Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

CÓ MỘT DIỄN ĐÀN PHÊ BÌNH MỸ THUẬT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.84 KB, 9 trang )


CÓ MỘT DIỄN ĐÀN PHÊ
BÌNH MỸ THUẬT

Đời sống mỹ thuật thời kỳ đất nước đổi mới cùng với nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế đã thực sự có một diễn đàn phê bình mỹ thuật? Chuyện
thực - hư, cao - thấp - yếu khỏe của diễn đàn phê bình mỹ thuật như thế n
ào?
cùng nhau nhìn lại - đối thoại?
Trước cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến chống Pháp có một vài họa
sĩ: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc và
nhà văn Nguyễn Tuân thi thoảng viết phê bình mỹ thuật. Phải đến khi đất
nước đổi mới mở cửa và hội nhập quốc tế thì phê bình mỹ thuật mới thực sự
là một phần cuộc sống hôm nay. Sáng tác và phê bình mỹ thuật luôn là một
“quan hệ song sinh”, là một cặp “bài trùng” cho dù có ai đó phủ nhận sáng
tác đã và đang đặt ra những vấn đề cho phê bình. Ngược lại phê bình đã và
đang đặt ra những vấn đề trong sáng tác. Tự thân phê bình đã và đang đặt ra
những vấn đề cho chính mình. Đó là hai mặt đối lập của một thực thể thống
nhất – nghệ thuật. Sự thống nhất chỉ là tương đối còn sự khác biệt là tuyệt
đối. Chính cái “độ vênh” ít hay nhiều là thước đo giá trị nghệ thuật và tài
năng nghệ thuật của mỗi người. Có điều chúng đã và đang tác động chuyển
hóa lẫn nhau thúc đẩy nghệ thuật tiến tới, chiếm lĩnh cái đẹp đích thực của
nghệ thuật. Bởi lẽ nghệ thuật luôn như một quan niệm của lịch sử dân tộc
thời đại và mỗi người.
Một khi các triển lãm cá nhân, nhóm tác giả diễn ra liên tục trong và ngoài
nước. Một khi nhu cầu treo tranh đặt tượng làm trang trí nội ngoại thất đã và
đang đặt ra ở các đô thị lớn ngày một nhiều. Một khi thị trường tranh với
nhiều nhiễu nhương đẹp xấu thật giả lẫn lộn, một khi đường biên nghệ thuật
được mở rộng, cực rộng từ cực nọ hiện thực đến cực kia phi hiện thực.
Không thể không có phê bình mỹ thuật, diễn đàn phê bình mỹ thuật nổi lên
từ thực tiễn sáng tác phê bình hưởng thụ mỹ thuật được coi như một hiện


tượng chưa từng thấy trong lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam.
Theo tôi bản chất của phê bình nghệ thuật là nghệ thuật đối thoại, một khi là
nghệ thuật đối thoại đòi hỏi nói sao cho l
ọt lỗ tai, viết sao có sức thuyết phục
cả lý luận lẫn thực tiễn.
Có điều cần xác định phê bình nghệ thuật thuộc toàn xã h
ội. Có nhiều góc độ
khác nhau về khen chê thích hay không thích, đẹp hay xấu. Nói chung đánh
giá thẩm định một tác phẩm một tác giả, một khuynh hướng nghệ thuật có
nhiều góc độ khác nhau: Công chúng yêu mỹ thuật, nhà lãnh đạo, chỉ đạo
quản lý nghệ thuật, nhà báo, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà phê bình mỹ thuật.
Mỗi cấp độ và hình thức phê bình đều có giá trị vốn có của nó, không cái
nào có thể thay thế cái nào. Tất cả tạo nên một dư luận nghệ thuật đa chiều.
Một môi trường nghệ thuật tốt nếu không muốn nói là lý tưởng để các họa
sĩ, nhà điêu khắc, nhà phê bình, nhà báo, công chúng yêu mỹ thuật và cả
những nhà lãnh đạo quản lý văn hóa nghệ thuật tự điều chỉnh mình. Không
ai ép được ai trong sáng tạo và hưởng thụ mỹ thuật. Chính dư luận nghệ
thuật đa chiều khen chê có nhiều góc độ và hình thức phê bình s
ẽ giúp chúng
ta tiếp cận chân lý và cái đẹp đích thực trong nghệ thuật. Tất nhiên công việ
c
khó khăn phức tạp này thuộc trách nhiệm các nhà phê bình chuyên nghiệp.
Có điều chúng ta đã có một đội ngũ những người làm phê bình chuyên
nghiệp chưa? mặc dù chúng ta đã có hơn 30 hội vi
ên chuyên ngành phê bình
mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam. Riêng tôi cũng muốn “sinh ư nghệ tử
ư nghệ” lắm. Chỉ xin tâm sự đôi điều về mình, về cái nghề cầm bút viết về
mỹ thuật. Tính từ năm 1990 đã 4 lần liên tục viết kịch bản và lời bình
chương trình truyền hình, triển lãm mỹ thuật toàn quốc và cũng ngần ấy lần
liên tục viết lời bình, chương trình truyền hình về đề tài Lực lượng vũ trang

Chiến tranh cách mạng. Còn viết lời giới thiệu cho các vựng tập, các triển
lãm ngót 100 tác giả thuộc nhiều thế hệ. Không ít người là các tác giả giải
thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước và Văn học nghệ thuật, và đặc
biệt là 3 thế hệ họa sĩ trẻ trưởng thành trong đổi mới đất nước. Cũng như vài
đồng nghiệp được các thế hệ tác giả, các cơ quan tổ chức triển lãm hội thảo
báo chí tin dùng. Song tôi vẫn chưa hội đủ điều kiện là một nhà phê bình
chuyên nghiệp. Bởi một lẽ không sống được bằng nghề viết mà sống bằng
đồng lương giảng dạy nay là đồng lương hưu còm. Mỹ thuật là nghệ thuật
thị giác lấy đâu ra tiền để đi đây đi đó được xem trực tiếp tác phẩm của các
tác giả trên khắp mọi miền của đất nước. Chưa nói đ
ến các tác phẩm của các
danh họa trong các bảo tàng mỹ thuật lớn trên thế giới. Nhiều khi cảm thấy
các nhà phê bình mỹ thuật chúng tôi như “ếch ngồi đáy giếng”. Khó thay,
lực bất tòng tâm. Không ai dám nhận mình là nhà phê bình mỹ thuật chuyên
nghiệp. Buồn thay, nỗi buồn này chẳng của riêng ai.
Song dù muốn hay không trong hơn 20 năm đất nư
ớc đổi mới hội nhập quốc
tế. Giới phê bình mỹ thuật đúng hơn, cụ thể hơn, một số nhà phê bình mỹ
thuật đã góp phần không nhỏ dấy lên cao trào phê bình m
ỹ thuật. Tôi xin dẫn
một vài vụ không chỉ diễn ra trong các hội thảo khoa học mà rộng hơn còn
được trao đổi trên các phương tiện thông tin đại chúng và đã nhận được sự
hưởng ứng của các họa sĩ, nhà báo, nhà phê bình mỹ thuật:
Nghệ thuật trừu tượng và tranh trừu tượng ở Việt Nam
Một diễn đàn trên Tạp chí Mỹ thuật và được các phương tiện thông tin đại
chúng hưởng ứng
Năm 1992 có hẳn một triển lãm tranh trừu tượng ở Thành ph
ố Hồ Chí Minh.
Tiếp theo trong các triển lãm cá nhân, nhóm tác giả trẻ thường công bố tác
phẩm trừu tượng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với tuyên ngôn tô

đậm nét cho “nghệ thuật đương đại”. Coi đó mới là nghệ thuật thời thượng.
Sau đó nhà phê bình Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng và họa sĩ Lương
Xuân Đoàn một người viết và nói nhiều về mỹ thuật trên các phương tiện
thông tin đại chúng lên truyền hình cổ xúy cho nghệ thuật trừu tượng, tranh
trừu tượng, nào là “khi xu thế của hội họa trừu tượng châu Âu tràn vào các
xưởng vẽ, các gallery, các triển lãm của nhiều thế hệ họa sĩ nước ta” chắc
không phải tràn trề như thế, có chăng chỉ là vài chục họa sĩ nhất là họa sĩ trẻ
trên hàng nghìn họa sĩ của chúng ta, còn khẳng định “không phải cứ nghệ
thuật hiện thực mới là tài sản quý của nền văn hóa dân tộc” mới nguy to.
Đích thực là một tài sản quý của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Còn họa sĩ
Đào Minh Tri lại khẳng định “nghệ thuật trừu tượng chính là sản phẩm gốc
phương Đông, phương Tây học được và phát triển. Lâu nay vẽ trừu tư
ợng lại
cứ bảo là Tây. Xét cho cùng đó là óc nô lệ”. Không biết ai nô lệ đây. Đó là
những nhận định phiến diện, một sự nhầm lẫn hai khái niệm tư duy trừu
tượng với nghệ thuật trừu tượng. Tư duy trừu tượng thì xu hướng nghệ thuật
nào cũng phải tuân theo con đường nhận thức “từ trực quan sinh động đến t
ư
duy trừu tượng”. Đối chiếu với định nghĩa kinh điển về chủ nghĩa trừu tư
ợng
“ Là nghệ thuật không chứa đựng một lời nhắc nhở gì. Một phản ánh gì về
cái hiện thực được quan sát”. Có nghĩa là từ bỏ mọi liên hệ với tự nhiên,
ngay cả với con người với tư cách là một sinh thể xã hội cũng như những
phương tiện nghệ thuật được sử dụng. Còn nói lấy được “triển lãm trừu
tượng và tranh trừu tượng là mốt isme, là một phương tiện diễn đạt tốt nhất,
trực tiếp nhất, trung thực nhất”. Với Việt Nam chúng ta chắc không phải là
thế. Lúc đầu một số họa sĩ trẻ ở hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đua
nhau vẽ trừu tượng. Sau một thời gian thấy đó không phải là cái tạng nghệ
thuật của mình đành bỏ cuộc chơi tưởng đó là nghệ thuật thời thượng. Còn
lại một số vẫn kiên trì theo đuổi. Có điều sau 20 năm vẫn chưa tạo được cho

mình một phong cách nghệ thuật trừu tượng riêng, giàu b
ản sắc dân tộc. Khó
thay cái gọi là một phương tiện diễn đạt tốt nhất, trung thực nhất, kết thúc
như thế nào cả giới mỹ thuật đều biết. Có chăng các yếu tố tạo hình của chủ
nghĩa trừu tượng nếu biết tiếp thu có chọn lọc như nhịp điệu về màu, về h
ình
sẽ làm phong phú hình thức nghệ thuật của chúng ta mà thôi. ở ta isme trừu
tượng chưa có đất dụng võ. Tôi xin mượn lời của danh họa Nguyễn Gia Trí
“Tôi đã qua gần cả đời hiện thực mới dám mon men tới trừu tượng” chớ có
to gan mà ngộ nhận không nên lấy nghệ thuật trừu tượng, nghệ thuật thuần
túy làm cứu cánh cho việc giải tỏa những bi kịch cá nhân của người họa sĩ,
sống quoay cuồng giữa cơn lốc của xã hội tư bản hiện đại. Suy cho cùng có
thể hiểu được, có thể thông cảm được với danh họa vẽ trừu tượng. Song
không thể coi đó là giải pháp chung cho mọi người ở bất cứ nơi đâu và bất
kể thời điểm lịch sử nào mà không tính đ
ến những khác biệt về thể chế chính
trị, về truyền thống văn hóa và thực tiễn xã hội. Hỡi mấy vị ngộ nhận mình
đang dương cao ngọn cờ của “chủ nghĩa tiền phong” thông qua con đường
nghệ thuật trừu tượng. Không nên, không được phép độc tôn một xu hướng
nghệ thuật nào nếu không muốn đời sống mỹ thuật của chúng ta nghèo nàn.
Nghệ thuật hội họa Việt Nam đang suy thoái
Từ một bài viết của nhà phê bình, họa sĩ Phan Cẩm Thượng được báo Lao
động mở diễn đàn trao đổi rộng rãi đã nhận được sự hưởng ứng của các nhà
phê bình, họa sĩ: Vũ Giáng Hương, Lê Anh Vân, Trần Lưu H
ậu, Đặng XUân
Hòa, Nguyễn Trung, Đỗ Hoàng Tường, Thành Chương, Hà Trí Hiếu, Đỗ
Dũng, Hoàng Hồng Cẩm và các nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, Lê
Quốc Bảo, Dương Tường ,mỗi người một quan niệm, một cách tiếp cận
vấn đề như họa sĩ Vũ Giáng Hương: “Nhận định hội họa Việt Nam
đang suy

thoái là một nhận định phiến diện và thiếu cái nhìn khách quan”,; Họa sĩ
Trần Lưu Hậu “nhìn bằng con mắt của nhà xã hội học thì quả là h
ội họa Việt
Nam đang ở vào một thời kỳ thăng hoa thuận lợi nhất so với các ngành nghệ
thuật khác. Các họa sĩ thỏa sức làm việc và tự chịu trách nhiệm với chính
mình. Họ có thể tự tin trình bày tác phẩm của mình trước công chúng trong
và ngoài nước Không phải hội họa chúng ta đang suy thoái mà theo tôi h
ội
họa Việt Nam đang tìm hướng đi đúng đắn”. Còn nhà phê bình Nguyễn
Quân viết: “Mỹ thuật Việt Nam 100 năm qua đã lẽo đẽo đi theo phương Tây
rất xa, nay đủ trưởng thành để nhìn vào chính mình”. Đúng “nay đủ trưởng
thành để nhìn vào chính mình”, còn nh
ận định “mỹ thuật Việt Nam 100 năm
qua lẽo đẽo theo phương Tây rất xa” thì sao. Nếu quả thật là như vậy chắc
chúng ta không thể tôn vinh 18 tác giả giải thưởng Hồ Chí Minh và 51 tác
giả được giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Đó là một trang sử
mỹ thuật đẹp trong lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Không được phép
phủ nhận lịch sử như thế.
Chưa hết Dương Tường còn coi “Nguyễn Quân là người mở đường cho thế
hệ trẻ” được biết chính thế hệ trẻ cùng thời với người mở đường đã t
ạo sự về
việc tự ngộ nhận mình, tự coi mình là người mở đường cho thế hệ trẻ hôm
nay. Không tin cứ hỏi những người trong cuộc và các họa sĩ trẻ. Sự ngộ
nhận suy tôn lẫn nhau đến thế là cùng. Các cụ ta đã dạy “hữu xạ tự nhiên
hương”. Nhà phê bình mỹ thuật Dương Tường có một kiểu lăng xê không
giống ai: “Những họa sĩ tài năng nhất Việt Nam” “một thế hệ không mặc
cảm” có điều, sống trong thời kỳ đất nước đổi mới, phát triển và hội nhập
quốc tế, việc gì mà phải mặc cảm?! làm nhiều ngư
ời không khỏi nghi ngờ họ
là ai thì cả giới mỹ thuật đều biết. Có điều trong lời tự bạch của một họa sĩ

trẻ do Mai gallery giới thiệu đã đưa ra một quan niệm “nghệ thuật là sự chối
từ” và “cái mà người ta gọi là c
ảm xúc không có mặt”. Buồn thay nghệ thuật
không hiện diện cảm xúc và chối từ thì còn gì là nghệ thuật. Phải chăng đó
là chuẩn mực của cái mới, là nghệ thuật tiền phong ư? Là không mặc cảm
ư?. Vậy nên đánh giá như thế nào về đồng nghiệp trẻ của mình nói chung,
họa sĩ Lê Anh Vân: “Phải công nhận rằng trong nhiều triển lãm mỹ thuật,
gallery không ít tác phẩm vội vàng vô nghĩa dễ dãi, nghèo nàn, tẻ nhạt . Còn
tôi thì cho rằng “hội họa Việt Nam không suy thoái đã tạo dựng được cái
nền rộng, song chưa có đỉnh” âu cũng là một phần hiện trạng sáng tác phê
bình mỹ thuật thời mở cửa, một phần của đời sống mỹ thuật hôm nay.
Còn biết bao vấn đề nổi cộm được một số nhà phê bình, họa sĩ đề cập và
được trao đổi rộng rãi trên các phương tiện đại chúng. Nào là “tranh giá vẽ
là lỗi thời”; “tranh đề tài là tranh cúng cụ” “nghệ thuật sắp đặt trình diễn
video mới là đương đại” ư “quan niệm về mỹ thuật đương đại” “điêu khắc
ngoài trời nhất là tượng đài còn nhiều ẩn số” mà tôi đã trình bày quan đi
ểm
của mình trên các bài viết chưa có hồi âm, có nghĩa là chưa có hồi kết.
Quả thật cái được lớn nhất của phê bình mỹ thuật thời đổi mới và hội nhập
quốc tế là có một diễn đàn phê bình mỹ thuật. Dù muốn hay không cũng là
một thước đo chính xác về sáng tác và phê bình mỹ thuật. Một môi trường
nghệ thuật sống động kích thích sáng tạo và phê bình mỹ thuật. Bên cái đư
ợc
thì sáng tác và phê bình mỹ thuật còn nhiều bất cập: về quan niệm, nhận
thức lý luận đã thực sự bộc lộ rõ nét trong thực tiễn sáng tác và phê bình mỹ
thuật của chúng ta.
Các nghị quyết của Đại hội Đảng và hội nghị TW chúng tôi luôn được học
và quán triệt chứng tỏ sự quan tâm của Đảng đối với các văn nghệ sĩ. Song
thông tin mỹ thuật, thẩm định mỹ thuật, cùng với các Nghị quyết của Đảng
trước hết thuộc trách nhiệm của giới phê bình nghiên cứu mỹ thuật. Luôn

đòi hỏi một thể chế đặc thù đối với những người làm phê bình nghệ thuật
mới hội đủ điều kiện hành nghề. Tự thân chúng tôi có “sinh ư nghệ tử ư
nghệ” mấy cũng lực bất tòng tâm. Phải được tập hợp trong một đội ngũ và
có chính sách đầu tư thỏa đáng may ra cùng với thời gian mới xóa được
gánh nặng tâm lý “lý luận phê bình ngh
ệ thuật luôn yếu kém, nhiều bất cập”.
Một nhận định đúng của các ngh
ị quyết TW. Song khắc phục yếu kém đó tất
cả tùy thuộc vào thiết chế đặc thù đối với chuyên ngành nghiên cứu ph
ê bình
nghệ thuật. Nếu không nghị quyết TW sau của Đảng sẽ vẫn là “phê bình
nghệ thuật còn nhiều bất cập và nhiều yếu kém”. Tất nhiên giới phê bình
nghệ thuật phải tự vượt chính mình.
Đôi điều của một người đã hơn nửa thế kỷ gắn bó với giảng dạy nghiên cứu
phê bình mỹ thuật mong được đối thoại rộng rãi, có điều chưa tới xin được
lượng thứ.
Lê Quốc Bảo

×