Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 35 trang )

Lê Minh Chiến
trang 1
CHỦ ĐỀ 1:
Những nhân tố hình thành, quyết định mối
quan hệ hữu nghị đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
Lê Minh Chiến
trang 2
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào – Vi
ệt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ này, bắt nguồn từ
các điều kiện tự nhi
ên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước. Trong tiến trình đó, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm nhận thấy tầm
quan trọng của mối quan hệ này, với các hoạt động cách mạng của mình đã đặt nền
móng vững chắc phát triển thành quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Từ bao đời qua, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau
như làng trên xóm dưới. Nhân dân Việt Nam thường nói láng giềng tối lửa tắt đèn
có nhau
tương tự như cách nhân dân Lào gọi nhân dân Việt Nam là bản cạy hươn
khiêng (bản kề, nhà cạnh). Quan hệ Việt Nam –Lào, Lào –Việt Nam là mối quan hệ
nhân hòa, nảy sinh từ đời sống thích ứng với tự nhiên và dựng xây xã hội của biết
bao thế hệ cộng đồng dân cư hai nước có nhiều lợi ích tương đồng, cao hơn hết là
v
ận mệnh hai dân tộc gắn bó với nhau rất khăng khít và được phát triển thành quan
h
ệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử quan hệ quốc tế.


Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hình thành nên
không h
ề do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện
tượng nhất thời m
à bắt nguồn từ vị trí địa – chiến lược của hai nước, từ bản chất
nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có c
ùng lợi ích cơ bản về độc lập, tự
chủ và nguyện vọng chính đáng thiết tha về hòa bình và phát triển. Quan hệ truyền
thống hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được nâng thành quan hệ đặc biệt
kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó (tháng 10 năm 1930), Đảng được
đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Nhân dân cách mạng L
ào sau này.
Lê Minh Chiến
trang 3
Phần 1
Tổng quan chung về đường biên giới Việt Nam – Lào
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10
tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh
phía Lào là: Phong Sa Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly
Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.
Cột mốc biên giới 605 trên biên giới Việt Lào
1. Đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên:
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10
tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh
phía Lào là: Phỏng Sả Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly
Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.

Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền
núi và qua rừng rậm nhiệt đới, so với mặt nước biển nơi thấp nhất vào khoảng
300m, cao nhất vào khoảng 2.700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình
kho
ảng 500m, có nơi cao trên 1000m. Giữa hai nước có những dãy núi cao hình
thành m
ột đường biên giới tự nhiên: phía Bắc từ A Pa Chải trở xuống là dãy Pu
Xam S
ẩu, phía Nam từ Thanh Hoá trở vào là dãy Trường Sơn. Một số đèo đã trở
thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là
núi non hi
ểm trở, đi lại khó khăn.
Dân cư sống hai b
ên biên giới đa phần là nhân dân các dân tộc ít người, sống
thưa thớt tại các l
àng bản rất xa nhau và xa đường biên giới. Đời sống vật chất và
Lê Minh Chiến
trang 4
tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc của hai bên còn nhiều thiếu thốn và lạc
hậu. Giao thông đi lại giữa hai bên và trong khu vực biên giới của từng bên rất khó
khăn, hầu như chưa có đường giao thông cơ giới (trừ một v
ài khu vực cửa khẩu;
đông dân cư; một số đường có từ thời chiến tranh; hoặc có đường lâm nghiệp mới
mở theo thời vụ đã xuống cấp nhiều…).
Các khu vực gần biên giới có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đối với hai
nước. Nhân dân hai nước ở khu vực bi
ên giới từ lâu đã có sẵn mối quan hệ dân tộc,
thân tộc gần gũi, tối lửa tắt đèn có nhau và gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
2. Lịch sử hình thành đường biên giới Việt Nam – Lào:
Thời Pháp thuộc, biên giới giữa Việt Nam - Lào được xác định bằng các

Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Nghị định năm 1893, Nghị định năm
1895, Nghị định năm 1896; Nghị định năm 1900; Nghị định năm 1904; Nghị định
năm 1916)
.
Đồng thời với việc điều chỉnh đất đai theo các Nghị định của Toàn quyền
Đông Dương, thực dân Pháp đ
ã tiến hành điều chỉnh đường biên giới và thể hiện
trên bản đồ Bonne tỉ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương.
Biên giới Việt Lào ổn định thúc đẩy hợp tác phát triển giữa hai quốc gia.
Sau năm 1975, hai nước nỗ lực đ
àm phán về biên giới lãnh thổ (02/1976)
thống nhất nguyên tắc lấy bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông
Dương in năm 1945 để giải quyết vấn đề bi
ên giới giữa hai nước; nơi nào không có
Lê Minh Chiến
trang 5
bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 thì dùng bản đồ in trước hay sau đó
một vài năm.
Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được
đại diện hai nhà nước Việt Nam v
à Lào ký tại Thủ đô Viêng Chăn. Việc đàm phán
thành công và ký k
ết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn
của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng
trong quá trình xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hoà bình,
h
ữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài.
Bộ Tư lệnh BĐBP Việt Nam - Cục Biên giới và Bản đồ Lào: Tăng cường
hợp tác quản lý, bảo vệ biên giới

Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên
gi
ới Việt Nam - Lào và hoàn thành công tác này vào năm 1987. Theo đó, trên toàn
tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã xây dựng được một hệ thống mốc quốc giới với
số lượng 199 mốc. Đồng thời trong giai đoạn này, hai nước đã giải quyết xong các
vấn đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước như chuyển
giao đất, b
àn giao dân và tài sản giữa hai bên… phù hợp với luật pháp quốc tế,
thông lệ quốc tế và phản ánh đúng thực tế đường biên giới lịch sử hình thành giữa
hai nước.
Các kết quả trên đã được hai bên ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước
Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư về việc phân
giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định
thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới v
à cắm mốc toàn bộ đường biên giới
quốc gia Việt Nam và Lào (16/10/1987).
Lê Minh Chiến
trang 6
Sau khi hoàn thành cơ bản công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa vào
năm 1987, hai bên đã ký Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 01/03/1990 và Nghị
định thư bổ sung Hiệp định về Quy chế bi
ên giới ngày 31/08/1997 nhằm tạo cơ sở
pháp lý đầy đủ cho công tác bảo vệ v
à quản lý biên giới giữa hai nước.
Hệ thống mốc quốc giới lúc đó được xây dựng trong giai đoạn hai nước còn
đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật hạn chế nên chưa đáp
ứng được y
êu cầu của một hệ thống mốc chính quy, đảm bảo tính ổn định lâu dài.

M
ật độ mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi
trên 40 km một mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ
ràng, nên l
ực lượng quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được
đường bi
ên giới.
Các mốc được thiết kế và xây dựng chưa phù hợp với điều kiện địa hình, địa
chất, khí hậu ở khu vực biên giới cũng như kích thước mốc nhỏ, chất lượng mốc
chưa cao…, nên hầu hết các mốc giới đ
ã xuống cấp và hư hỏng. Đến nay, hầu hết
các mốc đã phải gia cố phần nền móng; có mốc đã phải sửa đi sửa lại nhiều lần gây
tốn kém nhưng chưa đảm bảo ổn định. Trong những năm qua hai Bên đã mở và
nâng c
ấp nhiều cửa khẩu cùng với các công trình mới được xây dựng khang trang,
hiện đại, nhiều khu vực dân cư ở gần khu vực biên giới phát triển mạnh mẽ nên hệ
thống mốc cũ không còn phù hợp, không thể hiện rõ đường biên giới trên thực địa,
nhất là ở các cửa khẩu, nơi đông dân cư nhiều người qua lại, gây khó khăn cho
công tác quản lý biên giới.
Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới
ổn định lâu d
ài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
T
ừ tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực
hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm
mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác,
hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày
và tôn t
ạo gồm 792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời
gian thực hiện Kế hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực

có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp
tác, giao lưu phát triển kinh tế v
à ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới.
Ngày 18/01/2008 Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã
ba biên gi
ới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định
giao điểm đường bi
ên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo -
Đen Sạ Vẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột
mốc đầu tiên chính thức khởi động cho công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới
Lê Minh Chiến
trang 7
giữa hai nước. Tính đến tháng 02/2011, hai Bên đã xác định được 462 vị trí mốc và
đã xây dựng 333 vị trí mốc. Hai Bên sẽ hoàn thành công tác cắm mốc trên thực địa
vào năm 2012, và hoàn thành Nghị định thư, bản đồ ghi nhận kết quả vào năm
2014.
3. Hợp tác Kinh tế- Đầu tư Việt Lào:
Tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2 nước Việt Nam và
Lào đã báo cáo về tình hình đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, đến hết
tháng 5/2012, có 214 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư sang Lào còn hiệu lực
với tổng vốn 3,45 tỷ USD; Việt Nam tiếp tục là một trong 3 quốc gia đứng đầu
trong số 52 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Lào. Thời gian tới, khả năng tổng
vốn đầu tư tại Lào đạt 4,5 tỷ - 5 tỷ USD.
Trong Năm đoàn kết Hữu nghị Việt
- Lào 2012, nhiều dự án lớn như thủy
điện Seka
mãn 3 công suất 250MW phấn đấu phát điện vào cuối năm nay; dự án
trồng 10 ngàn ha cao su của Công ty Cao su Đắk Lắk đã khai thác mủ; Lĩnh vực
năng lượng, hiện có 15 dự án với tổng công suất gần 3.400 MW.
Các doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, Công ty Golf Long Thành, Tập

đoàn Hóa chất Việt Nam đ
ã đầu tư và cam kết đầu tư các công trình an sinh- xã hội
tại Lào trị giá hơn 50 triệu USD, đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội,
nâng cao thu nhập của người dân nước bạn Lào anh em.
Ký biên bản ghi nhớ tăng cường hợp tác giữa 2 Bộ KH-ĐT Việt Nam - Lào
Lê Minh Chiến
trang 8
Phần 2
NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, QUYẾT ĐỊNH MỐI QUAN HỆ HỮU
NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT NAM
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam bắt nguồn từ các điều
kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử và truyền thống chống giặc
ngoại xâm của nhân dân hai nước nhưng người đặt nền móng, quyết định mối quan
hệ đặc biệt này chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào đều nằm ở trung tâm bán đảo
Ấn
-Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Dãy Trường Sơn có thể ví như cột
sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.
V
ới địa hình tự nhiên này, về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục
Bắc-Nam. Còn về đường biển, Lào chỉ có thể thông thương qua một số tỉnh miền
Trung Việt Nam. Với điều kiện tự nhiên như thế, Việt Nam và Lào vừa có nhiều
điểm tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.
Giao lưu văn ngh
ệ quan hệ hữu nghị Việt Nam
-
Lào, sáng mã
i tình anh em
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để
hợp tác cùng phát triển, hai nước hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm

năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, t
ài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường
cũng như sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý.
Ngoài ra, Việt Nam và Lào là những nước loại “vừa” và “tương đối nhỏ”
sống cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối
liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên
chiếm vị trí địa- chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á.
Mặt khác, bờ biển Việt Nam tương đối dài nên việc bố trí chiến lược gặp
không ít khó khăn. Trong khi đó, d
ãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt
Nam và Lào, được ví như bức tường th
ành hiểm yếu để hai nước tựa lưng vào
nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn
Lê Minh Chiến
trang 9
then chốt về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và
Lào trong s
ự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về các nhân tố dân cư, xã hội, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhi
ên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung
, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này đã chi phối
mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.
Chính quá trình c
ộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam
và cư dân Lào trên địa b
àn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai thác và
chia s

ẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều này, thêm một lần
nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện
lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá
nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước.
Về nhân tố văn hoá và lịch sử, do quan hệ gần gũi và lâu đời nên nhân dân
hai nước Việt-Lào, đặc biệt là người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá
tường tận v
à sự giao thương ở đây cũng khá nhộn nhịp. Trong quan hệ giao thương
với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn
hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại t
ìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục
địa.
Các nghệ sĩ hai nước Việt Nam và Lào tham gia "Những ngày Văn hóa Lào tại Việt Nam”
Sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc
của triết lý nhân sinh người Việt cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan
hoà này, nhân dân hai nước Việt Nam
- Lào đã ngày càng hiểu nhau và bày tỏ
những tình cảm rất đổi chân thành với nhau.
Lê Minh Chiến
trang 10
Về nhân tố lịch sử, theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam thì mối quan
hệ Việt-Lào bắt đầu từ những năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Tiếp
đến v
ào giữa thế kỷ XIV (năm 1353) những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới
quốc gia đã được xác lập giữa Đại Việt và Lạn Xạng.
Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427),
ngh
ĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân
Lào
ở vùng biên giới. Điều đáng nói là bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong

kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước
vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền
thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong
hai cu
ộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào,
Lào-Vi
ệt Nam càng gắn bó keo sơn.
Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lên
in để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con
đường cách mạng vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào
ngày càng hoà quy
ện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong
quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc
và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt
Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam.
Và chính Người đ
ã cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào-Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã
h
ội như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong b

ối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không ít
thách th
ức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong
sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam –
Lào là nhi
ệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước
Việt Nam- Lào, Lào-Việt Nam.
Nhận định chung:
- Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của
hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhi
ên của sự phân bố tộc người ở khu vực
Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này, đến nay vẫn
tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt
Nam-Lào. Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt
Lê Minh Chiến
trang 11
Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai
thác và chia s
ẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thuỷ. Điều này, thêm
m
ột lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những
điều kiện lịch sử v
à xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa
văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Một trong những minh chứng cho
nhận định trên đó chính là hai câu chuyện huyền thoại của hai dân tộc đều xoay
quanh môtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào, thông qua câu chuyện huyền thoại đã
cho r
ằng các nhóm dân cư: Lào, Thái, Khơmú, Việt đều có chung nguồn gốc. Đặc

biệt, trong câu chuyện này, Khún Bulôm đã dặn dò với các con cháu của Người:
“Các con phải luôn luôn giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ
nhau. Các con phải làm cho mọi người noi gương các con và coi nhau như anh
em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các
con phải bàn bạc kỹ trước khi hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn
nhau”. Còn ở miền tây Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng
giải thích nguồn cội của các dân tộc Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách,
Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái, Việt cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả
bầu mẹ đã trở thành biểu tượng cao đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đoàn kết keo sơn
giữa các dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh
em sống ở khu vực biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền
mãi cho nhau những câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa
để lại.
- Về nhân tố văn hoá và lịch sử: Về nhân tố văn hoá, điều cần phải khẳng
định l
à do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào đặc biệt là
người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá tường tận. Trong cuốn “Dư địa
chí”
(1)
của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong
t
ục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa
Đại Việt với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có L
ào Lạn Xạng.
- Sự giao thương của người dân Lào với người dân Việt nhất là với người
dân các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá nhộn nhịp. Người dân Việt Nam bày
t
ỏ mối thiện cảm với một số mặt hàng có chất lượng cao của Lào như: vải dệt,
chiêng Chính vì vậy, mà hiện nay, nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên của nước
ta vẫn còn giữ được những chiếc chiêng Lào nổi tiếng. Đúng như nhà bác học Lê

Quý Đôn nhận xét: "Thật là một nước đã giàu lại khéo”.
(2)
Điều đáng chú ý là trong
quan h
ệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan
tâm của mình muốn hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng
buôn bán vào sâu lục địa.
- Có thể khẳng định rằng, sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng
đồng l
à một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh ngươì Việt cũng như người Lào.
Chính trong cu
ộc sống chan hoà này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã ngày
càng hi
ểu nhau hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau. Ngạn
ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin
mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực
khọ khỏ xừ cò bò khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà
người dân nước Việt dành cho người bạn láng giềng của m
ình, còn được lưu lại
Lê Minh Chiến
trang 12
trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”
(3)
trong giao dịch buôn bán thì
“họ vui lòng đổi chác”
(4)
- Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo và lựa
chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị -xã hội khác nhau, nhưng
những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống hàng ngày của cư dân
Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống của Việt Nam và Lào dễ dàng

tìm th
ấy: sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính
người gi
à… Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản -
mường của người Lào xuất phát từ cội nguồn cùng nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở
Đông Nam Á. Đồng thời, l
òng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có
những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân
Vi
ệt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và hướng
thiện.
- Về nhân tố lịch sử: Theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như: “Việt điện u
linh” “Lịch triều hiến chương loại chí” thì năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý, khi
bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của Vua là
Lý Thiên B
ảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống giặc ngoại xâm, mở ra mối quan hệ
đầu ti
ên Việt Nam-Lào, Lào-Việt -Nam. Còn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn
thư”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu
đầu ti
ên giữa các nước Đại Việt và Lào là vào năm 1067
(5)
. Tiếp đến vào giữa thế kỷ XIV
(năm 1353) những quy ước ho
à bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa Đại
Việt và Lạn Xạng khi Chạu Phạ Ngừng lần lượt chinh phục các mường Lào, lập nên vương
quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào. Ngoài ra, trong suốt quá trình của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), nghĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được sự tiếp sức của
các tộc trưởng và nhân dân Lào ở vùng biên giới.
- Điều đáng nói, là trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến XV, hai nước Đại Việt-

L
ạn Xạng, Lạn Xạng-Đại Việt mặc dù không phải không có những thời khắc gặp nguy nan
nhưng với tinh thần lấy ho
à hiếu làm trọng nên đã sáng suốt và công bằng, có ý thức đề cao
không thù hận, đồng thời biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân
tộc.
- Đến thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều
Xulinhavôngsả (1637-1694), nhà vua Lào đích thân cầu hôn công chúa Vua Lê Duy Kỳ. Tuy
nhiên, đây cũng l
à lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nên
quan h
ệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không phát triển được nhiều. Cuối thế kỷ
XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren. Tuy nhiên bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong
kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp
tục được nuôi dưỡng. Chính vì vậy, nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng
Khoảng) đã trở thành một căn cứ đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế
lực Nguyễn Ánh. Thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam đã có bước trưởng
thành sâu hơn, nhất l
à về phương diện nhận thức chủ quyền quốc gia, quan điểm bạn thù
c
ũng như phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân dân hai nước. Đó là những yếu tố lịch
sử.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử và sự tự
nguyện phối hợp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trong chống ngoại xâm nhất
Lê Minh Chiến
trang 13
là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược càng khẳng định mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Phần 3
Truyền thống chống giặc ngoại xâm của hai tộc và tinh thần tự

nguyện phối hợp chiến đấu của nhân dân Lào – Việt Nam.
Ch
ủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi với Chủ tịch
Kaysone Phomvihane t
ại H
à N
ội năm 1966.
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh: Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách
mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương
máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đ
ã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào
vì n
ền độc lập của Lào. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối
quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin
và ch
ủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại
xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn
Lang thành lập đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến
phương Bắc xâm lược, thống trị và do đó đ
ã phải không ngừng chiến đấu giành và
b
ảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng
phải ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách
một dân tộc, một quốc gia độc lập.
Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt Nam
đ
ã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930, hai dân tộc
Lào-Việt đã đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng lúc đó chỉ dừng

lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử. Từ khi
có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ khi
Lê Minh Chiến
trang 14
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam tình đoàn kết đó
đ
ã được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Chính truyền thống yêu nước vẻ vang là cơ
sở vững chắc cho sự đoàn kết giữa hai dân tộc.
Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những
năm tháng chiến tranh
mà biểu hiện của nó là nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu
tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn
(1930-1939), tiếp đến giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang giành
chính quy
ền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt-Lào, Lào-Việt Nam chiến
đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945
– 1975). Sau năm 1975,
quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến
đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ
quyền. Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào được biểu hiện
sâu nặng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Được thể hiện qua các mốc giai đoạn, như sau:
Từ ngày 1 tháng 1 đến 28 tháng 2 năm 1968, quân dân Phôngxalỳ (Lào)
ph
ối hợp với quân tình nguyện Việt Nam vây địch ở Á Pô, Tông Xơ. Qua hơn một
tháng, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Phôngxalỳ buộc địch phải rút khỏi
Á Pô, Tông Xơ, Phu Lốp; loại khỏi v
òng chiến đấu 146 tên địch.
Từ ngày 4 đến 5 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt

Nam) họp ở K7, nghe đồng chí Nguyễn Đôn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, báo cáo
v
ề tình hình Lào. Hội nghị thảo luận về vấn đề tăng cường quân số và giúp Lào trên
các m
ặt trận chính trị, quân sự ngoại giao; thống nhất quan điểm tích cực giúp Lào
th
ực hiện đường lối và chủ trương đã đề ra. Hội nghị đề cập việc giúp Lào đào tạo
đặc công ; giao Quân khu 4 giúp L
ào ở Nam Lào. Ban Công tác Lào nắm tình
hình chung toàn Lào, giúp Trung
ương chỉ đạo thực hiện kế hoạch giúp Lào.
Ngày 12 tháng 1 năm 1968, Trung đoàn Không quân 919 Việt Nam sử dụng
một biên đội AN2 gồm bốn chiếc xuất kích từ sân bay Gia Lâm, theo đường bay
Gia Lâm - Hoà Bình - Mương Hàm - Mương U. Biên đội bay đến Phả Thí vào lúc
quân địch đang nghỉ trưa, có nhiều sơ hở và sương mù đã tan, dễ quan sát các mục
tiêu. Bốn máy bay AN2 lần lượt lao xuống, bắn 128 quả rốckét và 48 đạn cối
120mm, địch không kịp phản ứng. To
àn bộ hệ thống rađa, đài chỉ huy, kho, sân bay
trực thăng đều bị đánh trúng
Ngày 16 tháng 1 năm 1968: Nhân dịp Tết cổ truyền của Việt Nam, ngày 16
tháng 1 năm 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào gửi thư chúc
Tết đến chuyên gia và bộ đội tình nguyện Việt Nam công tác và chiến đấu ở Lào.
Lê Minh Chiến
trang 15
Bức thư viết: “Đảng và nhân dân Lào chúng tôi chân thành biết ơn tinh thần hy sinh
cao cả của các đồng chí. Các đồng chí đã đóng góp vào thắng lợi to lớn của cách
mạng Lào. Nhân dịp năm mới, chúc các đồng chí mạnh khoẻ, thu được nhiều thắng
lợi mới”.
Ngày 20 tháng 1 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương (Việt Nam)
ra nghị quyết về tổ chức Đoàn chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào,

nêu rõ: thành l
ập Đoàn chuyên gia quân sự toàn Lào đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. Đoàn chuyên gia quân sự có nhiệm vụ quản
lý, chỉ đạo các chuyên gia quân sự về mọi mặt, đồng thời giúp Quân ủy Trung ương
nghiên cứu chủ trương, phương hướng công tác giúp Lào về quân sự. Quân tình
nguy
ện ở Bắc Lào do Quân khu Tây Bắc xây dựng, chỉ huy, lãnh đạo về mọi mặt.
Quân tình nguyện ở Nam Lào do Phân đoàn chuyên gia quân sự kiêm Ban Chỉ huy
quân tình nguyện chỉ huy. Ban Chỉ huy quân tình nguyện Nam Lào trực thuộc
Quân khu 4 (Việt Nam) về mọi mặt. Khi cần thiết, Bộ sẽ chỉ huy tác chiến đối với
quân tình nguyện ở Bắc và Nam Lào
Ngày 29 tháng 1 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam cùng Quân giải
phóng nhân dân Lào phối hợp với quân trung lập Lào tiến công giải phóng Na Xịa.
Đây là trận đánh đầu ti
ên của quân trung lập có sự phối hợp với Quân giải phóng
nhân dân Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam. Sự kiện trên đánh dấu sự tiến bộ
trong mối quan hệ giữa lực lượng trung lập với Neo Lào Hắc Xạt và trình độ sử
dụng lực lượng tác chiến tập trung, quy mô trung đoàn tăng cường của lực lượng
cách mạng Lào, khẳng định quan điểm đại đoàn kết của Đảng Nhân dân Lào và
Neo Lào H
ắc Xạt trong việc huy động mọi tầng lớp nhân dân cho mục tiêu chống
M
ỹ, giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Lào thống nhất, thịnh vượng.
Ngày 12/1 đến 27/2 năm 1968, Sau những thất bại trong hai năm 1966-1967
ở chiến trường Bắc Lào, đế quốc Mỹ huy động sáu tiểu đoàn chủ lực nguỵ Viêng
Chăn dưới sự chỉ huy và chi viện trực tiếp của Mỹ, mở cuộc hành quân lấn chiếm
vùng giải phóng Nặm Bạc. Sau khi chiếm được Nặm Bạc, chúng liên tục mở các
cuộc nống lấn, mở rộng địa bàn kiểm soát, nhằm tạo bàn đạp nối liền với Luổng
Phạbang, uy hiếp hậu phương Tây Bắc Việt Nam. Đến tháng 12 năm 1967, lực
lượng địch ở Nặm Bạc có 3 binh đoàn cơ động (11, 12, 13) v

à một tiểu đoàn của
Binh đoàn cơ động 15, một tiểu đo
àn pháo binh. Lực lượng địch đóng quân ở ba
khu (Na Khằng, Huội Ngát và trung tâm thung lũng Nặm Bạc). Ngoài ra, còn có
các khu ph
ỉ ở Chòm Văn, Giang Tơi, Moốc Phúc, Ta Mao. Các cụm quân đều có
phỉ ở vòng ngoài nhằm đối phó với ta từ xa. Sau một thời gian chuẩn bị, quân tình
nguy
ện Việt Nam cùng Quân giải phóng nhân dân Lào mở chiến dịch tiến công
địch ở Nặm Bạc (từ ng
ày 12 tháng 1 đến 27 tháng 2 năm 1968). Kết quả là, liên
Lê Minh Chiến
trang 16
quân Lào - Việt đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.200 tên địch, trong đó bắt sống hơn
2.000 tên, thu và phá huỷ 34 khẩu ĐKZ, 47 súng cối, 2 khẩu sơn pháo 75, 20 xe
ôtô, bắn rơi 14 máy bay, giải phóng hoàn toàn Nặm Bạc. Thắng lợi của chiến dịch
Nặm Bạc đánh dấu bước trưởng thành của liên quân Lào - Việt, góp phần khôi
phục, củng cố vùng giải phóng, nối liền Sầm Nưa với Xiêng Khoảng và vùng giải
phóng Bắc Lào, mở ra vùng giải phóng rộng lớn ở Thượng Lào. Đây là chiến thắng
quan trọng, đánh bại một phương thức tác chiến trong chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào, làm thay đổi so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho
cách mạng Lào.
Ngày 2 tháng 2 năm 1968 Mương Ngan là một khu vực đông dân, là vựa lúa
và cơ sở cách mạng của huyện Mương Khun, tỉnh Xi
êng Khoảng (Lào). Địa hình
n
ổi lên ba điểm cao gồm Phu Hom Cheng, Phu Then Chao và Phu Tong Noong, tạo
thành thế chân kiềng. Tại đây, Vàng Pao bố trí năm SGU, tổ chức thí điểm các đơn
vị biệt kích. Phát huy thắng lợi, ngày 2 tháng 2 năm 1968, Quân khu Cánh đồng
Chum (Lào) và Đoàn 463 (Việt Nam) mở chiến dịch Mương Ngan, tiêu diệt một bộ

phận sinh lực phỉ Vàng Pao, giải phóng nhân dân ở Mương Ngan, tạo điều kiện cho
lực lượng trong vùng địch hậu Viêng Chăn hoạt động. Lực lượng tham gia gồm ba
tiểu đoàn bộ binh (2, 24 và 701). Ngày 2 tháng 2, liên quân nổ súng tiến công. Sau
một thời gian chiến đấu, liên quân phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Mương
Ngan. Địch tháo chạy, li
ên quân truy kích về phía nam và tiếp tục đánh chiếm Thà
Thôm, Phu M
ừn, Mương Mày, Bolịkhăn. Chiến thắng Mương Ngan đã tạo điều
kiện chi viện cho Đông Viêng Chăn.
Ngày 3 tháng 3 năm 1968, Sau khi nghiên cứu tình hình Nam Lào, ngày 3
tháng 3 năm 1968, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Nguyễn Đôn chỉ thị cho Ban Chỉ huy bộ đội tình nguyện Nam Lào và Bộ Tư lệnh
Quân khu 4 về nhiệm vụ trước mắt và tiếp theo của các lực lượng tình nguyện Việt
Nam ở Nam Lào: Khu vực Xalavăn: hoạt động như hiện tại, không đánh vào thị xã
mà kéo địch ra để diệt; tích cực xây dựng cơ sở quần chúng, phát động chiến tranh
du kích mạnh mẽ, tạo thành vành đai cô lập Xalavăn; giải quyết các vị trí lẻ, quét
sạch bọn dân vệ, giải phóng và làm chủ vùng nông thôn xung quanh Xalavăn, đồng
thời giữ bằng được hành lang Lao Ngam; tiếp tục chuẩn bị chiến trường. Khu vực
Lao Ngam: để một bộ phận bộ binh bám sát, bao vây bắn tỉa, phục kích, chặn đánh
quân địch nống ra tích cực nghi binh làm như chuẩn bị đá
nh lớn. Phần lớn lực
lượng c
òn lại giải quyết các vị trí lẻ, quét dân vệ dọc sông Xê Coong, đoạn từ
Noỏng Xy đến Khôngxêđôn và Bắc Xuvannakhili, giải phóng và làm chủ vùng
nông thôn. Khu v
ực Áttapư: hoạt động như hiện tại, tìm mọi cách kéo địch ra ngoài
để đánh , có kế hoạch che giấu lực lượng.
Lê Minh Chiến
trang 17
Ngày 10 tháng 3 năm 1968, quân tình nguyện Việt Nam và quân dân Sầm

Nưa tiến công giải phóng Phả Thí lần thứ hai. Ng
ày 10 tháng 3, liên quân Lào -
Vi
ệt nổ súng tiến công cụm phỉ ở Phả Thí, Huội Mạ, Huội Mừn. Bốn giờ ngày 10
tháng 3, l
ực lượng đặc công dùng bộc phá đồng loạt đánh vào trạm rađa, sở chỉ huy
của địch. Các chiến sĩ đặc công chia thành hai mũi đánh theo phương châm phối
hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào. Quân địch vừa chống cự, vừa rút về phía thang
dây nhưng bị hoả lực của bộ binh chặn đánh; nhiều tên liều mạng tụt xuống thang,
có tên rơi xuống vực. Bộ binh tiến l
ên phối hợp với đặc công truy quét địch. Chín
giờ sáng, khi sương mù trên đỉnh Phả Thí vừa tan hết, một bộ phận của Đoàn 766
ti
ến lên đến đỉnh núi. Mỹ dùng máy bay ném bom phá huỷ trạm rađa. Đến 10 giờ
ngày 11 tháng 3, liên quân Lào - Việt làm chủ hoàn toàn căn cứ Phả Thí, loại khỏi
vòng chiến đấu 872 tên, trong đó có viên thiếu tá, chỉ huy trưởng và 18 sĩ quan
nhân viên kỹ thuật Mỹ, làm tan rã ba đại đội (3AC), bắn rơi 10 máy bay, thu 300
súng, giải phóng 10 xã với hơn một vạn dân Chiến thắng Phả Thí đã củng cố
vững chắc vùng giải phóng Sầm Nưa, phá tan đài rađa dẫn đường cho máy bay Mỹ.
Chiến thắng đánh dấu sự trưởng thành trong liên minh đoàn kết chiến đấu đặc biệt
Việt Nam - Lào, góp phần đánh bại một bước chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, bảo vệ vùng giải phóng Lào.
Ngày 20 tháng 3 năm 1968: Để mở rộng địa bàn và ngăn chặn những hoạt
động phá hoại của phỉ, Bộ Chỉ huy tối cao L
ào chủ trương mở cuộc tiến công cứ
điểm Huội Hỉn Xa, mở thông đường l
ên Nặm Bạc. Ngày 20 tháng 3 năm 1968,
Đoàn 766 quân t
ình nguyện Việt Nam được giao nhiệm vụ phối hợp với Quân giải
phóng nhân dân Lào tiêu diệt cứ điểm này.

Ngày 10 tháng 8 năm 1968, Ban Công tác miền Tây báo cáo Ban Bí thư
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về t
ình hình Lào mùa khô 1967-1968. Báo
cáo đánh giá những thắng lợi trong mùa khô 1967-1968 là to lớn, có ý nghĩa chiến
lược. Quân địch bị thất bại nặng nề, nhất l
à sau chiến dịch Nặm Bạc. Thắng lợi của
cách mạng Lào đã làm cho tương quan lực lượng chuyển sang thế có lợi cho cách
mạng Thắng lợi trên là do Đảng Nhân dân Lào đề ra đường lối và chủ trương
đúng đắn. Nghị quyết 13 v
à 15 dần dần thấm vào cán bộ các cấp; nhân dân đã nhận
rõ địch, ta, thấy được mục tiêu phấn đấu, tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng, trên
cơ sở đó nâng cao quyết tâm chiến đấu, hăng hái công tác
Nhiệm vụ mùa khô 1968-1969 là: cần tập trung sức giành một số thắng lợi
quyết định trên chiến trường, đồng thời củng cố lực lượng cách mạng về mọi mặt.
Chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng chuyển giai đoạn trong tình hình có lợi Về sự
giúp đỡ của Việt Nam: Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đ
ã giúp Trung ương
Đảng Nhân dân L
ào hoạch định đường lối và thực tế đã chứng minh đường lối đó
Lê Minh Chiến
trang 18
hoàn toàn đúng đắn, cách mạng Lào có chuyển biến rõ rệt, làm cho Lào tin tưởng,
phấn khởi. Chuyên gia có tư tưởng vững vàng, phương pháp tốt. Quan hệ Việt Nam
- Lào tiếp tục được củng cố
Ngày 9 tháng 9 năm 1968, Ban lãnh đạo Mặt trận 565 báo cáo Thường trực
Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam về thực
hiện kế hoạch mùa khô 1967-1968 và phương hướng nhiệm vụ mùa mưa 1968 ở
Nam Lào. Báo cáo tổng hợp tình hình ở Nam Lào trong mùa khô 1967-1968: Việt
Nam và Lào đ
ã phối hợp loại khỏi vòng chiến đấu 3.860 tên địch, thu 797 súng các

loại, 3 tấn đạn, hơn 4 tấn quân trang, quân dụng, phá 8 pháo, 30 xe quân sự, bắn rơi
11 máy bay, giải phóng 47 xã với 104.500 dân. Việt Nam và Lào củng cố cơ sở
địch vận từ khu đến tỉnh, huyện, x
ã. Hệ thống cơ quan này do cấp ủy đảng của mỗi
cấp lãnh đạo, chỉ đạo, đã in và phát hành truyền đơn, thư kêu gọi binh lính địch ra
hàng, trở về với gia đình. Đảng ủy Mặt trận đánh giá, thành tích trên đã cổ vũ nhân
dân càng tin tưởng v
ào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy
Ngày 29 tháng 9 năm 1968, trước tình hình địch lấn chiếm Phả Thí, ngày 29
tháng 9 năm 1968, đồng chí Nguyễn Đôn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho Quân khu Tây Bắc và Đoàn 959 về phá kế hoạch
lấn chiếm Phả Thí của địch. Đồng chí nêu rõ: nếu để mất Phả Thí sẽ gây ảnh hưởng
xấu về chính trị và quân sự; nhân dân Sầm Nưa và các nơi khác sẽ thiếu tin tưởng
vào cách mạng Lào và cho rằng lực lượng Vàng Pao vẫn mạnh, việc xây dựng cơ
sở quần chúng gặp khó khăn; lực lượng vũ trang liên quân sẽ phát sinh vấn đề về tư
tưởng Từ ý nghĩa v
à tầm quan trọng của việc giữ Phả Thí, đồng chí chỉ thị: phải
phá bằng được kế hoạch lấn chiếm Phả Thí của địch. Nếu để mất Phả Thí, Đoàn
959 và Quân khu Tây B
ắc (Việt Nam) phải chịu trách nhiệm.
Ngày 12 tháng 11 năm 1968, Quân uỷ Trung ương (Việt Nam) chỉ thị cho
Quân khu uỷ 4, Tây Bắc, Đoàn uỷ 959 về nhiệm vụ giúp Lào trong Đông Xuân
1968-1969. Chỉ thị nêu rõ: Đông Xuân năm 1967-1968, quân và dân Lào đã giành
được thắng lợi to lớn, toàn diện. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai bị thất bại nặng nề, có
tính chất chiến lược. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi, vẫn còn khuyết, nhược
điểm mà Trung ương Lào đ
ã vạch ra như: sự phát triển về chính trị, kinh tế không
theo kịp thắng lợi về quân sự. Những khuyết, nhược điểm đó cũng phản ánh thiếu
sót của Việt Nam trong việc giúp Lào.
Tháng 12 năm 1968, tại Hà Nội (Việt Nam), Đoàn đại biểu Đảng Lao động

Việt Nam và Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân Lào đã tiến hành hội đàm. Tham gia
h
ội đàm, phía Việt Nam có các đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy
Trinh, Lê Văn Lương. Về phía Đảng Nhân dân Lào có các đồng chí: Cayxỏn
Lê Minh Chiến
trang 19
Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Xuphanuvông, Khăm Tày Xiphănđon, Phumi
Vôngvichít.
Tổng kết thành tích chiến đấu của liên quân Lào - Việt trong năm 1968:
Xu
ất phát từ tình đoàn kết chiến đấu giữa hai nước, trong năm 1968, quân giải
phóng nhân dân Lào và quân tình nguyện Việt Nam đã đánh 1.114 trận, loại khỏi
vòng chiến đấu 19.234 tên địch. Trong số đó có 8.524 tên chết, 2.449 tên bị thương,
2.882 tên b
ị bắt sống, 4.133 tên ra hàng, 984 tên rã ngũ, 262 tên nổi dậy làm binh
bi
ến. Liên quân Lào - Việt Nam thu được 5.847 khẩu súng các loại, 77 xe ôtô, 247
đài vô tuyến điện, 310 tấn dụng cụ chiến tranh v
à phá huỷ 3 trạm rađa (Bạn Na, Phả
Thí, Pha Lan), 24 kho vũ khí, 14 cầu, 6 đài vô tuyến điện, bắn chìm 36 canô, xuồng
máy, bắn rơi 260 máy bay.
Lê Minh Chiến
trang 20
Phần 4
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – người đặt nền móng cho mối quan
hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam
Trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia-dân tộc từ xưa đến nay, ít thấy có
mối quan hệ nào đặc biệt như quan hệ hai nước Việt Nam-Lào. Đây là mối quan hệ
bắt nguồn từ vị trí địa-chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn
nhau của hai dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo hai

Đảng, hai Nhà nước l
à những người xây dựng nền móng và dày công vun đắp
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông
1./Gắn kết cách mạng hai nước:
Được Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản cho phép trở về Đông Dương theo
nguyện vọng, năm 1928, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến bản Xiêng Vảng,
huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại Lào nhằm
đưa cách mạng Việt Nam v
à Lào hòa quyện, nương tựa vào nhau, cùng đấu tranh
giành độc lập, tự do. Dưới sự l
ãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, phong trào cách mạng Việt Nam-Lào những năm 1930-1931 đã
có s
ự phối hợp ngày càng gắn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn mối quan hệ giữa cách mạng hai nước Việt
Nam và Lào, kịp thời xây dựng và phát huy sức mạnh nhân dân hai nước. Thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Lào.
Quán tri
ệt chủ trương và những lời căn dặn của đồng chí Hồ Chí Minh tại Hội nghị
Lê Minh Chiến
trang 21
Tân Trào, Ban chỉ đạo khởi nghĩa ở Viêng Chăn vận động các lực lượng yêu nước
và tiến bộ Lào xúc tiến thành lập Chính phủ Lào Ít-xa-la.
Xu
ất phát từ nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, ngày 14-10-1945, Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa là Chính phủ đầu tiên trên thế giới chính thức công
nhận Chính phủ độc lập Lào và cử phái viên của Chính phủ Việt Nam tại Lào. Từ
đây, quan hệ Việt Nam
-Lào chuyển sang giai đoạn mới không chỉ trong quan hệ

giữa nhân dân hai nước, mà nâng lên tầm quan hệ gắn bó giữa hai Nhà nước, quyết
tâm bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Nhân dịp năm mới, tháng 1-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết Việt kiều ở Lào, trong đó nêu rõ: “Lào và Việt
Nam là hai nước anh em. Mối quan hệ giữa hai dân tộc rất l
à mật thiết”. Người
cũng khẳng định: “Bây giờ, hai dân tộc ta tuy còn phải khó nhọc, nhưng tương lai
của chúng ta rất là vẻ vang”.
Nhằm giúp Lào xây dựng căn cứ địa kháng chiến của Trung ương làm chỗ
dựa cho cơ quan lãnh đạo kháng chiến cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho
đồng chí V
õ Nguyên Giáp nghiên cứu xây dựng Sầm Nưa thuộc tỉnh Hủa Phăn
thành căn cứ chiến lược cho cách mạng L
ào. Ngày 16-5-1948, Ban xung phong Lào
B
ắc được thành lập, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản làm chỉ huy trưởng. Sầm
Nưa đ
ã trở thành trung tâm căn cứ địa Trung ương cách mạng Lào, nơi ra đời Quân
đội L
ào Ít-xa-la, do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản trực tiếp chỉ huy.
2./Cùng chiến đấu chống kẻ thù chung:
Trước tình hình quốc tế, khu vực và Đông Dương có những chuyển biến sâu
sắc, đọc Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (2-
1951), Ch
ủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải ra sức giúp đỡ cuộc kháng chiến
của nhân dân Lào, vì cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam có liên hệ
mật thiết với cuộc chiến tranh giải phóng Lào”. Đại hội cũng quyết định thành lập ở
mỗi nước một chính đảng riêng, ở Việt Nam là Đảng Lao động Việt Nam và ở Lào
là Đảng Nhân dân Lào. Từ đây, mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào được nâng lên
t
ầm cao mới trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung vì độc lập, tự do của mỗi

quốc gia.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức
là mình tự giúp mình” và thực hiện chủ trương của lãnh đạo hai nước, quân và dân
Vi
ệt Nam-Lào đã phối hợp chiến đấu giành nhiều thắng lợi. Đặc biệt là phối hợp
giành thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến
dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, kết thúc
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Lê Minh Chiến
trang 22
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người
cộng sản Lào đã tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào (1955) để lãnh đạo
nhân dân Lào đoàn kết với nhân dân Việt Nam
chống kẻ thù chung. Ngay sau khi
thành l
ập, Đảng Nhân dân Lào (năm 1972 đổi tên là Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào) đ
ã gửi điện cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện có đoạn: “Chúng tôi th
ành công trong việc
thành lập Đảng Nhân dân Lào là nhờ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo
dõi, dìu d
ắt và sự giúp đỡ vô điều kiện của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
trong thời gian qua”.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ
Vương quốc
Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đây, quan hệ đoàn kết
đặc biệt Việt Nam
- Lào được xây dựng phát triển lên tầm cao mới, thống nhất chủ
trương, sách lược đấu tranh tr

ên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, xây dựng
lực lượng kháng chiến, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau trong tác chiến, trong kinh tế,
văn hóa, giáo dục, đ
ào tạo cán bộ…
Quân đội và nhân dân hai nước cũng đ
ã sát cánh bên nhau chiến đấu đánh
bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của
đế quố
c Mỹ, tạo ra thế và lực mới, bảo đảm cho quân đội và nhân dân Lào thực
hiện “ba đòn chiến lược” và mũi giáp công pháp lý năm 1975 thắng lợi, kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời.
3./Đưa quan hệ đặc biệt Việt-Lào lên tầm cao mới
Trước yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam và Lào trong thời kỳ
mới, ngày 18-7-1977, hai nước đã thỏa thuận ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
Việt Nam-Lào. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng mang tính chiến lược lâu dài, đánh
dấu mốc phát triển mới của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.
Ngày nay, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân hai nước
Việt Nam và Lào diễn ra trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến
đổi to lớn v
à sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những khó khăn, thách thức khó lường.
Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam
-Lào sẽ nỗ lực đoàn kết phấn đấu
vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giữ trọn mối quan hệ đặc biệt Việt
-Lào.
Quan h
ệ đặc biệt Việt Nam-Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền
móng và chính Người dày công vun đắp l
à một tài sản vô cùng quý báu, mãi mãi
được giữ gìn, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác toàn diện, vì

l
ợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
*Nhận định chung:
Lê Minh Chiến
trang 23
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ
Chí Minh), với lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó
khăn, gian khổ, đ
ã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc
địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận v
à vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường
giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô
sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến t
ình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn
t
ố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào (6). Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên - một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung
Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua
ho
ạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy
đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu
nước tại L
ào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết
khăng khít giữa Việt Nam
– Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đ
ã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách

mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một
đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng cứu nước mới của
Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức
khảo sát thực địa tại Lào (7) càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng
sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa
nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, L
ào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,
tư tưởng v
à tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông
Dương. Quá tr
ình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Vi
ệt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Ch
ủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng chí
Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai
Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự l
ãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lê Minh Chiến
trang 24
Phần 5
Âm mưu thủ đoạn v
à hệ thống trị của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng hai nước Việt Nam-Lào,

Lào-Vi
ệt Nam là một trong những nhân tố gắn kết hai dân tộc lại với
nhau trên tr
ận tuyến chống thù chung.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Vi
ệt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng
và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuv
ông và các
th
ế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp. Trải
qua nhiều thử thách, hy sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc
và nhân dân hai nước, quan hệ Việt Nam
- Lào đã trở thành quy luật sống còn và
s
ức mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu
tranh giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo
định hướng x
ã hội chủ nghĩa.
Hai nước c
ùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ: Việt Nam và Lào có vị
trí địa
– chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao
thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có nguồn trữ lượng dầu khí và tiềm năng tài
nguyên khoáng s
ản khá dồi dào, một tiêu điểm của sự tranh giành lợi ích và ảnh

hưởng giữa các nước lớn v
à các trung tâm quyền lực quốc tế.
Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào là bức tường
thành hiểm yếu, tạo điều kiện cho hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn
nhau trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Tại đây, có nhiều vị trí chiến
lược khống chế những địa b
àn then chốt về kinh tế và quốc phòng rộng lớn của cả
hai nước, có thể trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam v
à Lào trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do điều kiện tự nhi
ên và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và Lào
có nhi
ều điểm tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt, trong hoàn cảnh toàn
Lê Minh Chiến
trang 25
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, hai nước hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau
b
ằng tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực,
thị trường cũng như sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý để hợp tác
cùng phát triển.
- Nhân dân hai nước giàu lòng nhân ái, bao dung và văn hóa của hai dân tộc
có nhiều nét tương đồng: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, có
lịch sử phát triển lâu đời trên bán đảo Đông Dương. Quá trình cộng cư, hoặc sinh
sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của
hai nước đ
ã phản ánh sinh động, liên tục mối quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp
xúc từ xa xưa của nhân dân hai nước. Huyền thoại khởi nguyên về quả bầu mẹ đã
tr
ở thành biểu tượng cao đẹp về nguồn gốc chung và tình đoàn kết keo sơn giữa các

dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Cho đến nay, các dân tộc anh em sống ở khu vực
biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho nhau những
câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà ông bà xưa để lại.
Sự hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc trong
triết lý nhân sinh người Việt Nam cũng như người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói
h
ợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán”
(Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải).
Đó cũng l
à những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà người dân nước Việt dành
cho người bạn láng giềng của mình, còn được lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào
thu
ần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”.
Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo
và lựa chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị – xã hội khác
nhau, nhưng những nét tương đồng th
ì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống
hàng ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống
của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ tâm hồn
chung về các giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính người già…
S
ự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản -
mương của người Lào bắt nguồn từ chính nền tảng chung của văn minh nông
nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Nhờ lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh
phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối
nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao
nh
ững phẩm chất yêu thương và hướng thiện.
Nhân dân hai nước có truyền thống bang giao h
òa hiếu, cưu mang đùm bọc

lẫn nhau từ lâu đời, cuối thế kỷ XIX cùng bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai
tr
ị tàn bạo: Trong thời kỳ phong kiến, đặc điểm nổi bật về quan hệ giữa nhân dân

×