã hoạt động khai
thác quá mức và/hoặc nguồn lợi thủy sản đã bị suy kiệt, gây ra những lãng phí về
lợi ích tiềm năng của các nghề cá.


15

Sự thay đổi hệ sinh thái do con người gây ra gồm cả sự thay đổi mà nguồn gốc
là do đánh bắt thủy sản đang gây ra những tác động nguy hiểm đến phúc lợi của các
thế hệ hiện tại và tương lai. Công nghiệp đánh bắt cá đang sử dụng năng lực đánh
bắt vượt quá mức sản xuất thủy sản của hệ sinh thái, kết quả là các nguồn tài
nguyên thiên nhiên (cá và các nguồn tài nguyên tự nhiên khác như dầu khí và các
nguồn năng lượng không tái tạo khác) cũng như các nguồn nhân lực và vốn nhân
tạo không được sử dụng một cách hiệu quả (ở mức độ toàn cầu, khu vực và quốc
gia). Thêm vào đó là việc phát triển NTTS ồ ạt hiện nay đã thu hẹp quy mô các hệ
sinh thái và phá hủy các nơi sinh cư quan trọng như rừng ngập mặn, các bãi triều
lầy, các đầm phá, vùng đất ngập nước, làm cho môi trường khu vực nuôi bị ô
nhiễm, dịch bệnh có điều kiện lây lan …
Toàn cầu hóa thương mại thủy sản đã làm chệnh hướng một phần quan trọng
của việc sản xuất thủy sản từ các thị trường nội địa đến thị trường xuất khẩu và làm
gia tăng mối lo ngại về việc phân phối một cách có hiệu quả các lợi ích liên quan

đến phúc lợi của một bộ phận lớn dân cư.
Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) đã đề ra quá trình thực hiện thông qua ủy
ban Phát triển bền vững (CSD), ủy ban này đã thông qua việc Phát triển và ứng
dụng các chỉ số phát triển bền vững cho các quy mô khác nhau, trong đó nghề cá
biển là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Các yêu cầu để phát triển bền vững ngành thủy sản đã được đề cập và chứa đựng
trong Công ước Quốc tế về Luật Biển (UNCLOS, 1982) của UNCED (United
Nations Conference on Environment and Development) và thể hiện rõ trong Bộ quy
tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO năm 1995 (CoC). Chính Bộ quy tắc
này đã làm cho khái niệm và các nguyên tắc trở nên rõ ràng và có thể ứng dụng để
thực hiện tại các quốc gia khác nhau.
Có 5 thành phần liên quan đến sự phát triển bền vững. Đó là:
 Nguồn lợi: bao gồm sự phong phú đa dạng và tính bền vững, phục hồi.
 Môi trường: các điều kiện như nguyên trạng.
 Công nghệ: khả năng công nghệ và tác động môi trường.
 Con người: như nguồn thực phẩm, việc làm, thu nhập, giá thành, giá cả, tham
gia công tác xã hội, vv…


16

 Thể chế: quyền khai thác và hệ thống thi hành pháp luật.











Hình 2.2: Sơ đồ 5 thành phần liên quan Phát triển bền vững ngành thủy sản
Sơ đồ trên cho thấy, hai thực thể chính của Phát triển bền vững nghề cá nhằm
đạt tới là:
Môi trường trong sạch (E): trong đó bao gồm cả tài nguyên nguồn lợi.
Cuộc sống của con người (H): hạnh phúc, sức khỏe và của cải, bao gồm cả con
người, công nghệ và thể chế.
Sự phát triển bền vững được quyết định bằng mối quan hệ qua lại giữa con
người và môi trường.
Định nghĩa nói trên của FAO về phát triển bền vững là khá rộng, có thể áp dụng
cho tất cả các ngành khác nhau, tuy nhiên nó chưa đưa ra các chi tiết để xác định
các mục tiêu cụ thể, các tiêu chí cũng như các chỉ số. Vì vậy, để giải quyết các vấn
đề này, trong ngành thủy sản mà trước hết là trong khai thác thủy sản, năm 1995
FAO đã xây dựng và thông qua Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm (gọi tắt
là CoC – Code of Conduct for Responsible Fisheries).
Bộ quy tắc được tất cả các nước có nghề cá xem như là cơ sở thực tiễn để thiết
lập phát triển nghề cá bền vững. Thay vì chỉ xem xét sự hài hòa giữa môi trường và
cuộc sống con người, Bộ quy tắc chia ra thành các vấn đề thực tiễn như sau:
Phát triển bền vững nghề cá đòi hỏi phải có sự đổi mới trong quản lý tập trung
vào các kết quả đầu ra mang tính dài hạn. Cụ thể là:
 Tăng cường nhận thức về các yếu tố liên quan đến quản lý nghề cá.
Thể
chế

×