Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bệnh viêm mủ tuyến mồ hôi quanh hậu môn pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.31 KB, 6 trang )


1
Bệnh viêm mủ tuyến mồ hôi
quanh hậu môn

Bệnh viêm mủ tuyến mồ hôi (Hydradenitis, Hydrosadenite) là một nhiễm
trùng mủ ở ngoài hậu môn. Năm 1859, trong tờ Arch. Gen. Med, Verneuil A,
đã mô tả các u trong một số bệnh của tuyến mồ hôi nên bệnh còn có tên
bệnh Verneuil.
Bệnh viêm mủ tuyến mồ hôi, thường ở nhiều nơi. Bệnh chiếm 2% các nhiễm
trùng mủ của vùng hậu môn. Tuy không phải là bệnh của riêng hậu môn
nhưng đôi khi đi kèm với các bệnh khác của vùng hậu môn như b
ệnh viêm
xoang lông, ung thư hậu môn trực tràng, bệnh rò hậu môn, nhất là ở những
bệnh nhân đã có tiền sử mổ rò hậu môn nhiều lần.
Trong tiền sử của bệnh nhân có các bệnh nhiễm trùng ở da, với tỷ lệ khá cao.
Nhận xét này làm thay đổi những quan niệm về sinh bệnh học.
SINH BỆNH HỌC


2
Nơi xuất phát của bệnh là các tuyến mồ hôi, chính xác hơn là các tuyến đỉnh
tiết (apocrine gland). Tuyến đỉnh tiết là một loại tuyến mồ hôi, chỉ có ở một
số vùng ở cơ thể như nách, núm vú, quanh hậu môn, vùng sinh dục, ống tai
ngoài, mi mắt. Khác với tuyến toàn tiết, tuyến đỉnh tiết ở sâu hơn, tế bào cơ-
thượng mô thường to hơn. Tế bào tuyến chứa acid phosphataza và beta
gluco-ronidaza. Tuyến chế tiế
t theo cách riêng. Các hạt chế tiết tập trung ở
vùng đỉnh tế bào và được phóng thích vào trong lòng ống tuyến cùng với
những mảnh bào tương do vỡ màng tế bào ở vùng đỉnh (nên có tên là tuyến
đỉnh tiết). Lỗ ống tuyến đổ vào nang lông, tuyến bã chứ không đổ ra ngoài


da.
Tuyến chỉ hoạt động ở tuổi dậy thì, dưới ảnh hưởng của hormon giới tính.
Tuyến đỉnh tiết được hình thành từ nụ mầm thượ
ng mô của nang lông, tuyến
bã nên tuyến có liên quan mật thiết với nang lông.
Thương tổn

Thương tổn nằm ở sâu, lan rộng, chằng chịt những thương tổn mới cũ, phức
tạp. Đôi khi có những sẹo hay những di tích mổ cũ. Thường hiện diện một u
hạt viêm với nhiều di tích của các tuyến bị viêm nên khó nhận định.
Sự hiện diện các xoang lông bệnh lý, nằm sâu trong lớp bì gợi ý tới bệnh
viêm mủ tuyến mồ hôi nhiều hơn là chỉ thươ
ng tổn đơn thuần ở các tuyến
mồ hôi. Thường không có những triệu chứng điển hình về mô học nhưng
những triệu chứng gợi ý cộng với những dữ liệu lâm sàng và quá trình diễn
biến của bệnh giúp cho chẩn đoán.
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của tụ cầu trùng kỳ khí ngay từ đầu.
Các vi khuẩn được coi như bội nhiễm.

3
DỊCH TỄ HỌC
Bệnh viêm mủ tuyến mồ không phải là bệnh di truyền như trước kia vẫn
tưởng.
Bệnh gặp nhiều ở nam hơn ở nữ, với tỷ lệ 7/3. Tuổi trung bình lúc đầu của
bệnh là 30. Bệnh nhân thường đã bị mổ nhiều lần. Điều đáng chú ý là trong
tiền sử, có khi từ lúc nhỏ, thường có các bệnh nhiễm trùng ở da như tr
ứng cá,
nhọt, hậu bối, nang tuyến bã ở vùng quanh hậu môn.
Không giải thích được một cách thỏa đáng về sự phối hợp với các bệnh khác
nhưng chắc chắn không phải hoàn toàn ngẫu nhiên. Bệnh diễn tiến thành

mãn tính. Sau 10-20-30 năm hay hơn nữa, bệnh có những đợt tái phát. Mỗi
đợt tái phát lại xuất hiện những thương tổn mới với những đường rò mới. Sự
tồn tại th
ường xuyên hay sự tái phát luôn ám ảnh người bệnh.
LÂM SÀNG
Các triều chứng lâm sàng thường rõ rệt.
Lúc đầu, thương tổn là những hòn, những cục nhỏ di động nằm ở lớp hạ bì,
ở trên là lớp thượng bì tim tím. Những hòn, những cục này có thể tự biến
mất nhưng thường thì mở ra ngoài da. Khi sờ nắn không thấy các dấu hiệu
lùng nhùng mà thấy hơi cứng. Ở miệng mở ra ngoài của những hòn này có ít
mủ loãng đôi khi còn dính tí máu. Bệnh nhân không sốt, không đau. Thông
thường có vài cục chụm lại với nhau làm da nổi gồ lên và thông với nhau bởi
những đường vằn vèo, đào ở trong mô tế bào dưới da những đường hầm.
Những đường hầm này mở ra da bằng nhiều lỗ. Những áp xe và những
xoang này để lại những sẹo dẹt hay những sẹo lồi.
Về sau, sờ thấy có những đường xơ dài. Có thể
luồn một que thông dưới
những đường mô xơ này.
Cuối cùng, các sẹo xen kẽ với các đường xơ là cho bệnh có một hình ảnh
riêng biệt. Tại chỗ, chúng có thể lan ra vùng bẹn, tầng sinh môn, mông, phía
sau tới vùng xương cùng, phía trước tới bìu, mu và môi lớn
Một tính chất nữa của bệnh là sự phối hợp với thương tổn ở các vị trí khác,
hoặc đồng thời hoặc trong tiền sử, hoặc có những v
ết tích của sẹo. Vị trí
thường thấy là mặt, gáy, tai, ít khi ở nách, núm vú.

4
Các vị trí khác
Bẹn-bìu-mông 40%
Mặt 20%

Tai 10%
Nách 10%
Vú 5%
Các nơi khác 15%
CHẨN ĐOÁN
Các tính chất của hiện tượng mưng mủ, hình thái điển hình của thương tổn,
sự lây lan tại chỗ và trong vùng, thương tổn ở những vị trí khác giúp cho
chẩn đoán bệnh. Nhưng trong chẩn đoán cũng có thể nhầm lẫn với các
thương tổn khác.
Cần phân biệt với:
· Nhọt và hậu bố
i thì dễ phân biệt vì hai bệnh rất khác nhau về lâm sàng,
tiến triển, vị trí và tính hiệu quả của điều trị.
· Bệnh trứng cá và bệnh u nang bã nhờn (sebaceous cyst), có thể bị chẩn
đoán nhầm. Sự nhầm lẫn này không có tác hại vì cách điều trị của
chúng giống nhau, đều là phẫu thuật.
· Bệnh xoang lông, dễ chẩn đoán. Hai bệnh này khá giống nhau, đôi khi
cùng có, lại có chung môt hình ảnh mô học.
· Rò hậu môn, rất d
ễ chẩn đoán lầm. Điểm xuất phát của hai thương tổn
này rất khác nhau. Rò hậu môn xuất phát từ khe của đường lược, bệnh
viêm mủ tuyến mồ hôi không bao giờ xuất phát từ đây.
· Bệnh Crohn, một số nhiễm trùng mủ lan tỏa ở vùng quanh hậu môn và
mông của bệnh Crohn có thể được chẩn đoán lầm với bệnh viêm mủ
tuyến mồ hôi.
ĐIỀU TRỊ

5
Từ khi hiểu biết về nguyên nhân sinh bệnh, việc điều trị bệnh có hiệu quả
hơn.

Nội khoa
Điều trị nội khoa với sulfamid, kháng sinh, vaccin được sử dụng trong giai
đoạn viêm nhiễm.
Ngoại khoa
Điều trị bệnh viêm mủ tuyến mồ hôi chủ yếu là bằng ngoại khoa, dưới sự
che chở của thuốc sát khuẩn. Thuốc sát khuẩn được dùng mổ và ngay sau
mổ.
Cắt bỏ thương tổn
Bơm chất màu vào lỗ rò ở da, không thấy thông với ống hậu môn, chỉ thấy
có sự thông thương giữa các xoang nhiễm mủ với nhau. Dùng dao điện cắt
bỏ toàn bộ một khối những thương tổn. Để tìm mặt phẳng bóc tách, dùng
kềm kéo vào mảnh mô xơ, dao mổ tách mặt phẳng cơ. Nên cắt bỏ tất cả các
mô bệnh cho tớ
i cân hay ít nhất cũng tới mô mỡ lành. Vết thương để hở, tự
nó sẽ lành. Thương tổn có thể rộng nhưng nên mổ một lần, không nên mổ
nhiều lần.
Sau mổ, chính phẫu thuật viên phải chăn sóc vết mổ đều đặn. Ngày hai lần
rửa vết mổ bằng nước muối sinh lý, có thể pha thêm thuốc sát trùng. Băng
khô hay băng dầu với thuốc mỡ có thể thêm vitamin. Khi tại vế
t thương có
nụ xùi có thể chấm nitrate. Khi hai mép vết mổ gần khép kím, nên cắt xét
bớt mép để vết sẹo hình thành nhanh hơn và đẹp hơn.
Ghép da
Phương pháp ghép da đem lại hiệu quả tốt nhưng so với phẫu thuật cắt bỏ để
mở thì phức tạp hơn nhiều. Ghép da đòi hỏi nhiều phương tiện và phẫu thuật
viên phải được đào tạo về phẫu thuậ
t tạo hình. Thời gian nằm viện kéo dài.
· Thì đầu, chuẩn bị vô trùng vùng thương tổn bằng kháng sinh. Chọn
kháng sinh thích hợp, căn cứ vào kháng sinh đồ.


6
· Thì hai, cắt lấy bỏ thương tổn bằng dao mổ thông thường. Phải lấy hết
thương tổn bệnh. Về chiều rộng, lấy xa thương tổn. Về chiều sâu, lấy
lớp cơ-cân.
· Thì ba, ghép da. Trước khi ghép, băng vùng mổ bằng gạc tẩm dung
dịch Dakin. Ghép khi đáy chỗ khoét bỏ có mô hạt mọc, đã dầy dần lên.
Mảnh da ghép lấy ở đùi, phải mỏng và đủ rộ
ng. Sẹo lành sau 3 tuần.
Phương pháp điều trị thường được sử dụng là Cắt bỏ rộng thương tổn và để
mở, vết mổ sẽ lành tự nhiên. Phẫu thuật an toàn và có hiệu quả, nhưng
không đảm bảo lành hoàn toàn. Bệnh có thể tái xuất hiện ở những vị trí khác.
Vì vậy cần phải theo dõi lâu dài.

×