Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển thương nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.81 KB, 40 trang )


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

1
Lời nói đầu

Lịch sử phát triển kinh tế loài người từ trước đến nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế xã hội, nổi bật và rõ nét đó là hình thái công xã
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái
kinh tế nào có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù
hợp và hợp lý nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào kinh tế thị
trường để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ
dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế.
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp sang nền kinh
tế thị trường với nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa luôn đặt ra
những vấn đề nghiên cứu lý luận thực tiễn và rất cần thiết chẳng hạn
như: nền kinh tế nước ta có bao nhiêu thành phần, các thành phần
quan hệ với nhau như thế nào, vị trí, vai trò,đặc điểm, nguồn gốc của
mỗi thành phần kinh tế? Từ đó có những biện pháp, chính sách cụ thể
nhắm khuyến khích các thành phần đó phát triển theo hướng có lợi.
Để góp phần vào sự lựa chọn cơ chế tổ chức quản lý để phát triển kinh
tế cho phù hợp, đồng thời làm rõ lịch sử phát triển, vị trí của kinh tế
nhà nước, đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay, Sau một thời gian
học tập, tìm tòi và nghiên cứu môn kinh tế chính trị, em đã thu lượm
được những kiến thức nhất định em xin được nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và giải pháp phát triển thương nghiệp quốc doanh

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN



2
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” với
những nội dung chủ yếu sau:
+ Khẳng định bản chất của nền kinh tế nói chung trong nền
kinh tế thị trường.
+Xác định vai trò của kinh tế nhà nước.
+Đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản đổi mới kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Với những hiểu biết kinh nghiệm thực tế và điều kiện nghiên cứu
còn hạn chế, những sai sót mắc phải trong khi thực hiện sẽ là điều
không thể tránh khỏi. em rất mong nhận được những lời phê bình và
góp ý quý báu của Cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn.







THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

3
Phần 1
Sự hình thành kinh tế nhà nước
Bản chất của kinh tế nhà nước.

1. Qúa trình hình thành và phát triển của kinh tế nhà nước

1.1. Kinh tế nhà nước hình thành cùng với Nhà nước
Loài người sinh ra vào thời kỳ tân sinh kỷ thứ tư,đó là một bước ngoặt
trong giới tự nhiên, bước ngoắt đó xảy ra khi tổ tiên loài người bắ đầu
chế tạo ra công cụ lao động. Trong xã hội nguyên thuỷ, trình độ phát
triển lực lượng sản xuất thấp kém, giai cấp chưa xuất hiện, Nhà nước
và kinh tế Nhà nước chưa xuất hiện. Nhà nước là công cụ của giai cấp
thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội cho phù hợp với lợi ích
của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý hành chính bao
gồm các lĩnh vực chủ yếu như :
Chức năng đối ngoại: quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bàn
giao với các nước láng giềng .
Chức năng đối nội: quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ
giữa các cá nhân, các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng dân tộc sao
cho phù hợp với ý chí của giai cấp đã sản sinh ra nó.
Để thực hiện hai chức năng này, các Nhà nước đều phải có
những cơ sở kinh tế nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nước
đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ
các chức năng kinh tế của mình.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

4
Lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được
phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện.
Sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế
xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì vai trò kinh tế của
Nhà nước cũng biểu hiện ở mức độ khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can
thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong giai đoạn

này, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy,
điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng
của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt
bằng các thủ đoạn bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây
được sử dụng để làm công cụ chiếm đoạt cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, ngoài việc can thiệp vào việc phân
phối của cải, Nhà nước phong kiến còn đứng ra tập hợp lực lượng
nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến
khích di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng
đất thích hợp với từng thời kỳ... nhằm phát triển kinh tế. Nhìn chung
các hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Trong sự khác biệt với các
Nhà nước phong kiến phương Tây, chức năng quản lý kinh tế được
các Nhà nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn. ở Trung
Quốc, Mạnh Tử đã nói trong học thuyết của mình là: Chính sách kinh
tế Nhà nước phong kiến phải hướng vào làm giàu cho dân. Dân giàu
thì nước mới mạnh. Tư tưởng kinh tế này rất tương đồng với tư tưởng
kinh tế của Adam Smith, mặc dù hai nhà tư tưởng sống ở hai thời kỳ

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

5
cách nhau hàng nghìn năm. Họ đều cho rằng về bản chất, lợi ích cá
nhân thống nhất với lợi ích toàn xã hội, mọi người trong khi làm giàu
cho mình thì cũng đồng thời làm giàu cho xã hội, từ đó đặt lên vai trò
Nhà nước phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung
đột lợi ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại phải
thúc đẩy lợi ích xã hội. ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào
nền kinh tế cũng được hình thành rất sớm như: triều đại nhà Lý kiểm
soát tất cả các thái ấp, bảo vệ chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất,
Nhà Hồ ban hành chính sách hạn điền, hạn nô, Nhà Lê ban hành chế

độ quân điền...
Trong thời đại hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản (từ
thế kỷ XV), dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực Nhà nước tư bản non
trẻ đã thực hiện phương thức tích luỹ nguyên thuỷ để giúp cho giai
cấp tư sản cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính vì vậy vai trò kinh tế
của Nhà nước tư sản ngày càng được nâng cao.
Trước hết Nhà nước tư bản đã thực hiện một chính sách tiền tệ
hết sức nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ, không cho tiền
chạy ra nước ngoài. Nhà nước của các nước tư bản trong giai đoạn này
đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền
ra khỏi nước họ. Nhà nước còn qui định những nơi khác được phép
buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra, kiểm soát .
Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo
hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng sản xuất ở
trong nước thấp... Nhờ các chính sách đó các nước tư bản đã tích luỹ

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

6
được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy đầu thế kỷ 18, giai
cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng
các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát
triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề
mới và mở rộng qui mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi
hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nươc này. Từ hỏi đó tất
yếu nảy sinh cơ chế thị trường_ kinh tế thị trường là trình độ phát triển
cao của kinh tế hàng hoá.
Từ sau năm 1917, với sự ra đời của liên bang Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Xô viết và sau năm 1945 là sự ra đời hệ thống XHCN thế
giới, trong nền kinh tế thế giới còn có nền kinh tế chỉ huy vận động

theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này, Nhà nước là
người quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế bằng kế hoạch và thông qua một loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và
chỉ tiêu gián tiếp. Trong một thời gian dài, kiểu quản lý này đã làm sơ
cứng nền kinh tế, do đó các nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
như Liên Xô và các nước XHCN đã phải chuyển sang cơ chế thị
trường và đã đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước.
Đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô cũ và Đông Âu lại lần
nữa góp phần chứng minh cho hướng đi sai lệch khỏi quỹ đạo kinh tế
thị trường. Việc đề cao quá vai trò Nhà nước đã khiến cho nền kinh tế
bước đi khập khiễng, thiếu năng động và hiệu quả. Điều đó cho thấy
vai trò kinh tế của Nhà nước là không thể phủ nhận song sẽ rất sai lầm
khi tuyệt đối hoá nó.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

7
Chính vì vậy sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị
trường luôn luôn là vấn đề được quan tâm và gây tranh cãi giữa các
nhà kinh tế học, từ đó xuất hiện những quan điểm không giống nhau
về vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo một số nhà kinh tế học thì để
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển có tính kế hoạch cân đối, Nhà nước
phải đóng vai trò trung kiện kinh tế, can thiệp sâu sắc và rộng rãi vào
kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô và vi mô.
Theo chủ nghĩa Mác: “Không thể cải biên kinh tế xã hội nếu
thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà
nước đã thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội phát triển và hoàn
thiện”. Các Mác coi quyền lực của Nhà nước như “vai trò bà đỡ cho
xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. Lê Nin chỉ rõ Nhà nước XHCN có
vai trò kinh tế đặc biệt, không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá

trình sản xuất mà nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng
quản lý nền kinh tế quốc dân.
Theo quan điểm của Paul Samuelson: “Cơ chế thị trường định
giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều
tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ”. Các nền
kinh tế hiện đại chỉ có thể phát triển được khi sử dụng cơ chế hỗn hợp
để điều khiển nền kinh tế. Cơ chế đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp vào
nền kinh tế theo quy luật của thị trường mà Nhà nước cần phải can
thiệp vào các quá trình của nó, định hướng nó đến mục tiêu mong
muốn, nhưng sự can thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân
Nhà nước cũng phải tuân theo những quy luật của thị trường.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

8
Theo Jonh Mefnand Keynes: Nguyên nhân đưa đến khủng
hoảng kinh tế và thất nghiệp là do Nhà nước không can thiệp vào kinh
tế hoặc là có can thiệp nhưng chính sách kinh tế lại lạc hậu, bảo thủ.
Để ngăn chặn những khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp thì Nhà nước
phải can thiệp vào các quá trình kinh tế thông qua việc sử dụng các
công cụ tiền tệ tài chính...
Có thể nói rằng, những nhà kinh tế học đều có những quan điểm
không giống nhau về vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhưng họ đều có
chung quan điểm là vai trò của Nhà nước là quản lý vĩ mô nền kinh tế,
điều tiết nền kinh tế để khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế
quốc dân, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
1.2_Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
Quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người từ trước tới
nay đã trải qua những thời kỳ sau:

_ Nền kinh tế tự cung tự cấp .
_ Nền kinh tế hàng hoá.
_ Nền kinh tế thị trường.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. “Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá
trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất xã

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

9
hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương pháp
nào đều phải thông qua thị trường. Vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt
động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả ”.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá
dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế
thị trường chính là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó những
người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị
trường để giải quyết những vấn đề trung tâm của sản xuất xã hội.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của
thị trường, trong đó quy luật giá trị đóng vai trò chi phối và được biểu
hiện bằng quan hệ cung cầu trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là
giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá, nó nằm trong tiến
trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế của xã hội loài người. Do
vậy, nền kinh tế thị trường cũng có những ưu thế và khuyết tật của nó.
a_ Những ưu thế của nền kinh tế thị trường thể hiện:
Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ_thực
hiện mục tiêu của sản xuất. Do đó, người ta tìm mọi cách rút ngắn chu
kỳ sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản
xuất_khoa học_công nghệ và quay nhanh tiền vốn, đạt tới lợi nhuận

tối đa.
Thứ hai, thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích
nghi với các điều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản
xuất, tìm mặt hàng mới và thị trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

10
kinh doanh, phá thế độc quyền và khép kín trong một đơn vị kinh
doanh, tìm cách đạt tới lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học_công nghệ đưa nhanh vào
sản xuất, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội
hoá sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng
yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và thị trường.
Thứ tư, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ, thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề
cao trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội.
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích
tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất.
Một mặt, các đơn vị chủ thể sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi, có hiệu
quả cao cho phép tích tụ, mở rộng qui mô sản xuất. Mặt khác, do quá
trình cạnh tranh làm cho sản xuất được tập trung vào các đơn vị kinh
tế thực sự đứng được trên thị trường, làm ăn có hiệu quả cao, đồng
thời loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Chính quá trình cạnh
tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
b_ Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thể hiện:
Thứ nhất nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi
nhuận bằng bất kỳ giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà
nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự

phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao độ, sinh ra độc

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

11
quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều
chỉnh của nền kinh tế.
Thứ hai, xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn gắn liền với hiện trạng
kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm mọi thủ
đoạn, mánh khoé làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... không
từ một thủ đoạn nào, dù là dơ bẩn nhất để thu lợi nhuận tối đa.
Thứ ba, vì lợi ích và lợi nhuận riêng biệt, dẫn đến sự sử dụng
bừa bãi, tàn phá tài nguyên và huỷ diệt môi trường sinh thái.
1.3_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà nước.
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trên đất
nước ta hiện nay đang diễn ra với bối cảnh trong nước và thế giới có
nhiều biến động. Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc
tế cởi mở, đa phương và đa dạng.
Vai trò quản lý của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải
phối hợp hoạt động lao động chung và do tính chất xã hội hoá của sản
xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá
sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng rộng và mức
độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là bước phát triển
tất yếu của kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế
có nội dung rất phong phú, bao gồm những trình độ và khuynh hướng
phát triển khác nhau trong một kết cấu gồm nhiều thành phần kinh tế

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


12
khác nhau, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau, vừa mang tính kinh tế cổ
truyền, vừa chứa đựng những yếu tố của nền kinh tế hiện đại, phát
triển theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh. Đó là thời kỳ phải giải quyết hai mâu thuẫn chính: Thứ nhất là
mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với yêu cầu phải phát triển
nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển nền kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường. Thứ hai là mâu thuẫn giữa những yếu tố
nhanh nhạy của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những yếu tố
tự giác của quản lý vĩ mô, định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Với tư cách là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân và là
chủ đại diện sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nền kinh tế đó, thực
hiện chế độ dân chủ trong mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản
xuất. Tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt
được của sự xã hội hoá trong mỗi nước, mỗi thời kỳ mà giữa chúng có
quan hệ tỷ lệ nhất định làm cho nền kinh tế phát triển thăng bằng ổn
định, khai thác, tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng
như bên ngoài. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự
tác động thường xuyên của các điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị...
làm cho các quan hệ tỷ lệ đó luôn biến động. Khi các quan hệ kinh tế
quốc tế được hình thành và phát triển thì các quan hệ kinh tế trong và
ngoài nước có thể di chuyển phù hợp hay không? Quy mô và có cấu
kinh tế có thể dịch chuyển theo hướng tiến bộ, tối ưu hay lạc hậu?
Như vậy có thể nói vận mệnh của nền kinh tế quốc gia không chỉ phụ
thuộc vào các quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN


13
bên ngoài, vào thị trường khu vực, thị trường quốc tế. Tình hình đó
đặt nên vai Nhà nước, dân tộc nhiệm vụ không chỉ là người bảo vệ trật
tự xã hội và an ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết quy luật vận
động và phát triển của nền sản xuất xã hội, có khả năng sử dụng các
đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ trương, chính sách kinh tế thành
hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống
chế, điều tiết các hoạt động đối ngoại, định hướng sự phát triển của
các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế để đảm bảo
yêu cầu thăng bằng, cân đối trong sự phát triển do chính các quy luật
khách quan của đời sống kinh tế, xã hội quy định.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng: tính tất yếu khách quan của vai
trò quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam là do ưu khuyết điểm của
cơ chế thị trường và thực trạng của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra
còn do yêu cầu thăng bằng cân đối trong sự phát triển của kinh tế mà
đòi hỏi phải có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong diễn văn
khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII do đồng chí Lê Đức
Anh, Uỷ viên Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương khoá VII, đọc
ngày 28/6/1996 có đoạn: “Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế
thị trường nước ta còn ở giai đoạn thấp, hệ thống pháp luật chưa hoàn
hảo, những ưu thế chưa thể hiện rõ nét, những khuyết tật có cơ hội nảy
sinh thì vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất cần thiết và là một
tất yếu khách quan.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

14

1.4_ Vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là cần thiết và
không thể thiếu được vì nó dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng
tích cực và khắc phục, sửa chữa những gì mà cơ chế thị trường chưa
đạt được cũng như những hậu quả mà nó gây ra để phát triển nền kinh
tế một cách tốt nhất. Như vậy vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường được thể hiện ở những điểm sau:
a_ Nhà nước đóng vai trò định hướng cho sự phát triển nền kinh tế.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay, các doanh nghiệp được
quyền tự lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Nhà nước không
can thiệp vào quyết định của họ về việc sản xuất cái gì? Bằng cách
nào? Tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án của sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu
quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Hiện nay
rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
hoạt động cạnh tranh với nhau. Sự hoạt động của quy luật cạnh tranh
vừa thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa có thể dẫn đến sự khai thác bừa
bãi các nguồn lực, huỷ hoại môi trường.
Khác với các doanh nghiệp, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước
là ở chỗ Nhà nước không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận như một doanh
nghiệp cá biệt mà theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc là làm cho
dân giàu, nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

15
chắc trong điều kiện công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là

thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về cùng
một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân
của mình cũng đồng thời góp phần vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc.
Chính vì vậy để có thể hoàn thành chức năng định hướng nền kinh tế
Chính phủ phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động
của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cá biệt theo chiều hướng vận
động của nền kinh tế và Nhà nước ta đã có hai định hướng cho sự phát
triển của nền kinh tế, đó là:
_ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
_ Kế hoạch hoá định hướng .
b_ Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với
những điều kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Thực tiễn lịch sử cho thấy
rằng: con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển rất lâu dài. Kể từ khi nền kinh tế thị trường truyền
thống bộc lộ ra các khuyết tật của nó đến khi Chính phủ các nước này
tự nhận thức được vai trò điều khiển quản lý kinh tế của mình phải
mất hàng trăm năm. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước
này đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

16
phát triển của mình bằng cách: chủ động sử dụng kiến trúc thượng
tầng và quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi
cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. để
hoàn thành vai trò đó Nhà nước ta đã phải thực hiện những công việc
sau:
_ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương

mại hoá nền kinh tế.
_ Bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
_ Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
_ Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
_ ổn định về chính trị.
c_ Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng_hiệu quả tạo
ra động lực sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt
động của quy luật giá trị càng dẫn đến việc phân hoá thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư, chia rẽ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong
quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình
trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự
phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị, xã hội, mâu thuẫn gắt
gay về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn đến sự đe doạ ổn định chế
độ. Chính vì vậy để ổn định về mặt chính trị tạo ra môi trường xã hội
lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn, Nhà nước phải hoàn thành
các phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao

×