Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Luận án tiến sĩ : quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.87 KB, 186 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề từ
lâu đã thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cách đây hơn 200
năm, giáo s sử học ngời Anh Thomas Malthus lần đầu tiên đã đề cập đến
vấn đề này một cách rõ ràng và có hệ thống nhất trong quyển "Bàn về
nguyên tắc dân số" trong lúc dân số thế giới cha đầy 1 tỷ ngời.
Từ khi xảy ra hiện tợng "bùng nổ dân số", vấn đề dân số không còn
là của riêng của một quốc gia nào, mà là của cả thế giới mang tính toàn cầu,
thách thức nhân loại, đòi hỏi nhân loại phải có thái độ nghiêm túc hơn trong
việc nghiên cứu và xử lý mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Vấn đề này,
từ lâu đã đợc các nhà khoa học và các nhà chính trị quan tâm đặc biệt. "Cho
đến nay thế giới đã trải qua 5 kỳ hội nghị quốc tế về vấn đề dân số, trong đó
2 kỳ họp vào năm 1945 tại Roma (Italia) và năm 1965 tại Bê-ô-grát (Nam
T cũ) mang tính chất trao đổi chuyên ngành. Ba kỳ họp tiếp theo đợc Liên
Hiệp Quốc tổ chức vào các năm 1974 tại Bucarét (Rumani) 1984 tại
Mêhicô citi (Mêhicô) và năm 1994 tại Cairô (Ai Cập)" [22, X]. Chơng trình
hành động của hội nghị quốc tế về dân số và phát triển họp ở Cairô đã đa ra
15 nguyên tắc trong đó nguyên tắc thứ 6 nêu rõ: " Ngày nay cũng nh trong
tơng lai, đòi hỏi các mối liên hệ giữa dân số, tài nguyên môi trờng và phát
triển phải đợc công nhận đầy đủ, quản lý đúng đắn và đạt đến sự hài hòa,
năng động" [24, 14]. Nhờ sự quan tâm đặc biệt này mà trong những năm
gần đây các công trình nghiên cứu về dân số và phát triển ra đời nhiều hơn,
nghiên cứu một cách có hệ thống hơn. Cũng chính từ đó cho thấy, vấn đề
dân số và phát triển là một trong những vấn đề phức tạp và còn rất nhiều
quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau.
1
Trong lĩnh vực triết học, vấn đề dân số và phát triển đã đợc các nhà
kinh điển của triết học mác-xít đề cập đến khi các ông phân tích những tiền
đề mà con ngời tham dự ngay từ đầu vào lịch sử, các ông đã gắn vấn đề dân
số vào tồn tại xã hội, xem đó là một trong những nhân tố cấu thành một


cách hữu cơ của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong thời kỳ của các
ông, quan hệ dân số và phát triển cha đặt ra gay gắt. Hớng nghiên cứu chủ
yếu của các ông là tìm ra các quy luật vận động và phát triển của xã hội
thông qua quá trình sản xuất vật chất của xã hội, cho nên vấn đề quan hệ
dân số và phát triển cha đợc chú ý đúng mức. Sau này khi triển khai học tập
nghiên cứu triết học mác-xít ngời ta thờng tập trung vào việc phân tích ph-
ơng thức sản xuất vật chất, còn các yếu tố khác trong tồn tại xã hội nh vấn
đề tài nguyên môi trờng, hoàn cảnh địa lý và dân số ít đợc quan tâm nghiên
cứu. Điều này thể hiện rõ trong cơ cấu về nội dung chơng trình học tập và
nghiên cứu bộ môn này. Các nội dung về dân số tài nguyên và môi trờng th-
ờng đợc trình bày ẩn vào các nội dung khác. Mãi gần đây mới có một
chuyên đề riêng về dân số và tài nguyên môi trờng, nhng vẫn còn là những
vấn đề chung, cha tơng xứng với vai trò vị trí tác dụng của vấn đề này đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vấn đề quan hệ giữa dân số và phát
triển cần phải có các công trình nghiên cứu chuyên biệt dới góc độ triết học
để giải quyết những vấn đề lý luận mà các khoa học khác cha giải quyết.
Ngày nay, quan hệ giữa dân số và phát triển càng trở thành những
vấn đề thời sự nóng bỏng. Trong lịch sử cha có một quốc gia nào thành
công trong việc phát triển kinh tế xã hội mà không quan tâm giải quyết vấn
đề dân số. Ngay cả các nớc phát triển, quá trình cất cánh của họ cũng diễn
ra sau khi giải quyết xong bài toán về dân số.
Hoài bão lớn lao, mục đích suốt đời của hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh là giành đợc độc lập tự do cho dân tộc, mang lại ấm no hạnh
phúc cho nhân dân "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
2
sao cho nớc đợc hoàn toàn độc lập, dân ta đợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đợc học hành" [5, 161]. Thực hiện mong
muốn của Hồ Chủ tịch, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân
dân thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn quan tâm
giải quyết những vấn đề về chăm lo đời sống cho nhân dân, vấn đề quan hệ

giữa dân số và phát triển. Trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt mặc dù cần
nhiều sức ngời cung cấp cho các chiến trờng và xây dựng xã hội mới, nhng
Đảng ta đã cảnh báo rằng dân số Việt Nam tăng nhanh sẽ là lực cản lớn,
hạn chế phát triển.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định "công tác
DSKHH - GĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lợc phát triển đất nớc, là
một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của nớc ta, là một trong
những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lợng cuộc sống của từng ngời, từng
gia đình và toàn xã hội" [112, 74]. Nhng trong công cuộc vận động thực
hiện các mục tiêu về DSKHH - GĐ, bên cạnh các quan điểm đúng đắn về
quan hệ giữa dân số và phát triển còn một số quan điểm cha đúng đắn nh
tuyệt đối hóa vai trò của dân số. Quan điểm này làm cho có một số ngời
ngộ nhận rằng chính quá trình gia tăng dân số Việt Nam là nguyên nhân cơ
bản nhất quyết định sự vận động và phát triển của xã hội Việt Nam. Mặt
khác có một số quan điểm lại cho rằng vấn đề dân số không liên quan gì
đến sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Do đó công tác nghiên cứu
để có quan điểm đúng đắn về quan hệ giữa dân số và phát triển trong công
cuộc đổi mới đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh CNH và HĐH hiện nay ở nớc ta lại
càng trở nên bức bách cả về lý luận và thực tiễn, cả về trớc mắt và lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện, triển khai luận án chúng tôi đã tiếp cận nhiều công
trình nghiên cứu của các khoa học về vấn đề dân số và phát triển. Tiêu biểu
có thể kể đến: Dân số và phát triển ở các xã điển hình trong 50 năm qua,
3
bộ sách gồm 3 tập của GS.TS Đặng Thu do Trung tâm Khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia - Trung tâm nghiên cứu về dân số và phát triển phát
hành; Một số vấn đề về quan hệ giữa dân số và phát triển do TS. Trần Cao
Sơn chủ biên, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Trung tâm
nghiên cứu về dân số và phát triển, nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997;
Báo chí với vấn đề dân số và phát triển, do Phạm Tài Nguyên viết lời bình

và biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1995; Dân số và
phát triển của TS Nguyễn Đình Cử, Trờng Đại học Kinh tế Quốc dân, Trung
tâm dân số phát hành, 1994; Bùng nổ dân số hậu quả và giải pháp của GS.TS
Lơng Xuân Quỳ và TS Nguyễn Đình Cử biên soạn, Nhà xuất bản Sự Thật,
Hà nội, 1992; Một số vấn đề về dân số Việt Nam của GS.TS Đặng Thu, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, 1996; Một số vấn đề về dân số và phát triển từ
hớng tiếp cận xã hội học, Tơng lai chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
1992; Dân số, tài nguyên môi trờng của Đỗ Thị Minh Đức và Nguyễn Viết
Thịnh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội giáo dục, 1996; Môi trờng sinh thái
vấn đề và giải pháp của PGS.TS Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Giới - môi trờng và phát triển ở Việt Nam của
Viện Nghiên cứu dự báo - chiến lợc khoa học và công nghệ, Dự án
VIETPRO 2020. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Phát triển
nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở nớc ta của TS Trần Văn
Tùng và Lê ái Lâm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Con
ngời và môi trờng của TS Nguyễn Thị Ngọc ẩn, Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh, 1997; Dân số, con ngời và môi trờng -
Mối quan hệ phức hợp nhiều biến số của TS Trần Cao Sơn, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Pháp luật dân số Việt Nam - Giới thiệu và
bình luận, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Thông tin
Khoa học xã hội, 1995; Cơ sở văn hóa Việt Nam do GS Trần Quốc Vợng
chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục 1997. Gần đây còn có các công trình
nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học trong dự án VIE/97/P17 với các đề
4
tài Dân số và phát triển - Một số vấn đề cơ bản do GS.TS Lê Hữu Nghĩa
chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Dân số và phát
triển của PGS.TS Vũ Hiền và TS Vũ Đình Hòe đồng chủ biên, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
Song song với các công trình trên, chúng tôi còn tham khảo các báo
cáo, công trình khoa học đã đợc đăng tải trên các Tạp chí Cộng sản, Tạp chí

Triết học, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Khoa học xã hội, các bài báo
đã đợc đăng tải trên các báo Nhân Dân, Báo Tuổi trẻ, Báo Khoa học phổ
thông
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các tài liệu của các nhà khoa học
đã đi trớc nh: Luận án PTS khoa học địa chất của Đặng Kim Hồng với đề
tài: "Sự phát triển dân số và mối quan hệ của nó với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh"; Luận án PTS khoa học kinh tế của
Doãn Mậu Diệp với đề tài: "Mô hình hóa toán học một số quá trình dân số
và quan hệ dân số với kinh tế"; Luận án khoa học kinh tế của Đỗ Tiến Dũng
với đề tài: "Tác động của tăng trởng dân số đến môi trờng tự nhiên vùng
Tây Nguyên".
Chúng tôi còn tham khảo các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học nớc ngoài đã đợc dịch ra tiếng Việt nh: Michael P. Todaro trong
quyển Kinh tế học cho thế giới thứ ba. Nhà xuất bản Giáo dục, 1998;
Dejkin: Nói chuyện về sinh thái học, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội, 1985; các tuyên bố của các hội nghị về dân số và phát triển trên thế
giới; các cam kết của các chính phủ về vấn đề dân số và phát triển, về vấn
đề môi trờng
Các nhà khoa học đã có các công trình rất sâu sắc và toàn diện, thể
hiện sự băn khoăn, trăn trở của bản thân về vấn đề dân số và phát triển. Có
công trình khảo sát các biến động của dân c. Có công trình nghiên cứu quan
hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội. Có công trình lại khảo sát
5
quan hệ giữa kinh tế - xã hội đối với các quá trình dân số. Có công trình
khảo sát quan hệ tơng hỗ qua lại giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội
Tất cả là các công trình trên là nguồn tài liệu vô cùng đồ sộ và quý giá giúp
cho chúng tôi có các dữ liệu cần thiết để triển khai luận án.
Các công trình trên đã tiếp cận vấn đề dân số và phát triển ở nhiều
góc độ khác nhau nh góc độ dân số học, góc độ kinh tế học, góc độ xã hội
học , nhng dới góc độ triết học đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử còn ít, nhất là các công trình
nghiên cứu về sự tác động qua lại giữa dân số và phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận án:
Luận án làm rõ quan hệ tác động qua lại một cách biện chứng giữa
dân số và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên
cơ sở đó vạch ra những vấn đề mang tính quy luật chung phổ biến cho các
quốc gia đang phát triển có tốc độ gia tăng dân số tơng tự nh ở Việt Nam.
Luận án cũng đa ra những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt quan hệ
giữa dân số và phát triển của Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo, trớc
hết là giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
Nhiệm vụ của luận án:
Luận án làm rõ khái niệm dân số, phát triển, phát triển bền vững và
mối quan hệ biện chứng giữa dân và phát triển.
Luận án xác định rõ vai trò vị trí và tầm quan trọng của dân số trong
tồn tại xã hội cũng nh sự tác động của các yếu tố khác trong tồn tại xã hội
nh môi trờng địa lý và phơng thức sản xuất vật chất của xã hội đối với dân
số.
6
Phân tích vai trò của dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
cũng nh sự tác động của nền kinh tế, của giáo dục, y tế, tài nguyên môi tr-
ờng đối với các quá trình dân số.
Từ thực trạng quan hệ giữa dân số và phát triển ở nớc ta cũng nh
những vấn đề đặt ra luận án vạch ra các nguyên nhân và các giải pháp cho
vấn đề dân số bảo đảm cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nớc ta đợc liên tục
và bền vững.
4. Cơ sở và phơng pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học mác-xít, những tác phẩm kinh điển

của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, t t-
ởng Hồ Chí Minh, Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ; Hội
nghị Trung ơng lần thứ t (khóa VII) về công tác DS-KHHGĐ, các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học làm cơ sở lý luận và tài liệu của luận
án.
Thực tiễn biến động của các quá trình dân số Việt Nam, quá trình
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trớc và trong đổi mới cũng nh sự t-
ơng tác qua lại giữa dân số và phát triển của Việt Nam trong thời gian qua
làm cơ sở thực tiễn của luận án.
Phơng pháp nghiên cứu của luận án là phơng pháp lịch sử, logic, từ
tổng kết lịch sử rút ra những vấn đề mang tính quy luật. Từ các biểu mẫu
các số liệu thống kê qua các vấn đề về dân số và phát triển qua các giai
đoạn vạch ra các quy luật và xu hớng cho phát triển của các quá trình dân
số và phát triển.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Từ khảo sát thực trạng quan hệ giữa dân số và phát triển ở Việt Nam
trong hai giai đoạn trớc và sau đổi mới, luận án vạch ra những vấn đề mang
7
tính bản chất về quan hệ giữa dân số và phát triển của Việt Nam. Phân tích
các nguyên nhân tìm ra giải pháp trong giải quyết mâu thuẫn giữa dân số và
phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển ở Việt Nam luận án
vạch ra các xu hớng các vấn đề có tính quy luật về quan hệ trên làm cơ sở
cho công tác DS-KHHGĐ từ góc nhìn triết học.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 3 chơng, 9 tiết.
8
Chơng 1
Quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển

1.1. Những khái niệm xuất phát
1.1.1. Khái niệm dân số
Theo quan điểm chính thống, dân số là đại lợng tuyệt đối con ngời
trong một đơn vị hành chính (xã, phờng, huyện, tỉnh, vùng) hay một quốc
gia, một châu lục hoặc cả hành tinh chúng ta tại một thời điểm nhất định.
ở đây, chúng ta cần phân biệt giữa dân số và dân c, dân số với số
dân. Dân c là những tập hợp ngời sống trên một lãnh thổ đợc đặc trng bởi
kết cấu và các mối quan hệ qua lại với nhau xét về mặt kinh tế, bởi tính chất
của việc phân công lao động và c trú theo lãnh thổ. Còn số dân chỉ biểu thị
đơn thuần về mặt số lợng của dân số.
Dân số không phải là một số lợng con ngời đợc cộng lại một cách
giản đơn nh toán học, mà là một cộng đồng ngời sống trên một lãnh thổ tại
một thời điểm xác định. Vì thế, khái niệm dân số không chỉ biểu thị về mặt
số lợng, mà còn hàm chứa mặt chất lợng nh kết cấu, sự phân bố, trình độ
văn hóa Theo C.Mác và Ph.Ăngghen dân số với cả số lợng và chất lợng
của nó chính là "những cá nhân con ngời sống". Theo cách hiểu triết học thì
"dân số là số lợng ngời làm ăn sinh sống trong một vùng lãnh thổ nhất định
nào đó: một quốc gia, một địa phơng Vấn đề dân số bao gồm nhiều mặt
nh số lợng, chất lợng dân c, mật độ dân c, sự gia tăng dân số, sự phân bố
dân c theo lãnh thổ" [34, 422].
Nếu xem xét về mặt số lợng của dân số, theo quan điểm triết học,
đó là: "Số lợng dân c, mật độ dân c là thể hiện sức mạnh về lợng của dân số,
theo nghĩa: số ngời càng đông, sức mạnh càng lớn. Thực chất đây là sức
mạnh đợc tính theo cơ bắp, sức mạnh thuộc về thể lực của con ngời. Sức
9
mạnh về lợng của dân số phụ thuộc rất lớn vào trình độ tổ chức, quản lý,
vào sự đoàn kết [34, 422].
Sức mạnh về chất lợng của dân số là "sự thể hiện sức mạnh trí lực
của con ngời, lao động trí tuệ nh kỹ năng, kỹ xảo, năng lực thực hành
những hoạt động có hàm lợng khoa học cao, sự thông minh nhạy bén, ý chí

nghị lực. Sức mạnh về chất của dân số phụ thuộc rất nhiều vào chất lợng
cuộc sống, vào trình độ giáo dục, dân trí, vào truyền thống văn hóa, vào
trình độ phát triển của khoa học công nghệ" [34, 422].
Kết cấu của dân số có thể phản ánh thành phần, thể trạng về mặt
sinh học của dân c ở một lãnh thổ nào đó: có thể là thành phần kết cấu theo
độ tuổi hoặc theo giới tính. Kết cấu dân số cũng còn bao hàm cả những
thành phần thuộc tính xã hội của dân c trên một địa bàn lãnh thổ nào đó.
Ngời ta thờng xem xét kết cấu này theo các tiêu chí dân tộc, quốc tịch hoặc
là theo lao động, nghề nghiệp xã hội, trình độ văn hóa
Xem xét sự phân bố của dân số với tính cách là một hiện tợng xã
hội có tính quy luật - dân số học thờng đề cập đến nguyên nhân di chuyển
dân số, các hình thức quần c và các yếu tố ảnh hởng đến sự thay đổi hình
thức c trú của con ngời - trong đó có các yếu tố tự nhiên nh nớc, không khí,
khí hậu, đất đai và các yếu tố kinh tế, xã hội và lịch sử
Dân số là đối tợng nghiên cứu của nhiều bộ môn, nhiều ngành khoa
học, trong đó có bộ môn dân số học. Thuật ngữ dân số học xuất hiện lần
đầu tiên với t cách nh là một thuật ngữ khoa học vào năm 1855 trong một
cuốn sách nhan đề "Các thành phần thống kê của con ngời" của nhà khoa
học Pháp A.Ghiarơ. Dân số học có nhiệm vụ nghiên cứu quá trình tái sản
xuất dân c trong điều kiện lịch sử xã hội cụ thể trên một lãnh thổ nhất định.
Dân số học tìm hiểu tính quy luật và những điều kiện xã hội liên quan đến
việc sinh, tử, hôn nhân, chấm dứt hôn nhân, tái sản xuất dân c trong mối
quan hệ thống nhất biện chứng của quá trình này.
10
Trong cuốn "Triết học xã hội" của A.G.Xpirkin lại dùng khái niệm
"hệ thống dân số". Theo ông, "một nhân tố tự nhiên nữa của sự phát triển xã
hội loài ngời là dân c, là sự thờng xuyên tái sản xuất con ngời với tính cách
là những cá thể xã hội, tái sản xuất cuộc sống con ngời, tái sản xuất giống
ngời. Điều này đợc thực hiện trong khuôn khổ của hệ thống dân số của xã
hội " [119, 68]. Theo cách này, ta lại có thể hiểu dân số không chỉ đơn

thuần là một hiện tợng xã hội đơn lẻ, mà là một hệ thống xã hội. Tuy nhiên
ông lại coi dân số chỉ là dân c?
Trong "Từ điển triết học giản yếu" viết: "Dân c là toàn bộ ngời th-
ờng trú trong một khoảng thời gian lịch sử nhất định trên một địa bàn (một
nớc, một miền hay một địa điểm của một nớc, một vùng nhiều nớc, hoặc cả
thế giới). Dân c không phải là một khái niệm trừu tợng, một tổng số c dân,
mà là một tổng thể; cấu trúc của nó do một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định quyết định" [64, 113-114].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin thờng xem xét dân số
gắn với việc xem xét các nhu cầu hoạt động và nhu cầu sống của con ngời.
Vì thế mỗi khi nói đến dân số, các ông thờng xem xét nó trong mối quan hệ
với nhu cầu, nhất là sự gia tăng dân số thờng kéo theo sự gia tăng nhu cầu.
Theo chúng tôi, đây là một cách xem xét mối quan hệ giữa dân số và phát
triển. Phát triển chính là quá trình giải quyết các nhu cầu chân chính của
con ngời, và hơn thế nữa, chính là quá xem xét và giải quyết mối quan hệ
của những con ngời đang hoạt động, đang sống với những điều kiện, cả
những điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của sự hoạt động đó. Vì thế,
khi đề cập đến việc nghiên cứu phơng thức mà con ngời sản xuất ra những t
liệu sinh hoạt của mình, các ông nói: "Không nên nghiên cứu phơng thức
sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể
xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó đã là một hình thức hoạt động nhất
định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời
11
sống của họ, một phơng thức sinh sống nhất định của họ" [61, 269] và
"Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ nh thế nào thì họ là nh thế ấy; do
đó họ là nh thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản
xuất ra cũng nh với cách mà họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là nh thế
nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vất chất của sự sản xuất của
họ" [61, 269].
ở đây, chúng ta cũng cần xem xét cả mối quan hệ giữa các nhu cầu

với dân số và các mối quan hệ xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra mối
quan hệ kéo theo đó: " những nhu cầu đã tăng lên đẻ ra những quan hệ xã
hội mới và dân số đã tăng lên đẻ ra những nhu cầu mới" [61, 288] và vì thế
không xem xét sự phát triển chỉ trong quá trình giải quyết các nhu cầu, mà
còn trong quá trình giải quyết các quan hệ xã hội kéo theo bởi các nhu cầu đó.
Đối với triết học, nghiên cứu dân số chính là nghiên cứu một trong
ba yếu tố cấu thành tồn tại xã hội: tự nhiên, phơng thức sản xuất và dân số.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân
loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con ngời sống. Vì vậy, điều
đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối
quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên"
[61, 268] Theo quan điểm đó thì "những cá nhân con ngời sống" chính là
dân số với cả các yếu tố số lợng và chất lợng của nó. Vấn đề là chúng ta
nghiên cứu dân số để giải quyết mối quan hệ giữa sự phát triển của dân số,
của các "cá nhân con ngời sống" với sự phát triển của xã hội nói riêng và cả
tồn tại xã hội nói chung; nghiên cứu sự phát triển của dân số trong mối
quan hệ biện chứng của nó với sự phát triển. Vậy chúng ta hiểu phát triển là
gì?
1.1.2. Khái niệm phát triển và phát triển bền vững
Phát triển là gì? Sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan có vận
động và phát triển hay không? - Đó là câu hỏi mà nhân loại đã đặt ra từ lâu
12
và câu trả lời cũng rất khác nhau. Thời cổ đại, Hêracơlit đã có quan điểm về
sự biến đổi của cái hiện tồn, ông cho rằng thế giới không phải không vận
động mà là một quá trình. Trong quá trình đó bất kỳ sự vật, bất kỳ thực thể
nào cũng biến đổi, nhng không phải tùy tiện, mà là chuyển hóa sang mặt
đối lập của nó. Tuy nhiên, trong quan điểm phát triển của mình, ông ta cha
có quan điểm về phát triển đi lên.
Các quan điểm về phát triển thời cổ đại đợc Hêghen - nhà triết học
lỗi lạc ngời Đức kế thừa và phát triển lên tầm cao mới. Khi giải thích về sự

vận động và phát triển của "ý niệm tuyệt đối" ông đã sử dụng phép biện
chứng một cách tài tình và khéo léo. Tuy nhiên, sự vận động và phát triển
của ông lại là sự vận động và phát triển của "ý niệm tuyệt đối", chứ không
phải là sự vận động và phát triển của các sự vật, các hiện tợng.
Quan điểm siêu hình xem xét phát triển: thứ nhất - chỉ là sự tăng lên
hay giảm đi thuần túy về lợng, chứ không phải là sự thay đổi về chất, không
phải là sự ra đời của cái mới. Sự phát triển chỉ là sự thay đổi số lợng của
từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới, với những tính quy
định mới về chất, nếu có sự thay đổi về chất thì sự thay đổi đó cũng diễn ra
theo một vòng tròn khép kín. Thứ hai, quan điểm siêu hình còn xem sự phát
triển nh là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bớc quanh co
phức tạp. Lênin đã đánh giá quan điểm phát triển của họ là chết cứng nghèo
nàn và khô khan, là một loại quan niệm "nông cạn, thiếu suy nghĩ, ngẫu
nhiên, philixtanh". Theo quan niệm này thì chân lý sẽ bị tầm thờng hóa
hoặc bị bóp nghẹt. Vấn đề là ở chỗ bản thân quá trình của sự phát triển diễn
ra nh thế nào.
Chủ nghĩa duy vật triết học mác-xít xem phát triển là một phạm trù
triết học, dùng để khái quát quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một hình
thức đặc biệt của vận động, là vận động đi lên, là xu hớng tất yếu của thế
13
giới vật chất. Trong quá trình phát triển, sẽ nảy sinh những quy luật cao hơn
về chất, đó là một quá trình quanh co phức tạp. Lênin đã phân tích về chất
của quá trình phát triển, luận chứng tính tất yếu của cuộc đấu tranh của các
mặt đối lập với tính cách là nguồn gốc nội tại của quá trình này. Ông cho
rằng, quá trình phát triển đồng thời cũng là sự gián đoạn của tính liên tục.
Sự quá độ từ cái cụ thể này sang mặt đối lập của nó. "Sự phát triển là cuộc
đấu tranh của các mặt đối lập. Sự phát triển dờng nh diễn lại các giai đoạn
đã qua, nhng dới một hình khác ở một trình độ cao hơn. Sự phát triển ấy
diễn ra theo đờng xoắn ốc chứ không theo đờng thẳng. Sự phát triển bằng

những hình thức nhảy vọt, bằng những sự đột biến, bằng những cuộc cách
mạng, những bớc gián đoạn của sự tiến triển dần dần, sự biến đổi lợng
thành chất".
Đây là quan niệm về sự phát triển nói chung, sự phát triển biện chứng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của vấn đề, chúng ta cần xem xét sự phát triển
một cách cụ thể hơn. Đó là sự phát triển của xã hội, và gắn với nó là một
hiện tợng xã hội cụ thể, là một yếu tố cấu thành tồn tại xã hội: đó là dân số.
Nhng, trong thực tế lại có nhiều cách định nghĩa về phát triển khác nhau:
Quan niệm thứ nhất: Những năm 1960 và 1970 - đợc gọi là những
thập kỷ phát triển và phát triển hầu hết đều đợc hiểu phần lớn theo nghĩa là
khả năng đạt đợc tốc độ tăng GNP đạt hàng năm là 6 % [54].
Quan niệm thứ hai: Coi phát triển là hạn chế và xóa bỏ nạn nghèo
đói, bất công, bất bình đẳng và thất nghiệp trong bối cảnh của một nền kinh
tế đang tăng trởng Cụ thể hơn, họ còn cho rằng phát triển là một quá trình
nhiều mặt, liên quan đến những thay đổi trong cơ cấu, thái độ và thể chế xã
hội, cũng nh việc đẩy mạnh tăng trởng kinh tế, giảm bớt mức độ bất bình
đẳng và xóa bỏ tình trạng nghèo đói tuyệt đối Vì thế, họ coi phát triển là
và chủ yếu là phát triển kinh tế. Trong đó bao hàm cả việc tăng trởng kinh tế
và việc phân phối một cách rộng rãi các lợi ích kinh tế [100].
14
Quan niệm thứ ba: Coi phát triển là quá trình mà một xã hội đạt đến
thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản [37].
Quan niệm thứ t: Nói đến phát triển là nói đến việc nâng cao hạnh
phúc nhân dân. Việc nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức
khỏe và sự bình đẳng về cơ hội đều là những thành phần cốt yếu của phát
triển. Hơn thế, việc đảm bảo các quyền chính trị và công dân là một mục
tiêu của phát triển rộng lớn hơn.
Nh vậy, có nhiều quan niệm về sự phát triển: có quan niệm cho phát
triển gắn liền với tăng trởng hoặc đồng nhất phát triển với tăng trởng kinh
tế; có quan điểm cho phát triển không chỉ đơn thuần là tăng trởng kinh tế,

tỷc là tăng tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu ngời mà còn là những
tiến bộ về mặt xã hội nh xóa đói giảm bất công, thất nghiệp, nâng cao vai
trò và địa vị của ngời phụ nữ, hoàn thiện việc cung cấp giáo dục nhà ở và
chăm sóc sức khỏe nhân dân Sự phát triển nh thế thì tăng trởng kinh tế đ-
ợc coi là cốt lõi [100].
Theo chúng tôi, cách quan niệm thứ hai gần gũi và có sức thuyết
phục hơn cả. Để phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng
khái niệm phát triển theo nghĩa là sự phát triển của xã hội.
Từ quan niệm nh trên về phát triển chúng ta đi đến xem xét một
khái niệm khác đó là sự phát triển bền vững.
Trong lịch sử, việc nhận thức về sự phát triển bền vững là một quá
trình. Trớc kia, nhiều nhà t tởng cho rằng hạnh phúc ở đâu đó trong quá khứ
xa xăm và đã mất đi không cứu vãn nổi. Hê-xiốt cho rằng "Loài ngời đã
sống qua năm giai đoạn cơ bản, mỗi lần tựa hồ nh lại tụt xuống một
bậc thấp hơn của chiếc thang lịch sử" [119, 198-199]. Còn CNTB trong
khi chủ yếu chạy theo mục tiêu tăng trởng kinh tế, bỏ qua các yếu tố khác
của sự phát triển xã hội! Sau này ngời ta đa ra khái niệm về phát triển
bền vững.
15
Theo quan niệm chung thì phát triển bền vững là một loại hình phát
triển của xã hội và đợc hiểu theo các nội dung sau: Phát triển nhằm vào việc
giải quyết tốt các quan hệ xã hội: tạo ra công ăn việc làm, cải thiện các
quan hệ xã hội, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện tốt xóa đói giảm
nghèo Phát triển dựa trên cơ sở tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính; là tôn trọng, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển không phải
là vay mợn, không phải là nhờ làm hộ, không phải dựa trên nguồn lực nớc
ngoài, không phải là lai căng, mất gốc. Phát triển phải gắn với việc bảo vệ tốt
tài nguyên môi trờng, bảo vệ tính đa dạng sinh học, không phải nhằm vào vơ
vét tài nguyên thiên nhiên, không phải lấy tơng lai để duy trì hiện tại, không
phải là để lại đằng sau từng bớc phát triển của mình một bãi hoang mạc,

không đẩy thế hệ mai sau lâm vào hoàn cảnh phải đối mặt với hiện tợng "tự
nhiên quay lng lại với con ngời, trả thù con ngời". Phát triển bền vững cũng có
thể quan niệm "phải có một sự phát triển cân đối và thích hợp giữa các yếu
tố dân số, kinh tế văn hóa mới có sự phát triển bền vững của một quốc gia
một dân tộc" [45, 122]. "Phát triển bền vững hàm chứa yếu tố công bằng xã
hội và văn hóa đồng thời phát triển mà vẫn bảo vệ đợc sinh thái hay tái lập
một hệ sinh thái mới phù hợp cao phát triển lâu dài" [86, 29].
Theo chúng tôi, phát triển cần phải bảo đảm sự tồn tại lâu dài - đó là
sự phát triển bền vững. Từ quan niệm này chúng ta có thể coi: phát triển bền
vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không
làm hại đến khả năng các thế hệ tơng lai đáp ứng yêu cầu của họ.
Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển Cai rô từ 5-13/9 năm 1994
đã vạch ra chơng trình hành động quốc tế, trong đó có nêu: "Thừa nhận
những thực tiễn về lâu về dài hơn và quan hệ mật thiết của các hành động
ngày nay, sự thách thức về phát triển; là phải để đáp ứng những nhu cầu của
các thế hệ hiện tại và cải thiện chất lợng cuộc sống mà không phơng hại đến
khả năng của các thế hệ tơng lai đáp ứng các nhu cầu của mình" [24, 18].
16
Tính bền vững của sự phát triển cần phải xem xét theo các tiêu chí sau:
- Cân nhắc giữa lợi ích của thế hệ hiện tại và thế hệ tơng lai;
- So sánh giữa chi phí và lợi ích của tăng trởng kinh tế trong thế hệ
hiện tại;
- Lựa chọn cơ cấu các sản phẩm và dịch vụ đợc sản xuất ra trong
nền kinh tế có lợi nhất cho việc bảo vệ môi trờng;
- Nâng cao hiệu suất: giảm khối lợng đầu vào đối với 1 đơn vị khối
lợng đầu ra trong nền kinh tế;
- Sử dụng khả năng thay thế đối với những tài nguyên đang trở nên
khan hiếm ;
- áp dụng công nghệ sạch và tăng cờng công tác quản lý để giảm
nguy hại môi trờng trên một đơn vị kinh tế

1.2. Quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển
1.2.1. Quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển - lịch sử vấn đề
Từ hàng chục thế kỷ trớc Công nguyên, dân số đã là mối quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu. Sự quan tâm ấy lúc đầu cũng chỉ dừng lại ở các
câu hỏi và câu trả lời một cách trực quan, cảm tính; đôi khi lẫn với các
truyền thuyết, các huyền thoại mang đậm màu sắc tôn giáo. Sau đó dần dần
hình thành các học thuyết mang tính hệ thống hơn, khoa học hơn.
Cách đây khoảng 4000 năm, trong xã hội Ai Cập, Hy Lạp cổ đại,
con ngời đã chú ý đến vấn đề sinh đẻ, nhân khẩu và ảnh hởng của dân số
đến sự phát triển của xã hội, con ngời. Các nhà hiền triết của Ai Cập cổ đại
nh Hippocrat, Platôn, Aristốt, Dioscoris đã nhiều lần quan tâm, luận bàn
đến vấn đề dân số. T tởng của họ là muốn duy trì một dân số ổn định xuất
phát từ chính trị và xã hội hơn là từ kinh tế.
Thời kỳ của các ông, chế độ sở hữu và sự phân chia đất đai đã
không cho phép có một sự gia tăng dân số với tốc độ cao. Trong khi của cải
17
làm ra tăng không nhiều, thì việc giới hạn dân số là một ý tởng không thể
chấp nhận đợc. T tởng kinh tế của những ngời Hy lạp thời đó còn rất đơn
giản. Khi muốn ấn định dân số sống trong một đô thị lý tởng, Platôn (427-
347 tr.CN) đã chỉ nhằm vào ngời Hy Lạp tự do mà không chú ý tới kiều dân
ở đô thị Hy Lạp cổ và những ngời nô lệ là những ngời có thể sinh đẻ tùy ý.
Ông đã không quan tâm đến khía cạnh giữ cân bằng giữa số ngời cần phải
nuôi và nguồn lực sẵn có của nông nghiệp và cho rằng: ngời ta thờng đo sức
mạnh của một quốc gia bằng số dân, vì thế ngời ta thờng quan tâm đến số l-
ợng dân c hơn là chất lợng của nó. Theo Platôn: cờng quốc và quốc gia đông
dân không phải là một. Trong "Luật pháp luận" của mình, ông tuyên bố con
số công dân của một quốc gia chỉ nên ấn định là 5.040 ngời. Để duy trì dân
số ở mức đó, các vị thẩm phán cần quy định độ tuổi và số phôi ngẫu; và
nhất là: cần khuyến khích hay kìm chế sự sinh đẻ bằng phần thởng hay
trừng phạt, và loại trừ số thặng d nếu có bằng phơng pháp lu đày cỡng bách

Arixtốt (384-322 tr.CN) - là một học trò và cũng là ngời có quan
điểm gần gũi với Platôn trong lĩnh vực dân số, khi quan niệm rằng, đô thị
phát triển có căn nguyên từ gia đình. Ông đề nghị cần có một tổ chức bình
đẳng về xã hội để tránh xuất hiện một giai cấp ngời nghèo. Theo ông, dân
số gia tăng là một yếu tố của sự bần cùng hóa, vì thế số lợng dân c trong
một đô thị cần phải ổn định, tơng thích với một không gian hợp lý. Cái cốt
yếu của đô thị là tự nó phải đủ với nó. Đô thị không nên quá nhỏ vì nó cản
trở sự phân công lao động xã hội và các hoạt động kinh tế cần thiết khác
nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị dân. Nhng nếu số lợng dân c quá lớn sẽ dẫn
tới một số lợng ngời nghèo đông đúc, việc quản lý đô thị sẽ trở nên khó
khăn hơn và có nguy cơ rối loạn. Từ quan điểm bảo đảm một dân c hợp lý
đó, ông cho rằng cần có một luật pháp để tạo ra một loạt các biện pháp
giảm sinh nh làm trụy thai hoặc cần trao cho các vị thẩm phán quyền ra
18
lệnh phá thai hay giết trẻ em bằng cách vứt những đứa trẻ ngoài mong
muốn vào lửa để kiểm soát số dân.
Trong t tởng triết học phơng đông cổ đại, ngời ta còn nhắc đến t t-
ởng của Lão Tử và Khổng tử. Lão Tử (thế kỷ thứ VI trớc Công nguyên), nhà
triết học cổ đại Trung Quốc đã từng quan niệm nếu một quốc gia nhỏ bé thì sẽ
có cuộc sống hạnh phúc. Còn Khổng Tử (551-497 trớc Công nguyên) lại rất
chú ý đến vấn đề dân số; nhất là mối quan hệ giữa dân số và tài nguyên môi
trờng. Ông cho rằng giữa số dân và diện tích đất đai có mối quan hệ cân
đối. Nếu tính cân đối đó không đợc duy trì, chẳng hạn nh dân số ít thì đất
đai bị bỏ không, hoặc là dân số thừa thì sẽ gặp nhiều khó khăn. T tởng của
Khổng Tử về mối quan hệ giữa dân số và môi trờng, sau này vào thế kỷ thứ
XX đã đợc lý thuyết "dân số tối u" phát triển, nâng cao [95].
Nh vậy, ngay từ thời cổ đại, ngời ta cũng đã rất quan tâm đến dân số
trong quan hệ đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nhiều nhà t tởng
lớn thời kỳ đó, đã xuất phát và dựa vào những điều kiện về chính trị, xã hội
để quan sát các quá trình dân số. Các ông khẳng định rằng, để ổn định xã

hội cần phải ổn định dân số. Trong các luận điểm của các ông đã chứa đựng
nhiều nhân tố hợp lý, trong đó có cả quan điểm cho rằng nhà nớc phải quan
tâm quản lý các quá trình dân số. Tuy nhiên, những điều kiện lịch sử lúc đó
cha cho phép các ông tiến xa hơn nữa trong việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa dân số và phát triển; và góc nhìn chủ yếu của các ông chính là góc
nhìn chính trị, xã hội
Đến thời trung cổ, các quan điểm về dân số lại chịu sự chi phối bởi
các quan điểm của tôn giáo. Các quan điểm trong thời kỳ này, do bị ảnh h-
ởng của nhà thờ, thờng phủ nhận những ý tởng của các nhà triết học thời cổ
đại Hy Lạp về dân số. Một mặt, họ thừa nhận sự gia tăng dân số là một thực
tế không tránh đợc, mặt khác, lại không xem xét dân số trong mối quan hệ
với kinh tế, chính trị, xã hội; mà xem nó nh một hiện tợng tự nhiên, do ý
19
muốn của đức chúa trời hoặc một lực lợng thần bí nào đó, ngoài con ngời
chi phối. Do đó, họ phủ nhận hoàn toàn những ảnh hởng của việc gia tăng
dân số đối với đời sống kinh tế chính trị, văn hóa của con ngời, và sự can
thiệp của con ngời vào quá trình gia tăng dân số.
Trong thời kỳ Phục hng (thế kỷ XV - XVI) phải kể đến t tởng dân số
của chủ nghĩa trọng thơng và chủ nghĩa trọng nông.
Chủ nghĩa trọng thơng cho rằng, dân số tăng cao sẽ kích thích sự
phát triển về kinh tế, và dân số đông là biểu hiện sự cờng thịnh của một
quốc gia. Chẳng hạn, Jean Bodin (1530-1596) - nhà chính trị Pháp, một tác
giả điển hình của chủ nghĩa trọng thơng Pháp đã cho rằng: "Chỉ có thể giàu có
và có sức mạnh bằng những con ngời" [73, 27]. Vì thế, chủ nghĩa trọng th-
ơng tích cực ủng hộ việc tăng nhanh dân số, tạo điều kiện để cho số dân c
của một nớc tăng lên, nhất là tăng nhanh những ngời thợ thủ công tài giỏi,
kể cả là ngời nớc ngoài. Thậm chí nh ở nớc Pháp có giai đoạn chính phủ
khuyến khích kết hôn sớm và bảo vệ những gia đình đông con.
Ngợc lại, chủ nghĩa trọng nông lại không xem dân số đông là một
yếu tố hùng cờng của một quốc gia. Họ nhấn mạnh vai trò của lơng thực,

thực phẩm và sự phát triển của nông nghiệp nói chung; rằng khối lợng lơng
thực, thực phẩm nói riêng và sự giàu có của cải xã hội nói chung cùng với
lối sống và phong tục xã hội sẽ chi phối, quy định sự sinh sôi, nảy nở của
con ngời. Đến lợt nó, chính dân số sẽ tự điều chỉnh cho phù hợp với sự gia
tăng của lơng thực, thực phẩm. Cuối thế kỷ XVI, Botero - ngời ý, cho rằng:
sự thiếu thực phẩm sẽ hạn chế việc sinh sôi nảy nở của loài ngời, nhng nguy
cơ này có thể tránh đợc, nhờ vào các biện pháp di dân và sự tăng gia sản
xuất.
Nh vậy thời kỳ này tồn tại hai trờng phái khác nhau về dân số: một
trờng phái thì coi trọng sự gia tăng dân số; một trờng phái thì coi trọng sự
phát triển lơng thực, thực phẩm.
20
Xem xét t tởng dân số cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX
chúng ta cần nghiên cứu sự ra đời và những nội dung cơ bản của học thuyết
dân số của Thomas Rôbơt Malthus.
Thomas Rôbơt Malthus (1766-1834) - một nhà kinh tế học và mục
s ngời Anh, vào năm 1798 đã công bố học thuyết nổi tiếng của mình về mối
quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế. Trong quyển sách "Bàn về dân số"
ông cho rằng, các quy luật tự nhiên quyết định tính tất yếu của sự không
phù hợp ngày càng lớn giữa nhịp điệu gia tăng dân số và nhịp điệu tăng t
liệu sinh hoạt (lơng thực và thực phẩm ). Ông chứng minh quy luật đó về
mặt toán học, mà theo đó thì sở dĩ quần chúng nhân dân sống nghèo đói và
chịu đau khổ là do dân số tăng lên theo cấp số nhân, còn t liệu sinh hoạt (l-
ơng thực, thực phẩm ) chỉ tăng lên theo cấp số cộng. T tởng về dân số của
ông bao hàm những nội dung chính sau đây:
- Việc sinh sản ở con ngời cũng giống nh mọi sinh vật khác mang
tính tự nhiên, đó là do sự đam mê giới tính qui định. Kết quả là qui mô dân
số tăng lên theo qui luật toán học, là một cấp số nhân: 1; 2; 4; 8; 16; 32; 64;
128; 256. Cứ khoảng 25 năm dân số lại tâng gấp đôi.
- Khi đó, do quy luật " giảm dần sự màu mỡ của đất đai" lơng thực,

thực phẩm chỉ có thể là tăng theo cấp số cộng, tỷc là:1; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9
- Nh vậy, nếu tại một thời điểm nào đó, sự tơng quan dân số và lơng
thực là1/1 thì sau 2 thế kỷ tơng quan đó là 256/9 và sau 3 thế kỷ sẽ là
4069/13 và sau 2000 năm sự chênh lệch giữa dân số và lơng thực sẽ vô
cùng lớn. Đó là nguyên nhân đói nghèo của một bộ phận lớn dân c và nh
vậy đói nghèo mang tính tự nhiên.
- Sự phát triển theo cấp số nhân của dân số chỉ có thể chậm lại, do
hai loại nguyên nhân:
Các yếu tố tàn phá: bệnh dịch, nạn chiến tranh
Các yếu tố thiết chế: kết hôn muộn, kiềm chế tình dục
21
Malthus là ngời đầu tiên chỉ ra mối tơng quan giữa dân số tăng lên
rất nhanh với sự gia tăng của lơng thực, thực phẩm và trong thực tế của sự
phát triển của các thế kỷ nối tiếp đã chứng minh điều đó. Hơn thế nữa ý
kiến của ông cũng là một lời khuyên cáo cho toàn thể loài ngời về một tai
họa cần tránh. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau trong việc đánh giá
Malthus. Khi đánh giá rõ ràng, chúng ta cần dựa trên tính chất và hoàn cảnh
lịch sử của thời đại mà ông đang sống. Trong các biện pháp mạnh mẽ của
ông có thể có những sai lầm, nhất là khi ông cho rằng: cần phải tạo ra các
điều kiện để cho các tác động của tự nhiên gây ra cái chết, cần phải khuyến
khích một cách thật lòng những lực lợng tàn phá khác của tự nhiên với mục
đích hạn chế sự gia tăng dân số Có thể những sai lầm của ông bắt nguồn
từ chỗ, trong hoàn cảnh lịch sử mà ông đang sống, không thể nào tiên đoán
đợc sức sản xuất lại mạnh đến nh vậy. Điều này đợc thấy rõ khi so sánh từ
năm 1950 đến năm 1970, trong khi dân số tăng 40% thì tổng sản phẩm xã
hội thế giới tăng 170%.
Vào thế kỷ XIX, các nhà triết học, các nhà xã hội học, các nhà kinh
tế học lần lợt phê phán học thuyết dân số của Malthus. J.B. Say cho rằng:
"Các phơng tiện sinh tồn tăng nhanh hơn dân số". Emille Dukheim cho
rằng, sự phát triển dân số kéo theo nó là một sự thay đổi về chất lợng của xã

hội. Các nhà t tởng theo trào lu xã hội chủ nghĩa lại cho rằng tổ chức xã hội
là vấn đề hàng đầu để giải quyết nạn "nhân mãn" chứ không phải là vấn đề
điều chỉnh qui mô dân số
Sau này những ngời theo trờng phái tân Malthus lại cho rằng, muốn
xóa bỏ sự nghèo đói, sự không phù hợp giữa tăng dân số và tăng của cải vật
chất thì chỉ có một biện pháp làm giảm dân số xuống một cách mạnh mẽ
bằng chiến tranh, bằng bệnh dịch. Các nớc nghèo sẽ không bao giờ có thể
nâng cao đợc thu nhập theo đầu ngời của mình trên mức tối thiểu, trừ phi họ
đa ra đợc các biện pháp tránh thai để hạn chế việc gia tăng dân số. Nếu
không có những biện pháp nh vậy thì chắc chắn sẽ xuất hiện những hiện t-
22
ợng nh: nạn đói, bệnh tật, chiến tranh để thực hiện những nhiệm vụ này.
Quan điểm này đã đợc trờng phái tân Malthus vào những năm đầu của thế
kỷ XX tiếp tục phát triển. Họ cho rằng không thể bảo đảm đợc thực phẩm
cần thiết cho một dân c ngày càng tăng nhanh trên trái đất; vì thế sự nghèo
đói, sa sút về đạo đức và tội ác phát triển là tất yếu hợp quy luật.
Trong khi nghiên cứu các quá trình dân số, đặc biệt là trong các nớc
đang phát triển, ngời ta hay nhắc đến học thuyết quá độ dân số. Đây là một
học thuyết dựa trên cơ sở những biến đổi về dân số châu Âu vào lúc bắt đầu
cuộc cách mạng công nghiệp. Mô hình xây dựng lý thuyết này dựa trên việc
quan sát các biến đổi dân số châu Âu trong thời kỳ đó, và cho rằng các xu
hớng trong tỷ suất sinh và quy mô gia đình trong một dân c đợc quyết định
bởi các xu hớng của sản xuất kinh tế. Theo học thuyết này, hiện tợng biến
đổi dân số chia làm bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ năm 1750 đến 1800 tỷ suất sinh và tỷ suất tử tơng
đối cao, gia tăng dân số tự nhiên thấp (khoảng 0,5%/năm)
Giai đoạn 2: Từ năm 1800 đến 1875 tỷ suất sinh tiếp tục tăng cao
nhng tỷ suất chết ngày càng giảm, dẫn đến tỷ suất gia tăng tự nhiên cao
(2%/ năm)
Giai đoạn 3: Từ năm 1875 đến 1950 tỷ suất sinh giảm và tỷ suất

chết tiếp tục giảm đến mức thấp nhất: tỷ suất gia tăng tự nhiên bắt đầu giảm
dần.
Giai đoạn 4: Từ năm 1950 đến 1975 tỷ suất sinh và tỷ suất chết đều
ở mức thấp: tỷ suất gia tăng tự nhiên thấp và tạo nên ổn định dân số.
Học thuyết quá độ dân số đã chú ý tới sự thay đổi về tỷ suất sinh và
tỷ suất chết ở các giai đoạn khác nhau của những nớc phát triển, khi mà các
nớc chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp và
đô thị. Học thuyết này có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu dân số ở các
nớc đang phát triển. Các nớc đang phát triển cần xác định quá trình dân số
23
nớc mình, dân tộc mình đang ở vào giai đoạn nào của quá trình phát triển
dân số. Tuy nhiên, quá trình quá độ dân số ở một số nớc đang phát triển diễn
ra không hoàn toàn giống với các nớc đã phát triển. Do các nớc đang phát
triển nhờ áp dụng một cách có hiệu quả những thành tựu y học hiện đại từ
các nớc phát triển nên tỷ suất tử giảm nhanh chóng, nhng tỷ suất sinh lại
vẫn tăng cao, nên dẫn tới sự gia tăng dân số lớn.
Quan hệ giữa dân số và phát triển sau này cũng đợc trình bày trong
lý thuyết dân số tối u. Học thuyết dân số tối u xuất phát từ hai thực trạng
trên thế giới, nhiều quốc gia có số dân quá đông khiến cuộc sống gặp nhiều
khó khăn, tình trạng đói ăn diễn ra thờng xuyên, nạn suy dinh dỡng trở nên
phổ biến. Trong khi đó, ở một vài nơi, một vài quốc gia lại có mật độ dân số
không cao, dân c tha thớt. Cả hai trờng hợp trên đều dễ gây nên những khó
khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Từ hai thực trạng trên, lý
thuyết dân số tối u ra đời. Theo lý thuyết đó, một quốc gia muốn phát triển
kinh tế - xã hội thuận lợi cần phải có dân số phù hợp nhằm tiến tới một dân
số hợp lý.
Hạn chế chủ yếu của lý thuyết dân số tối u là ở chỗ không tính đến
những biến động của kinh tế - xã hội. Thực tế đã cho thấy, một khi có sự tác
động của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm cho sản xuất phát triển không
ngừng, việc phát hiện ra các nguồn tài nguyên mới, các nguồn vật liệu mới

đã làm thay đổi một cách cơ bản cơ cấu lao động, thay đổi nhanh chóng
năng suất lao động tất yếu và điều đó làm thay đổi một cách cơ bản thu
nhập bình quân đầu ngời. Do đó, lý thuyết dân số tối u có ý nghĩa nh một
định hớng tổng quát trong việc nghiên cứu quan hệ giữa dân số và phát
triển.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XX trớc tình hình dân số thế giới
gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là sự gia tăng dân số ở các nớc nghèo đã thu hút
24
sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà chính trị trên thế giới. Năm
1954, Hội nghị quốc tế về dân số đầu tiên đợc tổ chức tại Roma (Italia).
Đến năm 1965 Hội nghị quốc tế về dân số lần thứ hai lại đợc triệu tập tai
Belgrade (Liên bang Nam T). Hai hội nghị này mang tính chất trao đổi
chuyên ngành dới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, tạo cơ sở tiền đề cho các
kỳ họp sau này.
Hội nghị quốc tế về dân số lần thứ ba họp ở Bucarét (năm 1974) có
136 nớc tham dự với quan điểm nổi bật: "Phát triển là viên tránh thai tốt
nhất". Tuy nhiên, tại Hội nghị này vẫn còn bất đồng khá lớn giữa các dòng
t tởng về dân số và phát triển: Các quan điểm tôn giáo thì nhấn mạnh quyền
đợc sống của thai nhi, quyền sinh sản của con ngời; một số nớc giàu có, có
nhiều tài nguyên thì cho rằng: giảm sinh gây trở ngại cho phát triển do
không khai thác hết các khả năng tự nhiên của con ngời. Nhiều nớc cho
rằng: nhất thiết phải giảm sinh, bởi vì đó là điều kiện cơ bản của việc điều
tiết mức gia tăng dân số. Các nớc đang phát triển cũng nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc bảo đảm sự phân phối công bằng hơn các nguồn lực kinh tế
giữa các quốc gia trên thế giới.
Hội nghị quốc tế về dân số lần thứ t họp ở Mêhico (năm 1984) cho
rằng cần hạn chế gia tăng dân số và ra sức phát triển kinh tế - xã hội. Tại
hội nghị này đã thống nhất đợc bốn điểm rất cơ bản về quan hệ giữa dân số
và phát triển:
- Dân số tăng không phải là nguyên nhân duy nhất của mức sống

thấp, của sự bất bình đẳng và thiếu tự do ở các nớc thuộc thế giới thứ ba.
Mà nguyên nhân cơ bản của các hiện tợng đó có thể tìm thấy ở bản chất của
nền kinh tế, ở nền kinh tế từng quốc gia và ở trật tự xã hội.
- Vấn đề dân số không phải chỉ đơn thuần về số lợng mà bao gồm cả
chất lợng cuộc sống, phúc lợi vật chất xã hội. Do đó, dân số các nớc chậm
phát triển đợc xem xét trong mối quan hệ với sự giàu có, sung túc của các
25

×