Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

tìm hiểu quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh (scylla paramamosain estampador, 1949) tại khu sản xuất giống thủy sản bình kiến thuộc sở nông nghiệp và ptnt phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.67 KB, 59 trang )



i
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực tập ngoài sự nỗ lực bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của các cá nhân và cơ quan đoàn thể. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành tới:
Ths.Trương Thị Bích Hồng và Th.s Nguyễn Minh Phát đã giúp tôi định hướng
nghiên cứu và hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập.
Cảm ơn K.s Nguyễn Thanh Tùng, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ để tôi
thực hiện đề tài và hoàn thành bài luận văn này.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Nuôi trồng thủy
sản, trường Đại Học Nha Trang đã dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong những năm học vừa
qua. Xin cảm ơn thư viện trường Đại Học Nha Trang đã tạo điều kiện cho tôi mượn
tài liệu tham khảo.
Tôi xin cảm ơn đến bạn bè, các anh chị, những người đã luôn bên cạnh tôi,
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp nay.
Cuối cùng, tôi xin dành sự biết ơn đặc biệt đến gia đình và người thân đã luôn
động viên cổ vũ cho tôi vượt qua mọi khó khăn trong suốt quá trình học tập.

Nha trang, tháng 6 năm 2012
Sinh viên: Trần Thị Lưu














ii
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

CW: Chiều rộng giáp đầu ngực
Wtb: Trọng lượng trung bình toàn thân
Z1, Z2, Z3, Z5, Z5: Ấu trùng cua giai đoạn zoea 1, zoea 2, zoea 3, zoea 4,
zoea 5.
C1: Cua 1.
SSSTT: Sức sinh sản thực tế.
AT: Ấu trùng.
TB: Trung bình
















1

MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thủy sản đã và đang được xem là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn để phát triển nền kinh tế đất nước. Với tiềm năng lớn về đất đai, diện tích
mặt nước và lao động, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy
sản đặc biệt là hải sản. Trong những năm gần đây do nguồn lợi thủy sản ngày càng
cạn kiệt do đánh bắt. Do đó việc mở rộng phát triển nuôi trồng thủy sản là một trong
những hướng phát triển để nâng cao chất lượng thực phẩm cho con người.
Với chiều dài bờ biển 189 km và nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông nên nuôi
trồng thuỷ sản tỉnh Phú Yên đã xác định một trong những ngành kinh tế mũi nhọn,
mang lại thu nhập đáng kể cho nông - ngư dân vùng ven biển, góp phần xoá được
đói, giảm được nghèo và nhiều hộ vươn lên làm giàu.
Để duy trì sự phát triển một cách bền vững, bên cạnh những chính sách phát
triển nhằm đa dạng hoá đối tượng nuôi, trong đó có sản xuất cua giống với mục
đích nhằm làm giảm gánh nặng về sản xuất giống và nuôi tôm sú nhiều năm thua lỗ.
Cua biển là loại hải sản có kích thước lớn, hàm lượng đạm rất cao, nhu cầu
xuất khẩu và tiêu thụ nội địa ngày càng nhiều. Chúng sống ở vùng cửa sông, rừng
ngập mặn và phân bố ở biển Ấn Độ - Thái Bình Dương là đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế cao ở nhiều nước. Ở Việt Nam trong những năm qua nghề nuôi cua thương
phẩm phát triển rất mạnh nhưng chủ yếu các tỉnh Nam bộ. Khó khăn của nghề nuôi
cua hiện nay là vấn đề giải quyết con giống. Nguồn cua giống cung cấp cho các mô
hình nuôi cua từ trước đến nay chủ yếu khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, nguồn
giống từ tự nhiên biến động theo mùa vụ, kích thước không đồng đều, trộn lẫn
nhiều loại với nhau nên khó đáp ứng được yêu về chất lượng cho các mô hình nuôi
cua thương phẩm. Mặt khác do bị khai thác quá mức nên nguồn lợi cua tự nhiên
đang có chiều hướng suy giảm.
Để giải quyết vấn đề cua giống cung cấp cho nghề nuôi, năm 1998 Trung tâm
Nghiên cứu Thủy sản III (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III) và một



2

số Trường Đại học đã cho sinh sản nhân tạo giống cua xanh thành công nhưng hầu
hết tỉ lệ sống ở các cơ sở sản xuất giống từ giai đoạn Zoea 1 đến Cua bột 1 dưới
10% và vẫn còn tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện qui trình.
Năm 2004 Trung tâm Giống và Kỹ thuật Thuỷ sản Phú Yên tiếp nhận công
nghệ sản xuất giống cua xanh từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III Nha
Trang và bước đầu cho sinh sản thành công nhưng tỉ lệ sống ở các giai đoạn ấu
trùng còn thấp.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nghề nuôi nhằm vận dụng kiến thức đã học
vào thực tế sản xuất và hoàn thành khóa học khoa nuôi trồng thủy sản – trường Đại
học Nha Trang đã giao cho tôi đề tài: “Tìm hiểu quy trình kỹ thuật sản xuất giống
nhân tạo cua xanh (Scylla paramamosain Estampador, 1949) tại Khu sản xuất giống
thủy sản Bình Kiến thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT Phú Yên” với các nội dung
sau:
1. Tìm hiểu điều kiện tự nhiên và hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống
nhân tạo cua xanh.
2. Tìm hiểu quy trình sản xuất giống nhân tạo cua xanh.
3. Tìm hiểu kỹ thuật ương ấu trùng.
Mục tiêu:
1. Làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, áp dụng những kiến thức đã
học vào thực tiễn.
2. Tìm hiểu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cua xanh.
3. Hoàn thành đợt thực tập tốt nghiệp và nộp báo cáo đúng hạn.





3

PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học cua xanh
1.1.1. Đặc điểm phân loại
Theo Bowman và Abele, 1982, cua xanh (Scylla) có 4 loài: S. serrata, S.
tranquebarica, S. olivacea, S. paramamosain có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Athropoda (Chân khớp)
Phụ ngành: Crustacea (Giáp xác)
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda Latreille 1803
Họ cua bơi: Portunidae Rafinesque 1815
Giống: Scylla de Haan 1833
Loài: S. paramamosain (Estampador 1949)

Các loài cua Scylla còn được gọi là cua bùn, cua xanh và cua sú, đây là các
loài giáp xác sống ở vùng cửa sông hoặc vùng biển. Cua xanh phân bố ở các vùng
biển nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới như: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,
Philippin, Nam Phi, Ấn Độ [2],[4],[13].
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo


Hình 1.1: Hình thái cua biển (scylla paramamosain)


4

Loài cua biển Scylla paramamosain có kích thước tương đối lớn có thể
đạt được trọng lượng 2kg. Cua có màu xanh lục hoặc màu vàng sẫm, mặt bụng
thường có màu sáng hơn mặt lưng, cơ thể cua dẹp theo hướng lưng bụng và

chia làm 2 phần, phần đầu ngực lớn nằm trong giáp đầu ngực (mai cua), phần
bụng nhỏ và gập lại dưới giáp đầu ngực (yếm cua) [6].
Phần đầu và phần ngực ở cua dính liền với nhau, ranh giới giữa các đốt
không rõ ràng, căn cứ vào phần phụ mà biết được số đốt tạo thành. Đầu gồm 5
đốt có mắt, anten và các phần phụ miệng. Ngực gồm 8 đốt, có mang, chân hàm
và các chân bò, phía trước của giáp đầu ngực có hai hố mắt, mang hai mắt nằm
trên cuống mắt. Giữa hai hố mắt, mỗi bên mép trước của giáp đầu ngực có 9 gai
nằm liên tiếp nhau. Mặt trên của giáp đầu ngực phân chia thành từng vùng nhỏ
ngăn cách bỡi rãnh và gờ rõ rệt. Phía trước là vùng trán, kế tiếp là vùng dạ dày
ngăn cách với nhau bởi hai gờ, kế là vùng tim và sau vùng tim đến vùng ruột.
Hai bên vùng dạ dày là vùng gan và ngoài cùng là vùng mang. Mặt bụng của
phần đầu ngực có các tấm bụng, các tấm bụng làm thành vùng lõm ở giữa chứa
phần bụng gập vào. Ở con cái có đôi lỗ sinh dục nằm ở tấm bụng thứ ba được
phần bụng gập lại che lấp [2],[6].
Phần bụng gồm 7 đốt với các phần phụ bị tiêu giảm nằm gấp lại dưới phần
đầu ngực làm cho cua thu ngắn chiều dài và gọn lại giúp cua bò được dễ dàng.
Ở con cái các đốt bụng I, II và III khớp động với nhau, các đốt khác bất
động, các chân bụng chẻ đôi biến thành các chùm lông yếm để trứng đẻ ra và
bám vào đấy để phát triển, ở con đực các đốt bụng I, II, IV và VI khớp động
với các đốt bên. Các chân bụng thoái hoá biến thành đôi gai giao cấu, lỗ hậu
môn nằm ở cuối cùng [6].




5

1.1.3. Tập tính và môi trường sống

Hình 1.2 : Vòng đời cua biển

Vòng đời cua xanh trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có tập tính sống
khác nhau. Giai đoạn phôi được cua mẹ mang trứng, phôi phát triển ở vùng ven bờ.
Ấu trùng Zoea và Megalop sống trôi nổi nhờ dòng nước đưa vào ven bờ, ấu trùng
Zoea nở ra là bơi lội và có tính hướng quang mạnh, ấu trùng Megalope bơi lội
nhanh nhẹn, trước khi biến thái thành cua bột (khoảng 2 ngày) thường sống bám
trên những giá thể hoặc những chất nền như tảo ở đáy biển. Cua con bắt đầu sống
bò trên đáy và lớn dần có tập tính đào hang hay chui rúc vào các gốc cây, bụi rậm
đồng thời với việc chuyển từ đời sống ở môi trường nước mặn sang nước lợ, thường
ở các rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay tập trung ở các bãi trung triều
[2],[3],[8],[13]. Với tập tính sống như vậy là một trong những điều kiện để nghiên
cứu về giá thể bám cho ấu trùng trong điều kiện sản xuất nhân tạo. Cua sắp trưởng
thành di cư vào vùng trung triều để kiếm mồi lúc triều cao và trở lại vùng hạ triều
khi triều thấp, tuy nhiên cua trưởng thành hầu như chỉ thấy ở vùng hạ triều
[4],[8],[11]. Đến giai đoạn thành thục sinh dục cua di cư ra vùng gần bờ để sinh sản
rồi tiếp tục lặp lại vòng đời.


6

Ấu trùng Zoea thích hợp với nồng độ muối từ 25 - 30‰, cua con và cua
trưởng thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2 - 38‰, tuy nhiên trong
thời kỳ đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ 22 - 32‰ [2],[3],[5],[8]. Những đặc tính sinh
học cua xanh rất phù hợp với điều kiện lý tưởng ở khu vực miền Trung.
Cua sống ở vùng nước lợ có độ pH trong khoảng 7,5 - 9,2, thích hợp nhất là
từ 7,5 - 8,8, tuy nhiên cua có thể chịu đựng được trong nước có độ pH thấp hơn 6,5.
Cua có khả năng thích ứng cao với sự thay đổi độ mặn trong môi trường nước, cũng
có thể sống trong vùng gần như ngọt cho đến độ mặn trên 33‰ [6], [8].
Ở Việt Nam cua biển Scylla paramamosain phân bố rất rộng và ở những
vùng vĩ tuyến cao, cua chịu đựng nhiệt độ nước thấp rất tốt. Ở vùng biển phía Nam
nước ta cua biển thích nghi với nhiệt độ nước từ 25 - 29

0
C. Nhiệt độ cao thường ảnh
hưởng xấu đến các hoạt động sinh lý của cua, là một trong những nguyên nhân gây
chết hàng loạt khi nuôi thương phẩm [6].
1.1.4. Tính ăn
Cua biển là loài ăn tạp, tập tính bắt mồi và thành phần thức ăn thay đổi tùy
theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng cua thích ăn thực vật và động vật phù
du (Branchionus plicatilis, Nauplius của Artemia, Artemia sinh khối…). Khác với
cua có kích thước lớn hoạt động về đêm, ấu trùng cua có tính hướng quang mạnh,
có thể dùng ánh sáng để kích thích chúng bắt mồi. Cua con chuyển sang ăn tạp và
kiếm ăn vào ban đêm, thức ăn tự nhiên của chúng chứa 50% nhuyễn thể, 21% giáp
xác, phần còn lại là cá. Tập tính kiếm ăn của chúng cũng thay đổi theo tuổi, cua
con 2-7cm chủ yếu ăn giáp xác, cua từ 7-13cm thích ăn nhuyễn thể, cua lớn hơn
thường ăn cua nhỏ, ghẹ, cá…Cua là loài bắt mồi tích cực thời gian bắt mồi thường
nhiều hơn thời gian vùi mình trong đáy hoặc trong hang. Cua thường trú ẩn vào
ban ngày và bắt mồi vào ban đêm. Cua thường ăn rất nhiều nhưng cũng có thể nhịn
đói vài ngày trong những điều kiện bất lợi [2], [13].
1.1.5. Lột xác và sinh trưởng
Ấu trùng Zoea 1 đến cua trưởng thành trải qua nhiều lần lột xác, mỗi lần lột
xác vừa để sinh trưởng, biến thái thay đổi kích thước và hình thái cấu tạo nhằm đạt


7

được hình dạng cấu tạo thực thụ của cua. Ở giai đoạn ấu trùng và cua bột thời gian
giữa các lần lột xác thường ngắn 2 - 3 ngày hoặc 3 - 5 ngày, ở cua giống và cua
trưởng thành thời gian giữa hai lần lột xác dài hơn [2], [11].
Trước khi lột xác, cua tiết ra rất nhiều dịch tố để tách vỏ mềm ở bên trong
ra khỏi vỏ cứng, phần đầu ngực và phần bụng xuất hiện một vết nứt, hai bên cửa
miệng cũng lần lượt xuất hiện một vết nứt. Lúc đầu bộ phận đầu ngực nâng lên,

vết nứt lớn ra, khối đầu ngực lộ ra ngoài, bụng co lại phía sau, các chân cử động
co về giữa, đôi chân bơi thoát ra ngoài, sau đến phần bụng và chân càng được lột
ra sau cùng. Cua không chỉ lột vỏ ngoài mà vỏ cũ của dạ dày, mang, ruột…cũng
được lột đi [11].
Sự lột xác diễn ra trong khoảng 30 - 60 phút, lớp vỏ trong biến thành lớp vỏ
ngoài còn nhăn nheo sau đó mới dần dần căng ra. Cua mới lột xác yếu không ăn,
không có khả năng tự vệ, nằm ở đáy 2 - 3 giờ mới trở lại bình thường và sau 1 - 2
ngày vỏ mới cứng lại. Trong thời gian lột xác, cua thường bị kẻ thù tấn công rất dễ
tử vong, sau mỗi lần lột xác cua tăng trọng lượng từ 40 - 80% [3],[11].
1.1.6. Đặc điểm sinh sản
1.1.6.1. Di cư sinh sản và mùa vụ sinh sản
 Di cư sinh sản
Cua sống và sinh trưởng ở các vùng rừng ngập nước lợ, trước mùa sinh sản
di cư ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền giao vĩ. Cua cái tiến hành giao vĩ sau đó
tuyến sinh dục tiếp tục phát triển cho đến lúc trứng chín, đẻ trứng, ấp phôi, ấu trùng
nở ra khỏi vỏ trứng rời cua mẹ kết thúc quá trình sinh sản.
Ở những vùng khác nhau có điều kiện môi trường khác nhau thì mùa di cư
khác nhau. Vùng biển phía Bắc thì gặp cua ôm trứng nhiều vào tháng 4, 5, 6, 7, các
tỉnh duyên hải Nam Trung bộ thường bắt gặp cua ôm trứng từ tháng 4 đến tháng 10.
Ở vùng biển phía Nam nước ta cua thường bắt đầu di cư vào tháng 7, 8 và mùa sinh
sản thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 1, 2 năm sau. Tuy vậy, cũng có thể bắt
gặp cua ôm trứng sớm hơn [6].


8

 Mùa vụ sinh sản
Tại Việt Nam, thời gian sinh sản khác nhau tùy vào từng vùng khác nhau.
Ở vùng biển phía Bắc Việt Nam, mùa đẻ trứng của cua xanh tập trung từ tháng 4
đến tháng 7. Khu vực các tỉnh Nam Trung Bộ Việt Nam, nhiệt độ trung bình

hằng năm cao vì thế cua xanh đẻ trứng quanh năm. Tuy vậy, chúng vẫn thể hiện
tính mùa vụ rất rõ nét, mùa vụ sinh sản chính tập trung từ tháng 2 đến tháng 3 và
từ tháng 7 đến tháng 8 trong năm. Theo kết quả nghiên cứu của G.S. Hoàng Đức
Đạt thì ở vùng biển phía Nam Việt Nam cua xanh bắt đầu di cư vào tháng 7 - 8
và mùa sinh sản chính bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Nhìn chung mùa
vụ sinh sản chính chi phối bởi yếu tố nhiệt độ, vì vậy có thể nói ở những vùng
địa lý khác nhau thì mùa vụ sinh sản chính xuất hiện theo thời gian khác nhau
trong năm [6], [11].
1.1.6.2. Kích thước thành thục và sức sinh sản
Theo nghiên cứu thì toàn bộ cá thể loài S. Paramamosain có CW ≥ 10cm
(chiều rộng giáp đầu ngực) tương ứng với trọng lượng trung bình toàn thân Wtb
≥ 267g đều thành thục và có khả năng tham gia sinh sản. Tuy nhiên kích thước
thành thục thay đổi theo loài và trong cùng một loài thay đổi do ảnh hưởng của
các điều kiện khí hậu theo từng vùng địa lý. Cua cái S. Serrata thành thục lần
đầu tiên khoảng 12cm và CW đạt tối đa là 24cm, trong khi đó loài S.
Paramamosain lột xác thành thục ở cỡ 8 -9 cm và có thể đạt CW tối đa là 14 –
15cm [11]. Cua biển (S.paramosain) ở khu vực miền Trung Việt Nam có kích
thước thành thục CW ≥ 10cm. So sánh với kích thước thành thục của cua xanh ở
một số nước, chúng ta thấy kích thước thành thục cua xanh ở khu vực miền trung
Việt Nam ở mức độ trung bình.




9

Bảng 1.1: Kích thước thành thục tối thiểu của loài cua xanh ở một số vùng địa lý
Quốc gia CW (cm) Vĩ độ Tác giả
Malaysia
Papua New Guinea

Philippine
Thái Lan
Việt Nam
India
South Africa
9,2
9,0
8,5
9,3
10,0
9,7
13,7
5
o
N
6
o
S
8
o
N
12
o
N
22
o
N – 8
o
S
13

o
N
24
o
S
Ong (1996)
Norman J.Kojis (1987)
Escitor (1970)
Varikul et al. (1972)
Thạch N.C
Raja Bai naidu (1955)
Hill (1975)

Nghiên cứu về mối tương quan giữa kích thước cơ thể và sức sinh sản cho thấy
chúng có sự tương quan tỷ lệ thuận. Nhóm có kích thước CW = 10 – 11cm có sức sinh
sản thực tế khoảng 1.200.000 trứng/lần đẻ, trong khi đó nhóm có kích thước CW =
12.1 – 13cm thì sức sinh sản thực tế khoảng 1.800.000 trứng/một lần đẻ [3].
1.1.6.3. Động dục và giao phối
Trước lúc lột xác khoảng 2 - 10 ngày cua đực và cua cái sẽ ghép đôi với nhau.
Cua đực dùng chân bò và càng ôm chặt lấy cua cái trên mặt bụng. Đến khi con cái sắp
lột xác, con đực mới rời con cái ra nhưng vẫn ở bên cạnh, con cái vừa lột xác xong con
đực liền ôm con cái, cua đực và cái áp sát mặt bụng vào nhau và cua đực gỡ yếm con
cái ra để giao túi tinh vào túi nhận tinh của con cái. Thời gian giao phối có thể kéo dài
từ 5 giờ đến cả ngày. Kết thúc quá trình giao phối con đực buông cua cái ra nhưng vẫn
đi cạnh để bảo vệ cua cái. Túi tinh được giữ ở bộ phận nhận tinh của cua cái suốt mùa
sinh sản. Trong mùa sinh sản, một cua cái có thể đẻ trứng 1 - 3 lần và thụ tinh nhờ tinh
trùng nhận được vào đầu mùa sinh sản [6],[13].
Ngược lại với cua cái con đực khi lột xác thì cua cái sẽ ăn thịt do vậy trong tự
nhiên khi đến mùa sinh sản thường bắt gặp cua cái nhiều hơn cua đực.
1.1.6.4. Sự đẻ trứng, thụ tinh và phát triển cua phôi

Cua cái sau khi nhận túi tinh, tế bào trứng tiếp tục sinh trưởng khi chín muồi
tuyến sinh dục, bắt đầu đẻ trứng và thụ tinh. Khi đẻ trứng cua cái nằm ở đáy, trứng đẻ


10
ra được chứa trong phần bụng con cái, trứng có 2 lớp màng: Màng ngoài hút nước
trương lên, giữa 2 lớp màng có niêm dịch, nhờ cử động của phần bụng, trứng bám trên
lông tơ của chân bụng, kéo dài ra thành “cuống trứng”, làm cho trứng tuy dính vào
lông tơ của chân bụng nhưng vẫn “tự do” mà trứng không dính lại với nhau [5],[13].
Số lượng trứng của cua cái đẻ rất lớn, một con cái có trọng lượng 300 gram có
thể đẻ và mang trên 1 triệu trứng. Trứng được cua mẹ ôm và ấp cho đến lúc thành ấu
trùng Zoea. Trứng mới đẻ ra có màu vàng tươi, sau khi đẻ 1 giờ tất cả trứng được thụ
tinh sẽ bắt đầu phân cắt. Ở điều kiện nhiệt độ nước 28 – 30
o
C, độ mặn 28 – 33 ppt, pH
từ 7 – 8,5 thì quá trình phát triển diễn ra bình thường. Sự phân cắt diễn ra như sau:
Sự phân cắt và phôi vị hoá đều xảy ra trong 5 ngày đầu, khi trứng ngã sang màu
xám thì bắt đầu xuất hiện mầm chân mắt. Lúc đầu mắt có dạng mảnh dài, màu sáng,
đối xứng hai bên, xung quanh xuất hiện các đốm hình sao và cuối cùng hình thành đôi
mắt kép màu đen [7],[8].
Ấu trùng phá màng vỏ chui ra ngoài bước vào thời kỳ ấu trùng Zoea, gặp điều
kiện thuận lợi cua ấp trứng tốt, phôi phát triển đồng đều ấu trùng nở ra đồng loạt và
thường từ 3 - 6 giờ ấu trùng nở xong thì kết thúc quá trình sinh sản.
Bảng 1.2 : Tóm tắt quá trình phát triển phôi cua biển [1],[3]
Quá trình phát triển Màu sắc – kích thước
Sau 1 giờ trứng bắt đầu phân cắt Vàng da cam (270µm )
Quá trình phôi vị sau 5 – 7 ngày Vàng xám (320µm)
Xuất hiện điểm mắt sau 7 ngày Xám vàng nâu (390µm)
Xuất hiện nhịp tim sau 10 ngày Xám đen (480µm)
Xuất hiện đày đủ các phần phụ, nhịp tim

đập nhanh, mạnh đến khi vỏ trứng nở ra
xuất hiện ấu trùng sau 13 – 14 ngày (kể từ
khi đẻ)
Đen
1.1.6.5. Phát triển của các giai đoạn ấu trùng
Ấu trùng khi mới nở ra khỏi cua mẹ thì bước ngay vào thời kỳ ấu trùng Zoea.
Các giai đoạn ấu trùng cua biển (Scylla sp) có thể phân biệt bằng những đặc điểm cơ
bản sau [2].


11
Bảng 1.3 : các giai đoạn ấu trùng cua biển

Giai đoạn Thời gian
sau khi
nở (ngày)
Kích cỡ
(mm)
Đặc điểm phân biệt quan trọng
Zoea 1 0 – 3 1,65 Mắt chưa có cuống, chân hàm I và II đều mang
4 lông tơ trên nhánh ngoài, có 5 đốt bụng.
Zoea 2 3 – 6 2,18 Mắt có cuống, nhánh ngoài của chân hàm I và
II mang 6 lông tơ, có 5 đốt bụng.
Zoea 3 6 – 8 2,70 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 8 lông tơ,
chân hàm II mang 9 lông tơ, có 6 đốt bụng, gai
bên của đốt bụng 3 - 5 dài hơn.
Zoea 4 8 – 11 3,54 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 10 lông tơ,
chân hàm II mang 10 lông dài, 1 - 2 lông ngắn,
mầm chân bụng xuất hiện trên các đốt bụng 2 - 6.
Zoea 5 10 – 16 4,50 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 11 lông dài,

1 - 4 lông ngắn, nhánh ngoài của chân hàm II
mang 12 lông dài và 2 - 3 lông ngắn, chân bụng
trên đốt bụng 2 - 6 rất phát triển, nhánh ngoài
của chân bụng có thể mang 1 - 2 lông tơ.
Megalop 15 – 23 4,01 Mất gai lưng, gai trán rất ngắn, mắt to Telson
không còn chẻ 2 mà dạng bầu dục và có nhiều
lông trên chân đuôi, chân bụng rất phát triển và
có nhiều lông trên các nhánh, ấu trùng mang 2 càng.
Cua con
(Cua 1)
23 – 30 2-3 CW Cua có hình dạng như cua trưởng thành mặc dù
carapace hơi tròn.


12
1.2. Hiện trạng nghề sản xuất giống cua xanh
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cua biển là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao ở nhiều nước trên thế
giới. Vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng này.
Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn của ấu trùng cua. Ấu trùng
cua sau khi nở là Zoea 1, trải qua 4 lần lột xác trở thành Zoea 5, trong khoảng 17 -
20 ngày. Zoea 5 biến thái thành Megalop và giai đoạn này kéo dài 8 - 11 ngày, sau
đó ấu trùng trở thành cua con. Cua con trải qua 16 - 18 lần lột xác nữa trước khi
thành thục, thời gian này ít nhất khoảng 338 - 523 ngày, nhìn chung chu kỳ sống
của cua được chia làm 4 giai đoạn chính: Giai đoạn ấu trùng, cua con, tiền trưởng
thành và trưởng thành. Trong quá trình phát triển cùng với sự lột xác các loài cua
nói chung có khả năng tái sinh những phần đã bị mất của cơ thể [2].
Năm 1983, Heasman, MP & Fielder, D.R đã thử nghiệm cho cua đẻ ở phòng
thí nghiệm và nuôi đại trà cua biển từ giai đoạn zoea đến cua bột. Kết quả nghiên
cứu cho thấy: Cần duy trì chất lượng nước bằng hệ thống lọc nước tuần hoàn, với

các điều kiện môi trường, nhiệt độ nước 27
o
C, độ mặn 28 – 32‰, mật độ thức ăn
nauplius Artemia 5 – 30 con/L được coi là điều kiện thích hợp cho quá trình ương
nuôi ấu trùng. Với điều kiện này tỷ lệ sống đạt 1 – 4% [12].
Trong suốt quá trình thành thục, cua di cư ra ngoài cửa biển. Qua phân tích tỉ
lệ giới tính của cua ở vùng nước lợ và nước ngọt, Prasad (1987) thấy rằng tỉ lệ phần
trăm con đực và con cái tương đương nhau ở hai vùng nước. Theo Ong cũng nêu
lên rằng, tỉ lệ con cái, đặc biệt là con cái trưởng thành giảm đáng kể ở vùng nước lợ
tại thời điểm đỉnh cao của mùa sinh sản và tăng lên trong các quần thể cua ở nước
mặn và cua có trứng chỉ tìm thấy ở vùng biển của Ấn Độ .
Nghiên cứu ảnh hưởng các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn lên tỷ lệ
sống và phát triển của ấu trùng một số giống loài cua được nhiều tác giả nghiên cứu
ở những môi trường khác nhau và đã được báo cáo. Chandran (1968) và Prasad


13
(1989) giả thuyết rằng độ mặn, nhiệt độ và khả năng cung cấp thức ăn là những
nhân tố quan trọng kích thích cơ thể đẻ trứng [8].
Nghiên cứu của Prasad (1989) chỉ ra độ mặn và nhiệt độ không cao cũng
không thấp vào mùa sinh sản rộ là điều kiện rất lý tưởng cho quá trình ấp trứng và
phát triển của ấu trùng [8].
Trong thí nghiệm đánh giá về ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn đến ấu
trùng Zoea đầu tiên, Hill (1974) thấy rằng ấu trùng Zoea sống trong điều kiện nhiệt
độ 25
o
C hoặc độ mặn dưới 17,5 ppt bị tử vong đáng kể và ông cho rằng ấu trùng
Zoea không thích hợp với điều kiện môi trường vùng cửa sông. Cũng theo ông, ấu
trùng có thể chịu đựng được nhiệt độ dưới 15
o

C, nhưng chúng sẽ trở nên bất động ở
dưới 10
o
C. Ông còn cho rằng cua cái sẽ không di cư ra vùng biển có nhiệt độ dưới
12
o
C để đẻ trứng. Tuy nhiên, Heasman và ctv (1983) lại nhận thấy tần số bắt mồi
của ấu trùng cua tăng lên khi nhiệt độ tăng trên khoảng 20 – 27
o
C và chậm lại khi
nhiệt độ thấp dưới 20
o
C. Một số thí nghiệm khác cũng cho thấy ương ấu trùng cua
đạt kết quả tốt hơn ở nhiệt độ 27 – 30
o
C và độ mặn khoảng 35 ppt so với các điều
kiện nhiệt độ và độ mặn khác (Marichamy và Rajackiam, 1991) [6].
Ong (1964) nhận thấy rằng giai đoạn Megalop lớn nhanh hơn khi độ mặn giảm
xuống còn 21 - 27 ppt và chúng có khuynh hướng di chuyển vào vùng nước lợ.
Mặc dù kỹ thuật sinh sản nhân tạo cua biển luôn được cải tiến nhằm hoàn
thiện nhưng đến nay kết quả vẫn chưa được như mong muốn, còn gặp nhiều trở
ngại, tỷ lệ sống ấu trùng còn thấp và không ổn định.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam có nguồn lợi cua biển rất phong phú, điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho nghề nuôi cua biển phát triển. Vì vậy ở nước ta có rất nhiều tác giả nghiên cứu
về đối tượng này.
Nghiên cứu của Hải (1997) khi nuôi vỗ cua cắt mắt trong bể 1m
3
, cua có thể
đẻ trong vòng 5 ngày sau khi cắt mắt và thả nuôi. Tuy nhiên, cũng có trường hợp

kéo dài đến 111 ngày mới đẻ và một số con không đẻ. Cua đẻ trứng không luôn


14
luôn xảy ra vào những ngày trăng kém hay trăng rằm mà bất kỳ ngày nào trong
tháng. Cua thường đẻ trứng vào ban đêm, song cũng có lúc đẻ trứng vào buổi sáng
hay chiều. Cua cái tham gia đẻ trứng thường có kích cỡ 200 - 300 gram, cua có thể
đẻ lại sau 20 - 30 ngày.
Để giải quyết vấn đề con giống, Bộ Khoa học & Công nghệ và Bộ Thủy sản
(nay là Bộ Nông nghiệp và PTNT) đã quan tâm, giao nhiệm vụ cho các Viện
Nghiên cứu triển khai thực hiện từ những năm 1980, nhưng tại thời điểm đó các tác
giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về định loài và nghiên cứu đặc điểm sinh học làm
cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo sau này. Trong những năm đầu của thập kỷ
chín mươi, các tác giả như Hoàng Đức Đạt, Đoàn Văn Đẩu, Nguyễn Cơ Thạch
nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và sản xuất giống, với mong muốn tìm ra
quy trình sản xuất giống nhân tạo, kết quả đạt được vẫn còn hạn chế.
Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản III) thực hiện đề tài “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và xây dựng quy trình
kỹ thuật sản xuất giống cua xanh loài Scylla paramamosain”. Qua 3 năm thực hiện,
đến cuối năm 2000, Nguyễn Cơ Thạch và cộng tác viên đã nghiên cứu sản xuất
giống thành công, viết báo cáo khoa học và đề tài đã được nghiệm thu [10].
Viện Nghiên cứu NTTS III (2004) bắt đầu chuyển giao công nghệ sản xuất
giống cua xanh nhân tạo cho một số Trung tâm Khuyến ngư, Trung tâm Giống các
tỉnh: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Bến Tre, Phú Yên, Sóc
Trăng, Bình Định và Quảng Bình. Tuy nhiên do tỉ lệ sống các giai đoạn ấu trùng từ
giai đoạn Zoea 1 đến cua bột 1 đạt khoảng 5%, lượng cua giống nhân tạo được sản
xuất ra còn ít, chưa trở thành hàng hoá phục vụ cho nuôi cua thương phẩm.
Năm 2006 – 2007, Viện Nghên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III đã thực hiện
dự án chuyển giao công nghệ sản xuất giống cua biển loài scylla paramamosain cho
Trung tâm Khuyến ngư của 2 tỉnh là Bà Rịa – Vũng Tàu và Thái Bình, do Nguyễn

Diễu làm chủ nhiệm dự án. Kết quả đạt được qua các đợt sản xuất tại hai tỉnh với tỷ
lệ sống từ 13 – 15% [4].



15
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2. 1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu:
Từ ngày 22/2/2012 đến ngày 5/5/2012
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:
Khu sản xuất giống thủy sản Bình Kiến – Tp. Tuy Hòa thuộc Sở Nông nghiệp
và PTNT tỉnh Phú Yên.
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Cua xanh, loài Scylla paramamosain Estampador, 1949
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
















16




















Hình 2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu


Tìm hiểu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo
Cua Xanh (Scylla paramamosain Estampador, 1949)

Tìm hiểu

điều kiện
tự nhiên và
hệ thống
công trình
phục vụ
Kỹ thuật
cho sinh
sản nhân
tạo cua
xanh
Kết luận và đề xuất ý kiến
Kỹ thuật
ương ấu
trùng lên
cua bột
Kỹ
thuật
ương
từ Z1
đến Z5
Kỹ thuật
ương từ
Z5 đến
cua bột
Kỹ
thuật ấp
trứng và
thu ấu
trùng
Kỹ

thuật
nuôi vỗ
và cho
đẻ
Kỹ
thuật
tuyển
chọn
cua mẹ
Hệ thống
công
trình
phục vụ
sản xuất
Điều
kiện tự
nhiên
tỉnh Phú
Yên


17
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
a. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập số liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, đặc điểm sinh học, sinh sản, dinh
dưỡng, tình hình sản xuất giống thông qua các tài liệu, sách báo, tạp chí, luận văn
của các khóa trước, kết quả nghiên cứu và báo cáo của các cơ quan chức năng.
b. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Điều tra phỏng vấn qua cán bộ kỹ thuật tại cơ sở và trực tiếp tham gia sản xuất thu
thập số liệu về các nội dung sau:

 Xác định các yếu tố môi trường: Hàng ngày theo dõi các yếu tố môi trường
trong bể ương 2 lần, vào lúc 6 giờ và 14 giờ.
Bảng 2.1: Dụng cụ đo yếu tố môi trường và chỉ tiêu trong sản xuất
STT Yếu tố cần đo Dụng cụ Sai số
1 pH Test pH 0.1
2 Nhiệt độ Nhiệt kế 1
o
C
3 Độ mặn Tỷ trọng kế 1ppt
4 Kích thước bể Đo bằng thước dây 1 cm
5 Trọng lượng cua mẹ Cân bằng cân đĩa
6 Kích thước cua mẹ Đo bằng thước dây 1cm

 Phương pháp định lượng ấu trùng
Ấu trùng Zoea1 lúc mới nở: Sau khi ấu trùng zoae vừa mới nở ta thu toàn bộ
ấu trùng vào thùng nhựa, dùng ống đong 100 mL lấy đầy mẫu nước có ấu trùng vào
ống đong. Đếm số lượng ấu trùng trong ống đong, làm như vậy 3 lần và lấy số trung
bình của 3 lần đếm. Biết được thể tích nước chứa ấu trùng trong thùng nhựa suy ra
số ấu trùng thu được.
Ấu trùng ở giai đoạn sống trôi nổi: Dùng cốc đong 1L nước và lấy 4 điểm
trong bể ương ấu trùng sau đó cho vào xô rồi đếm số lượng ấu trùng trong xô.


18
 Cách tính tỷ lệ thụ tinh
Lấy 100 trứng ở những điểm khác nhau trên buồng trứng. Sau đó đếm số lượng
trứng thụ tinh và không thụ tinh.
c. Một số công thức tính toán các thông số kỹ thuật
- Tỷ lệ thụ tinh :
TLTT = a/b * 100%

TLTT : tỷ lệ thụ tinh
a: số trứng phân cắt trong mẫu kiểm tra
b: tổng số trứng kiểm tra
- Tỷ lệ sống của ấu trùng:
TLS = x/y * 100 %
TLS: tỷ lệ sống
X: tổng số ấu trùng giai đoạn sau
Y: tổng số ấu trùng giai đoạn trước
- Thời gian biến thái ấu trùng :
T = T1 – T2
T: Thời gian biến thái
T1: Thời điểm xuất hiện đắc điểm ấu trùng giai đoạn trước
T2: Thời điểm xuất hiện đặc điểm ấu trùng giai đoạn sau
- Mật độ ương nuôi ấu trùng:
MĐ = X/Y
MĐ: Mật độ ương
X : Tổng số ấu trùng trong bể


19
Y : Thể tích bể
- Tính số lượng ấu trùng có trong bể
A = a x V
Trong đó:
A: là số lượng ấu trùng trong bể
a: là số lượng ấu trùng trong 1 L nước
V: là thể tích nước bể (L)
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu dựa vào phần mềm Excel để tính các giá trị trung bình (Mean =
Average), độ lệch chuẩn (SD = STDEV), làm tròn (= Round).
















20
PHẦN 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên và hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống
3.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Phú Yên
a. Vị trí địa lý
Phú Yên là một tỉnh duyên hải miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía
Nam giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Tây giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Gia Lai, phía Đông
giáp biển Đông. Phú Yên có lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, cần cù lao động, có
học vấn khá và được đào tạo tốt.
Phú Yên có đường quốc lộ 1A và quốc lộ 25 đi qua. Thị xã Tuy Hoà nằm cách
Thủ đô Hà Nội 1.160 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 561 km, cách khu du lịch quốc
tế Văn Phong (Khánh Hoà) 40 km. Từ các thành phố của Việt Nam có thể đến Phú
Yên thuận tiện bằng đường sắt, đường bộ, đường hàng không và đường biển [14].
b. Đặc điểm địa hình
Địa hình tỉnh thấp dần từ Tây sang Đông với những dạng địa hình núi, đồi xen

kẽ đồng bằng. Vùng trung du có những cao nguyên rộng, tương đối bằng phẳng ở
huyện sông Hinh, Sơn Hoà rất thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp,
chăn nuôi đại gia súc.
Bờ biển dài 189km, vùng ven bờ biển có nhiều thuỷ vực, tồn tại hệ sinh thái
ven bờ khá đặc trưng, với nhiều vũng, vịnh, ngư trường rộng, nằm trong vùng biển
đa dạng về hải sản, với khoảng 500 loài cá, 38 loài tôm, 15 loài mực và các loài hải
sản khác như sò, điệp Tổng trữ lượng cá khoảng 46.000 tấn, trữ lượng cho phép
khai thác khoảng 35.000 tấn/năm. Có nhiều đầm, vịnh lớn: Đầm Cù Mông, Ô Loan,
vịnh Xuân Đài, Vũng Rô, cửa sông Đà Rằng, Đà Nông diện tích mặt nước hơn
21.000 ha, cùng với hơn 2.000 ha đất ngập mặn ven biển, là môi trường thuận lợi
cho nuôi trồng thuỷ sản: tôm, sò huyết, cá mú Riêng diện tích thích hợp cho nuôi
tôm tập trung ở cửa Đà Nông và đầm Cù Mông lên đến 1.500 ha [14].
c. Khí hậu


21
Phú Yên thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu
đại dương. Thời tiết có 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ
tháng 9 đến tháng 12, tập trung từ 70 – 80% lượng mưa cả năm. Đây là khí hậu
thích hợp để phát triển nuôi trồng thủy sản.
Là một trong những vùng thường xuyên hứng chịu nhiều thiên tai, đặc biệt
là bão lụt. Nằm tiếp giáp biển chịu ảnh hưởng nhiều nhất của bão, áp thấp nhiệt
đới, triều cường xâm thực và chất thải ở thượng lưu đổ về nên nguồn nước có
khả năng nhiễm bẩn, nhiễm mặn cao, một số nơi có chất lượng xấu. Do đó, để
tiến hành nuôi hay sản xuất giống phải chọn vùng có chất lượng nước tốt [14].
3.1.2. Hệ thống công trình phục vụ sản xuất giống
3.1.2.1 Sơ đồ trại
Nhìn chung hệ thống công trình thuận lợi cho quá trình sản xuất. Các bể, trang thiết
bị được bố trí như sau (Hình 3.1).
3.1.2.2. Hệ thống công trình phụ trợ sản xuất giống

 Hệ thống lắng, lọc cơ học
- Bể lắng, lọc: Bể làm bằng xi măng dạng hình chữ nhật (2 bể), có thể tích 30 m
3
,
mặt trong trơn nhẵn, hơi dốc về lỗ thoát nước. Bể được xây dựng trong nhà.
- Vật liệu lọc cát thô, cát mịn, than hoạt tính, đá nhỏ (1x2cm), đá lớn (3x4cm),
giữa các vật liệu được ngăn bởi các lớp lưới và lớp vải. Bể lọc được xây dựng theo
phương pháp lọc ngược.
- Ngoài ra, trong trại sản xuất còn có các túi lọc bằng vải chuyên dùng có kích
thước 1 - 5µm để lọc lại nước trước khi sử dụng.
 Bể chứa nước





22














Hình 3.1: Sơ đồ trại sản xuất giống
Bể chứa: Nằm trong nhà, bể làm bằng xi măng, V = 5m
3
, kích thước (2.4x2.1x1m).
Đáy nghiêng về cống thoát nước, gồm 10 bể, bể chứa nước mặn đồng thời cũng là
bể ương ấu trùng giai đoạn Z1 – Z5.
 Thiết bị ấp trứng Artemia
Các xô nhựa có thể tích V = 20 L, gồm 3 xô. Khi ấu trùng bắt đầu chuyển cuối giai
đoạn Megalop ta phải ấp Artemia với số lượng lớn nên sử dụng xô có V = 50L, số
lượng 2 xô.
 Thiết bị nuôi tảo
Lúc đầu ta nuôi tảo trong các bình có thể tích (V = 10L), sau đó nuôi sinh khối
ta dùng xô nhựa có thể tích V = 160L.
Chú thích:
Bể ấp artemia
Xô nuôi tảo sinh khối
Bể lọc
Phòng dụng cụ
Bể ương z5 - Me
Hố ga
Bể ương z1 – z5

10
9
8
7
6
1
2
3

4
5


23
3.1.2.3. Hệ thống công trình sản xuất giống
 Bể nuôi vỗ cua mẹ
- Bể nuôi vỗ: Bể xi măng có kích thước (2,1x2x0,8m) gồm 3 bể,có thể tích 3 m
3
, 1/3
bể được đổ một lớp cát dày 10 – 15 cm làm bãi đẻ cho cua. Đáy bể hơi nghiêng về
cống xả, bể xây dựng trong nhà và có bạt đen che kín.
 Bể và xô nhựa nuôi cua mẹ ôm trứng
Cua mẹ ôm trứng được nuôi trong xô nhựa có thể tích V = 50L, số lượng 4 xô.
Ngoài ra khi trứng gần nở ta chuyển sang nuôi ở bể. Bể làm bằng xi măng, có thể
tích V = 1m
3
, xây dựng trong nhà và có bạt đen phủ kín.
 Bể cho cua mẹ đẻ
Bể làm bằng xi măng, dạng hình vuông, có thể tích 1m
3
, số lượng bể là 2 bể,
được bố trí trong nhà và có bạt đen phủ kín.
 Bể ương ấu trùng
Bể ương Z1 – Z5: sử dụng bể chứa nước mặn, mỗi bể chỉ dùng một viên đá sục khí
ở giữa. Mặt trong thành bể có màu xanh nhạt.
Bể ương Z5 – cua: Bể làm bằng xi măng, gồm 4 bể, V = 20m
3
/bể (kích thước
5x4x1m) được xây dựng trong nhà, đáy hơi nghiêng về cống thoát nước. Mỗi bể

được bố trí 8 vòi sục khí. Bể được bố trí trong nhà. Ngoài ra còn sử dụng bể có kích
thước (10x2x1m), gồm 2 bể. Hai bể này đặt ngoài trời có lưới lan che phía trên. Mỗi
bể dùng 10 vòi sục khí.
3.1.2.4. Các dụng cụ và thiết bị khác
Ngoài các trang thiết bị trên, trong trại còn dùng đến một số dụng cụ và các
trang thiết bị như:

×