Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Diễn đàn Thương mại Điện tử Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.5 KB, 16 trang )

Diễn đàn Thương mại Điện tử Việt Nam > Thương mại điện tử tác nghiệp - e-Commerce
Operation > Thanh toán Thương mại điện tử - e-Payment Solutions > Ngân hàng điện tử
PDA
View Full Version : Ngân hàng điện tử
pthophuong
10th-10-2008, 09:44
Ngân hàng điện tử (e-banking) bao gồm các sản phẩm điện tử hoàn hảo và quen thuộc
với thị trường phát triển, như là ngân hàng qua điện thoại, thẻ tín dụng, ATM và đặt cọc
trực tiếp. Nó cũng bao gồm thanh toán hoá đơn điện tử và các sản phẩm chiếm phần lớn
trong giai đoạn phát triển, bao gồm thẻ lưu giữ giá trị (thẻ thông minh/tiền thông minh)
và các sản phẩm lưu giữ giá trị trên Internet.
Các phương pháp thanh toán và vấn đề bảo mật: Trường hợp của Trung quốc
Tại Trung quốc, trong khi ngân hàng phát hành thẻ tín dụng và trong khi nhiều thẻ ghi nợ
được rút trực tiếp từ tài khoản ngân hàng, có rất ít người sử dụng thẻ tín dụng của họ cho
thanh toán trên mạng. Trả tiền lúc giao hàng vẫn là phương thức phổ biến nhất trong
thanh toán thương mại điện tử. Tuy nhiên thanh toán trên mạng đang đạt được số đông
bởi vì sự xuất hiện của Chinapay và Cyber Beijing, đưa ra một hệ thống thanh toán trên
mạng toàn thành phố
Vai trò của ngân hàng điện tử tại các nước đang phát triển là gì?
Ngân hàng điện tử tại các nước đang phát triển đang trong giai đoạn bắt đầu phát triển.
Phần lớn dịch vụ ngân hàng tại các nước phát triển vẫn được thực hiện theo cách thông
thường. Tuy nhiên, có một sự tăng trưởng các dịch vụ ngân hàng trên mạng, chỉ ra một
tương lai hứa hẹn của các dịch vụ ngân hàng trên mạng tại các nước này. Dưới đây là bức
tranh rộng lớn về ngân hàng điện tử tại ba nước ASEAN.
Kinh nghiệm của Philippin
Tại Philippine, Citybank, Bank of Phillipine Islands (BPI), Philippine National Bank và
các ngân hàng lớn khác đã tiên phong về ngân hàng điện tử vào đầu những năm 1980.
Mạng liên ngân hàng trong nước như Megalink, Bancnet và BPI Expressnet là những
người tiên phong sớm nhất
và lớn nhất về công nghệ ATM. BPI đưa ra BPI express online vào tháng
1/2000. Các dịch vụ tài chính chung nhất bao gồm đặt cọc, chuyển tiền, mở


tài khoản mới, ngừng thanh toán cho séc đã ban hành, nợ mua nhà và ô tô, thẻ tín dụng và
chuyển tiền.
Kinh nghiệm của Singapore
Tại Singapore, hơn 28% người sử dụng Internet vào các trang web ngân hàng điện tử vào
tháng 5/2001. 36 Nghiên cứu của NetValue (Một công ty trên Internet) chỉ ra rằng trong
khi số lượng người tham gia vào ngân hàng điện tử tại Singapore tăng lên, thời gian trung
bình cho các trang web này giảm xuống xấp xỉ gần 4 lần từ tháng ba đến tháng 5/2001.
Sự giảm xuống này có thể do yếu tố rằng nhiều khách hàng sử dụng thời gian để hoàn
thành những giao dịch tốn ít thời gian hơn là vào các trang web khác. Theo như khảo sát,
hai trong ba khách hàng thực hiện giao dịch. Tất cả các ngân hàng chính ở Singapore có
sự hiện diện Internet. Những ngân hàng này đưa ra một loạt sản phẩm trực tiếp tới khách
hàng qua các trang web Internet. Những ngân hàng này đã chuyển từ sự tập trung ban đầu
vào các dịch vụ ngân hàng bán lẻ sang các công ty vừa và nhỏ và các sản phẩmdịch vụ
ngân hàng cho các tổ hợp công ty.
Các sản phẩm đưa ra gồm có
- Chuyển tiền qua hệ thống thanh toán
- Lồng ghép các sản phẩm thương mại điện tử B2B, liên quan tới chọn sản phẩm, đặt
hàng mua, phát hành hoá đơn và thanh toán
- Đặt hàng chứng khoán và bảo hiểm, các hoạt động thị trường vốn
- Mua bán chứng khoán
- Dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Kinh nghiệm của Malaysia
Ngân hàng điện tử của Malayxia bắt đầu vào năm 1981 với sự giới thiệu của
hệ thống ATM. Sau đó là sự ra đời của ngân hàng qua điện thoại vào đầu những năm
1990 với những thiết bị viễn thông được nối với hệ thống tự động qua việc sử dụng công
nghệ tự trả lời bằng tiếng (AVR). Sau đó là các dịch vụ ngân hàng qua máy tính sử dụng
các phần mềm thích hợp, phổ cập với các khách hàng công ty hơn là khách hàng bán lẻ.
Vào 1/6/2000
, Malaysian Bank đã cho phép các ngân hàng thương mại đưa ra các dịch vụ ngân hàng
trên Internet. Vào 15/6/2000, Maybank, một trong những ngân hàng lớn nhất ở Malaysia

đã đưa ra dịch vụ ngân hàng Internet đầu tiên.
Ngân hàng này đã áp dụng công nghệ mã hoá 128 bit nhằm bảo mật các giao dịch của
mình. Các ngân hàng địa phương khác đưa ra các dịch vụ ngân hàng điện tử là Southern
Bank, Hong Leong Bank, HSBC bank, Multi-purpose Bank, Phileo Allied Bank và RHB
Bank. Các ngân hàng đưa ra công nghệ WAP và Mobile Banking là OCBC Bank, Phileo
Allied Bank và United Overseas Bank.
Các dịch vụ ngân hàng điện tử thương mại chung nhất bao gồm các chức năng yêu cầu
ngân hàng, thanh toán hoá đơn, thanh toán thẻ tín dụng, chuyển tiền, chia đầu tư, bảo
hiểm, du lịch, mua hàng trên mạng và các dịch vụ ngân hàng cơ bản khác.
Những yếu tố thị trường, cản trở và vấn đề ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng
điện tử tại các nước đang phát triển.
Các thu ngân viên và máy rút tiền tự động tiếp tục là những kênh ngân hàng
lựa chọn tại các nước đang phát triển. Chỉ có số lượng nhỏ ngân hàng ứng dụng ngân
hàng Internet. Giữa những người có thu nhập trung bình và cao ở
châu Á được phỏng vấn trong khảo sát của McKinsey, chỉ có 2,6% thực hiện ngân hàng
Internet trong năm 2000. Tại Ấn độ, Indonesia và Thái lan, con số
đó còn dưới 1%, tại Singapore và Hàn quốc, là từ 5 tới 6%. Nhìn chung ngân hàng
Internet chiếm ít hơn 0,1% các giao dịch ngân hàng của khách hàng, như là trong năm
1999. Internet thì được sử dụng nhiều hơn trong việc mở
tài khoản mới nhưng số lượng không đáng kể ít hơn 0,3% được sử dụng, trừ
Trung quốc và Philipine nơi số lượng này tăng lên 0,7% và 1% lần lượt.
Số lượng nhỏ này không thể do việc hạn chế tiếp cận tới Internet khi 42% số
người được phỏng vấn nói rằng họ truy cập máy tính và 7% nói rằng họ truy cập vào
Internet. Cản trở lớn nhất ở châu Á và ảnh hưởng tới thị trường đang
phát triển này là tính bảo mật. Đây là lý do chính cho việc không mở tài
khoản trên mạng và tài khoản đầu tư. Rõ ràng người ta thích sự liên lạ các nhân hơn tới
ngân hàng.
Tiếp cận tới các sản phẩm chất lượng cao cũng là một vấn đề. Phần lớn các ngân hàng ở
châu Á đang trong giao đoạn đầu của các dịch vụ ngân hàng qua Internet và nhiều các
dịch vụ này rất cơ bản.

Xu hướng và viễn cảnh của ngân hàng điện tử tại những nước này là gì?
Có tiềm năng cho việc tăng trưởng ứng dụng ngân hàng điện tử tại châu Á. Những người
phỏng vấn của McKinsey đã đưa ra các chỉ số sau:
1. Những người sử dụng tiên phong: 38% những người được phỏng vấn cho rằng họ có ý
định mở một tại khoản trên mạng trong tương lai gần. Những người sử dụng đi đầu này
thực hiện nhiều hơn 1/3 số giao dịch so với những người sử dụng khác và họ có ý định áp
dụng tất cả các kênh của ngân hàng thường xuyên hơn.
2. Những người theo sau: Khoảng 20% nữa chỉ ra rằng cuối cùng họ sẽ mở một tài khoản
trên mạng nếu tổ chức chính đưa ra và nếu không có phí ngân hàng nào thêm vào
3. Những người từ chối: 42% (so với con số 58% của những người đi đầu
và những người theo sau) cho rằng họ không hứng thú với hoặc không muốn dịch vụ
ngân hàng Internet. Cần nhấn mạnh rằng những người được phỏng
vấn này thích sự chắc chắn và đơn giản, chẳng hạn như sở hữu ít hơn các sản phẩm ngân
hàng và giải quyết ít hơn với các tổ chức tài chính. Ít hơn 13% những người sử dụng đi
đầu và những người theo sau chỉ ra một số quan tâm tới việc thực hiện các hoạt động
phức tạp trên Internet như là mua bán cổ phiếu hay nộp đơn bảo hiểm, thẻ tín dụng và nợ.
Khoảng 1/3 những người sử dụng dẫn đầu và những người theo sau chỉ thực hiện những
chức năng ngân hàng cơ bản như là tìm kiếm số dư tài khoản, chuyển tiền giữa các tài
khoản qua Internet.
st
pthophuong
17th-11-2008, 13:09
Dịch vụ ngân hàng điện tử là gì?
Mạng Internet, mạng viễn thông và các mạng thông tin khác giứp con người thực hiện
toàn bộ hoặc một phần các giao dịch qua mạng một cách thuận tiện và nhanh chóng, vì
nó khắc phục được trở ngại về khoảng cách địa lý giữa các bên tham gia giao dịch. Điển
hình như:
- Mua sách “Internet Banking and the Law in Europe” của Đại học Cambridge ở Anh: Từ
Việt Nam, bạn có thể đặt mua thông qua website
=9780521860710, thanh toán trực tuyến bằng thẻ

Visa, Mastercard hay American Express. Sau đó, sách sẽ đư ợc chuyển phát nhanh cho
bạn. Giao dịch này được thực hiện một phần qua mạng Internet (đặt mua theo các biểu
mẫu điện tử trên trang web, thanh toán điện tử) và khâu giao nhận được thực hiện trong
thế giới thực.
- Thuê phim “Night at the Museum”: Khách hàng ở các bang khác nhau của Mỹ có thể
thuê phim này qua website www.amazon.com, thanh toán qua mạng và download phim
về máy tính của mình để xem. Giao dịch này được thực hiện hoàn toàn trong môi trường
mạng Internet, từ việc điền thông tin đặt hàng vào các biểu mẫu điện tử trên web, đến
việc thanh toán điện tử và nhận hàng là tập tin số hóa.
Các giao dịch nêu trên được gọi chung là giao dịch điện tử. Vậy phải chăng giao dịch
điện tử là giao dịch được thực hiện toàn bộ hay một phần qua mạng Internet và các mạng
thông tin khác
Theo khoản 6 và khoản 10 điều 4 Luật giao dịch điện tử được Quốc hội Việt Nam thông
qua ngày 29/11/2005, giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện
điện tử. Trong đó, phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện,
điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ
tương tự.
Căn cứ quy định nêu trên, giao dịch mua hàng tại quầy và thanh toán bằng thẻ tín dụng,
tức quẹt thẻ vào máy bán hàng để tự động in ra sao kê thẻ và hóa đơn bán hàng thì được
xem là giao dịch điện tử vì thẻ tín dụng là phương tiện điện tử.
Nhận thấy khái niệm giao dịch điện tử không chỉ giới hạn trong phạm vi mạng Internet và
các mạng thông tin khác, mà còn mở rộng ra đối với tất cả các giao dịch được thực hiện
bằng phương tiện điện tử. Do đó, giao dịch điện tử trong dịch vụ ngân hàng là giao dịch
bằng phương tiện điện tử trong dịch vụ ngân hàng, nói cách khác là dịch vụ ngân hàng
được giao dịch bằng phương tiện điện tử (gọi tắt là “dịch vụ ngân hàng điện tử”).
Bloody Baron
17th-11-2008, 13:56
Hì, xem qua có vẻ như dịch vụ của e-Banking gần như bao trùm hết cả e-Payment rùi
nhỉ :)
pthophuong

17th-11-2008, 17:49
Hì, xem qua có vẻ như dịch vụ của e-Banking gần như bao trùm hết cả e-Payment rùi
nhỉ :)
Lạc đề nha. Muốn có e-payment thì phải có e-banking phát triển mạnh chứ :brows:
Happy_4_U
26th-08-2009, 22:27
Mình đang rất quan tâm tới mảng Internet Banking của các ngân hàng Việt Nam và nước
ngoài. Phương có tài liệu gì hay thì Share cho cả nhà nhé!
:welcome::welcome::welcome:
Happy_4_U
31st-08-2009, 10:01
1. Dịch vụ ngân hàng điện tử là gì?
Mạng Internet, mạng viễn thông và các mạng thông tin khác giứp con người thực hiện
toàn bộ hoặc một phần các giao dịch qua mạng một cách thuận tiện và nhanh chóng, vì
nó khắc phục được trở ngại về khoảng cách địa lý giữa các bên tham gia giao dịch. Điển
hình như:
- Mua sách “Internet Banking and the Law in Europe” của Đại học Cambridge ở Anh: Từ
Việt Nam, bạn có thể đặt mua thông qua website:
thanh
toán trực tuyến bằng thẻ Visa, Mastercard hay American Express. Sau đó, sách sẽ đư ợc
chuyển phát nhanh cho bạn. Giao dịch này được thực hiện một phần qua mạng Internet
(đặt mua theo các biểu mẫu điện tử trên trang web, thanh toán điện tử) và khâu giao nhận
được thực hiện trong thế giới thực.
- Thuê phim “Night at the Museum”: Khách hàng ở các bang khác nhau của Mỹ có thể
thuê phim này qua website www.amazon.com, thanh toán qua mạng và download phim
về máy tính của mình để xem. Giao dịch này được thực hiện hoàn toàn trong môi trường
mạng Internet, từ việc điền thông tin đặt hàng vào các biểu mẫu điện tử trên web, đến
việc thanh toán điện tử và nhận hàng là tập tin số hóa.
Các giao dịch nêu trên được gọi chung là giao dịch điện tử. Vậy phải chăng giao dịch
điện tử là giao dịch được thực hiện toàn bộ hay một phần qua mạng Internet và các mạng

thông tin khác (1)?
Theo khoản 6 và khoản 10 điều 4 Luật giao dịch điện tử được Quốc hội Việt Nam thông
qua ngày 29/11/2005, giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện
điện tử. Trong đó, phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện,
điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ
tương tự.
Căn cứ quy định nêu trên, giao dịch mua hàng tại quầy và thanh toán bằng thẻ tín dụng,
tức quẹt thẻ vào máy bán hàng để tự động in ra sao kê thẻ và hóa đơn bán hàng thì được
xem là giao dịch điện tử vì thẻ tín dụng là phương tiện điện tử.
Nhận thấy khái niệm giao dịch điện tử không chỉ giới hạn trong phạm vi mạng Internet và
các mạng thông tin khác, mà còn mở rộng ra đối với tất cả các giao dịch được thực hiện
bằng phương tiện điện tử. Do đó, giao dịch điện tử trong dịch vụ ngân hàng là giao dịch
bằng phương tiện điện tử trong dịch vụ ngân hàng, nói cách khác là dịch vụ ngân hàng
được giao dịch bằng phương tiện điện tử (gọi tắt là “dịch vụ ngân hàng điện tử”).
Sự phát triển Ngân hàng điện tử (E-Banking) tại Việt Nam
PGS. TS. Trần Hoàng Ngân & Ngô Minh Hải
Trong thời gian vừa qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước
chuyển biến mạnh mẽ về quy mô cũng như chất lượng dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt, đã có
một số ngân hàng mạnh dạn thử nghiệm và cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử cho
khách hàng, mang lại sự thuận tiện, hiệu quả rất lớn cho khách hàng, ngân hàng và xã
hội.
Tuy nhiên, phần lớn khách hàng còn dè dặt, thăm dò và sử dụng còn hạn chế vì hình như
những khái niệm như Home-banking, Phone-banking, Mobile-banking, Internet-banking,.
… còn tương đối mới mẻ và lạ lẫm. Do nhiều nguyên nhân (tài chính, con người, công
nghệ ) nên một số ngân hàng cũng chưa có website và dịch vụ ngân hàng điện tử vẫn còn
bỏ ngỏ. Bài báo này được viết với mục đích giúp độc giả có một cái nhìn tổng quan về
dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam cũng như giới thiệu về những dịch vụ ngân hàng
điện tử đã, đang và sẽ được cung cấp cho khách hàng có tài khoản tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
I. Tổng quan về sự phát triển ngân hàng điện tử tại Việt Nam

1. Thương mại điện tử (TMĐT)
TMĐT là một khái niệm dùng để chỉ quá trình mua và bán một sản phẩm (hữu hình) hoặc
dịch vụ (vô hình) thông qua một mạng điện tử (electronic network), phương tiện trung
gian (medium) phổ biến nhất của TMĐT là Internet. Qua môi trường mạng, người ta có
thể thiết lập giao dịch, thanh toán, mua bán bất cứ sản phẩm gì từ hàng hoá cho đến dịch
vụ, kể cả dịch vụ ngân hàng. Theo dự báo của e-Marketer thì tổng thu nhập từ thương
mại điện tử của thế giới sẽ đạt trên 2.7 tỷ USD trong năm 2004, doanh thu TMĐT tại VN
vẫn còn hạn chế (khoảng 20 triệu USD). Theo thống kê chưa đầy đủ, do nhiều nguyên
nhân tại VN nước ta mới có hơn 3.000 doanh nghiệp có website riêng chiếm khoảng 2%
tổng số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, như vậy là còn quá khiêm tốn.
2. Dịch vụ ngân hàng điện tử (E-Banking)
Ngân hàng điện tử được hiểu là các nghiệp vụ, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền
thống trước đây được phân phối trên các kênh mới như Internet, điện thoại, mạng không
dây… Hiện nay, ngân hàng điện tử tồn tại dưới hai hình thức: hình thức ngân hàng trực
tuyến, chỉ tồn tại dựa trên môi trường mạng Internet, cung cấp dịch vụ 100% thông qua
môi trường mạng; và mô hình kết hợp giữa hệ thống ngân hàng thương mại truyền thống
và điện tử hoá các dịch vụ truyền thống, tức là phân phối những sản phẩm dịch vụ cũ trên
những kênh phân phối mới. Ngân hàng điện tử tại Việt Nam chủ yếu phát triển theo mô
hình này.
3. Sự phát triển ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, ngân hàng điện tử tại Việt Nam cũng đã
có được những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, do tính chất còn quá mới mẻ và do
khách hàng cũng chưa thực sự quan tâm lắm tới những dịch vụ này, các ngân hàng
thương mại tại Việt Nam vẫn đang thận trọng và dè dặt khi tung ra những sản phẩm dịch
vụ mới. Cụ thể, đối với dịch vụ PC-banking, trên thị trường mới chỉ có vài ngân hàng
thương mại cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà “home-banking” (Vietcombank,
Incombank, ACB, Eximbank ) và 2 ngân hàng nước ngoài là ANZ và Citibank cung
cấp. Dịch vụ Phone-banking, có các ngân hàng cung cấp là VCB, ACB, Techcombank,
HSBC, ANZ và Citibank… Dịch vụ Mobile-banking thì có ngân hàng Incombank, ACB
và Techcombank…, ngoài ra, các ngân hàng khác chỉ mới dừng lại ở việc thiết lập các

trang web chủ yếu để giới thiệu ngân hàng và cung cấp thông tin dịch vụ. Riêng Ngân
hàng Nông nghiệp và PTNTVN đang triển khai thử nghiệm dự án E-banking.
Bên cạnh đó, để phục vụ cho hệ thống thanh toán cho TMĐT, VASC đã xây dựng cổng
thanh toán VASC Payment để làm cơ sở cho hệ thống thanh toán qua mạng Internet và hệ
thống quản lý chứng chỉ số - VASC CA (Certificate Authority), để cung cấp chữ ký điện
tử và chứng nhận điện tử để làm cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử, tạo niềm tin cho
khách hàng cũng như nhà cung cấp dịch vụ, là xương sống cho sự phát triển thương mại
điện tử trong thời gian tới.
II. Giới thiệu một số dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ ngân hàng điện tử là việc thiết lập một kênh trao đổi
thông tin tài chính giữa khách hàng và ngân hàng nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng dịch vụ
ngân hàng của khách hàng một cách nhanh chóng, an toàn và thuận tiện. Sau rất nhiều
tìm tòi, thử nghiệm và ứng dụng, hiện nay dịch vụ ngân hàng điện tử được các ngân hàng
thương mại Việt Nam cung cấp qua các kênh chính sau đây: ngân hàng tại nhà (home-
banking, Internet-banking); ngân hàng tự động qua điện thoại (Phone-banking, mobile
banking); ngân hàng qua mạng không dây (Wireless-banking)…
1. Dịch vụ ngân hàng tại nhà (home-banking):
Home-banking là kênh phân phối dịch vụ của ngân hàng điện tử, cho phép khách hàng
thực hiện hầu hết các giao dịch chuyển khoản với ngân hàng (nơi khách hàng mở tài
khoản) tại nhà, tại văn phòng công ty mà không cần đến ngân hàng.
Ứng dụng và phát triển Home-banking là một bước tiến mau mắn của các ngân hàng
thương mại Việt Nam trước sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn cầu về dịch vụ
ngân hàng. Đứng về phía khách hàng, Home-banking đã mang lại những lợi ích thiết
thực: nhanh chóng- an toàn- thuận tiện. Và khẩu hiệu “Dịch vụ ngân hàng 24 giờ mỗi
ngày, bảy ngày mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà mô hình ngân hàng “hành chính”
truyền thống không thể nào sánh được. Hiện nay, dịch vụ Home-banking tại Việt Nam đã
được nhiều ngân hàng tại Việt Nam ứng dụng và triển khai rộng rãi như: Ngân hàng Á
Châu www.acb.com.vn; Ngân hàng công thương Việt Nam www.icb.com.vn; Ngân hàng
ngoại Thương VN www.vcb.com.vn; Ngân hàng kỹ thương www.techcombank.com.vn,
Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam www.eximbank.com.vn …

Dịch vụ ngân hàng tại nhà được xây dựng trên một trong hai nền tảng: hệ thống các phần
mềm ứng dụng (Software Base) và nền tảng công nghệ web (Web Base), thông qua hệ
thống máy chủ, mạng Internet và máy tính con của khách hàng, thông tin tài chính sẽ
được thiết lập, mã hoá, trao đổi và xác nhận giữa ngân hàng và khách hàng. Mặc dù có
một số điểm khác biệt, nhưng nhìn chung, chu trình sử dụng dịch vụ ngân hàng tại nhà
bao gồm các bước cơ bản sau đây:
+ Bước 1: Thiết lập kết nối.
Khách hàng kết nối máy tính của mình với hệ thống máy tính của ngân hàng qua mạng
Internet, sau đó truy cập vào trang web của ngân hàng phục vụ mình (hoặc giao diện
người sử dụng của phần mềm). Sau khi kiểm tra và xác nhận khách hàng (User ID,
Password…), khách hàng sẽ được thiết lập một đường truyền bảo mật (https) và đăng
nhập (login) vào mạng máy tính của ngân hàng.
+ Bước 2: Thực hiện yêu cầu dịch vụ.
Dịch vụ NHĐT rất phong phú và đa dạng, có thể là truy vấn thông tin tài khoản, thiết lập
nghiệp vụ chuyển tiền, hủy bỏ việc chi trả séc, thanh toán điện tử … và rất nhiều các dịch
vụ trực tuyến khác.
Trên website (hoặc giao diện người sử dụng) có sẵn hệ thống Menu chọn lựa và hướng
dẫn cụ thể các bước để thực hiện quá trình giao dịch. Tất cả mọi việc khách hàng phải
làm chỉ là chọn dịch vụ, cung cấp thông tin theo yêu cầu của dịch vụ và của ngân hàng.
Bước 3: Xác nhận giao dịch, kiểm tra thông tin và thoát khỏi mạng (thông qua chữ ký
điện tử, xác nhận điện tử, chứng từ điện tử …) :
Khi giao dịch được thực hiện hoàn tất, khách hàng kiểm tra lại giao dịch và thoát khỏi
mạng, những thông tin chứng từ cần thiết sẽ được quản lí, lưu trữ và gửi tới khách hàng
khi có yêu cầu.
Ví dụ : Dịch vụ Home-banking của ngân hàng TMCP Á Châu :
Trên cơ sở Ngân hàng Nhà nước đã cho phép sử dụng chữ ký điện tử trong thanh toán,
giao dịch ngân hàng, Ngân hàng TMCP Á Châu đã phát triển hệ thống Homebanking để
phục vụ nhu cầu thanh toán và chuyển tiền trong nước. Để sử dụng dịch vụ, khách hàng
chỉ cần tới chi nhánh gần nhất của ACB và hoàn tất thủ tục đăng ký sử dụng địch vụ. Với
tài khoản tại Ngân hàng Á Châu, khách hàng có thể thực hiện tất cả các giao dịch thanh

toán qua ngân hàng như :
- Chuyển khoản (funds transfer): Khách hàng có thể chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng đến các tài khoản khác thuộc hệ thống Ngân hàng Á Châu.
- Thanh toán hoá đơn (Bill payment): Khách hàng thanh toán các hoá dơn như cước phí
điện, nước, điện thoại, Internet…
- Chuyển tiền (Money transfer): Khách hàng chuyển tiền từ tài khoản của mình đến các
tài khoản khác mở tại hệ thống ACB hoặc người nhận tiền mặt bằng chứng minh nhân
dân, passport… trong hoặc ngoài hệ thống ACB.
- Ngoài ra khách hàng có thể tra cứu thông tin tài khoản, thông tin tài chính, thông tin
ngân hàng… một cách an toàn, bảo mật, chính xác và tiện lợi.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, quy trình thanh toán qua Home-banking được thực
hiện tương đối phức tạp hơn với quy trình bảo mật, xác nhận an toàn hơn. Mỗi doanh
nghiệp sẽ được hệ thống Home-banking cung cấp hai loại User có mã số truy cập, mật
khẩu khác nhau được phân quyền. Lệnh thanh toán của khách hàng chuyển đến Ngân
hàng thông qua hệ thống Home-banking được ký 2 chữ ký điện tử theo đúng quy định
chứng từ của Ngân hàng Nhà nước và hầu hết được thực hiện ngay trong ngày làm việc.
2. Dịch vụ ngân hàng tự động qua điện thoại (Phone-banking)
Phone-banking là hệ thống tự động trả lời hoạt động 24/24, khách hàng nhấn vào các
phím trên bàn phím điện thoại theo mã do ngân hàng quy định trước, để yêu cầu hệ thống
trả lời thông tin cần thiết.
Cũng như PC-banking, dịch vụ ngân hàng được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và
phần mềm quản lý đặt tại ngân hàng, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài của dịch
vụ. Thông qua các phím chức năng được định nghĩa trước, khách hàng sẽ được phục vụ
một cách tự động hoặc thông qua nhân viên tổng đài.
Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Phone-banking, khách hàng sẽ được cung cấp một mã
khách hàng, hoặc mã tài khoản và tuỳ theo dịch vụ đăng ký, khách hàng có thể sử dụng
nhiều dịch vụ khác nhau. Nhìn chung, quy trình sử dụng dịch vụ Phone-banking như sau:
- Đăng ký sử dụng dịch vụ: Khách hàng phải cung cấp các thông tin cần thiết và ký vào
hợp đồng đồng ý sử dụng dịch vụ Phone-banking. Sau đó, khách hàng sẽ được cung cấp 2
số định danh duy nhất là mã khách hàng và mã khoá truy nhập hệ thống, ngoài ra khách

hàng sẽ được cung cấp một mã tài khoản nhằm tạo sự thuận tiện trong giao dịch vũng
như đảm bảo an toàn và bảo mật.
- Xử lý một giao dịch: Khi khách hàng quay số tới tổng đài, nhập mã khách hàng và khoá
truy nhập dịch vụ, theo lời nhắc trên điện thoại, khách hàng chọn phím chức năng tương
ứng với dịch vụ mình cần thực hiện giao dịch. Khách hàng có thể thay đổi, chỉnh sửa
trước khi xác nhận giao dịch với ngân hàng, chứng từ giao dịch sẽ được in ra và gửi tới
khách hàng khi giao dịch được xử lý xong.
- Qua Phone-banking, khách hàng có thể sử dụng rất nhiều dịch vụ ngân hàng như :
hướng dẫn sử dụng dịch vụ, giới thiệu thông tin về dịch vụ ngân hàng, cung cấp thông tin
tài khoản và bảng kê các giao dịch, báo nợ, báo có, cung cấp thông tin ngân hàng như lãi
suất, tỷ giá hối đoái, chuyển tiền, thanh toán hoá đơn và dịch vụ hỗ trợ khách hàng, thực
hiện mọi lúc mọi nơi kể cả ngoài giờ hành chính. (ví dụ VCB HCM qua số 8225414 )
Ví dụ 1: Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại của Techcombank (Techcombank voice
access) – Vocaly.
Ngân hàng kỹ thương Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung tâm công nghệ thông tin của
Học viện bưu chính viễn thông (CDIT) đã xây dựng hệ thống dịch vụ giao dịch qua tổng
đài tự động (Techcombank voice access) – gọi tắt là Vocaly. Để sử dụng dịch vụ này,
khách hàng dùng điện thoại cố định hoặc điện thoại di động, gọi đến số 1570 sẽ được
tổng đài tự động hướng dẫn các bước tiếp theo để hoàn tất giao dịch. Thông qua hướng
dẫu chi tiết và các phím chức năng, sau khi xác nhận khách hàng, hệ thống Vocaly sẽ
cung cấp cho khách hàng các dịch vụ sau:
- Nghe thông tin tài khoản và 2 biến động tài khoản gần nhất.
- Tra cứu thông tin hỗ trợ khách hàng (Lãi suất tiền gửi; tỉ giá quy đổi (mua vào – bán ra)
các loại ngoại tệ ; hộp thư …
- Ngoài ra, khách hàng còn có thể thay đổi mật khẩu hoặc nghe những hướng dẫn và
thông báo mới của ngân hàng.
Ví dụ 2: Dịch vụ Phone-banking của ngân hàng Vietcombank TP.HCM.
Gọi 8225414, khách hàng sẽ được cung cấp nhanh các thông tin mới nhất liên quan đến
tỷ giá các ngoại tệ, lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay của Ngân hàng ngoại thương chi
nhánh TP. HCM (Vietcombank HCM). Với hướng dẫn chi tiết và các phím số chức năng

khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ như: nghe số dư tài khoản; nghe tỷ giá ngoại tệ;
nghe lãi suất tiền gửi (đồng Việt Nam, USD); nghe lãi suất tiền vay và thay đổi mật mã…
Ngoài dịch vụ truy cập nhanh, còn những dịch vụ cộng thêm mà khách hàng sẽ được
cung cấp khi liên hệ trực tiếp với ngân hàng.
3. Dịch vụ ngân hàng qua ĐTDĐ (Mobile-banking):
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam cũng
đã nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới này.
Mobile - banking là một kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng qua hệ thống mạng
điện thoại di động. Về nguyên tắc, đây chính là quy trình thông tin được mã hoá, bảo mật
và trao đổi giữa trung tâm xử lý của ngân hàng và thiết bị di động của khách hàng
(ĐTDĐ, Pocket PC, Palm…).
Dịch vụ này đã được Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng kỹ thương triển khai trong vài
năm gần đây, và các ngân hàng khác cũng đã và đang bắt đầu xây dựng hệ thống và cung
ứng dịch vụ Mobile-banking do tính chất thuận tiện, nhanh chóng đặc trưng của nó.
Ví dụ : Dịch vụ Mobile -banking của ngân hàng TMCP Á Châu:
Mobile-banking là một phương tiện phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng của Ngân
hàng Á Châu, khách hàng dùng điện thoại di động nhắn tin theo mẫu của Ngân hàng, gửi
đến số 997 để sử dụng dịch vụ. Tất cả các khách hàng đều có thể sử dụng dịch vụ
Mobile-banking của Ngân hàng Á Châu với nhiều dịch vụ như:
- Dịch vụ cung cấp thông tin sản phẩm dịch vụ ngân hàng như tỷ giá, giá chứng khoán …
- Dịch vụ cung cấp thông tin tài khoản cá nhân, số dư, bảng kê giao dịch, số dư lưu ký
chứng khoán, thông báo số dư tự động …
- Dịch vụ thanh toán hoá đơn dịch vụ, mua sắm hàng hoá, thanh toán hoá đơn điện, nước,
điện thoại…
- Dịch vụ môi giới chứng khoán (theo dõi thông tin tài khoản, đặt lệnh mua bán…)
Để đăng ký sử dụng dịch vụ, khách hàng đăng ký tại chi nhánh ACB gần nhất và được
cấp mật mã sử dụng thanh toán trên hệ thống Mobile-banking. Khi khách hàng soạn tin
nhắn theo quy định của ngân hàng cho từng dịch vụ gửi tới ngân hàng theo số 997 sẽ
được ngân hàng thực hiện và thông báo kết quả thông tin, giao dịch theo yêu cầu cụ thể.
Sau đây là một vài mẫu tin nhắn yêu cầu dịch vụ:

- Xem thông tin tỷ giá: ACB Tygia (Tg) {Loại ngoại tệ} : ACB Tygia USD EUR GOLD
- Xem thông tin giá chứng khoán: ACB GiaCK (CK) {Loại chứng khoán}: ACB GiaCK
Ree Sam Hap
° Dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống Mobile-banking: Khách hàng có thể sử dụng
dịch vụ này để thanh toán tiền mua sắm hàng hoá dịch vụ tại các siêu thị, nhà hàng, trang
web bán hàng trên mạng…. Khi khách hàng gửi tin nhắn yêu cầu thanh toán theo mẫu có
sẵn, ngân hàng sẽ gửi tin nhắn để xác nhận giao dịch và thực hiện việc trả tiền cho các đại
lý. Bên cạnh đó, khách hàng còn có thể sử dụng dịch vụ này để thanh toán hoá đơn (điện,
nước, điện thoại và điện thoại di động…) hay thậm chí có thể giao dịch chứng khoán qua
ĐTDD chỉ bằng vài tin nhắn dơn giản.
° Giao dịch chứng khoán trên Mobile - banking: (Khách hàng đến Công ty chứng khoán
ACBS đăng ký sử dụng dịch vụ) và thực hiện giao dịch qua các tin nhắn theo mẫu như :
+ Đặt lệnh mua bán chứng khoán:
ACB Mua/Bán {Mã chứng khoán} {Số lượng} {Giá mua} {Loại lệnh}
VD : ACB Mua REE 100 21000 D0
+ Lệnh hủy giao dịch mua bán : ACB Huy {Mã chứng khoán} {Số thứ tự lệnh}…
Quy trình cụ thể còn thông qua nhiều bước như xác nhận khách hàng, kiểm tra mật mã,
xác định lệnh… được thực hiện chi tiết khi khách hàng sử dụng thực sự dịch vụ của ngân
hàng.
4. Internet banking:
Internet banking cũng là một trong những kênh phân phối các sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng, mang ngân hàng đến nhà, văn phòng, trường học, đến bất kỳ nơi đâu và bất cứ lúc
nào. Với máy tính kết nối Internet, bạn sẽ được cung cấp và được hướng dẫn các sản
phẩm, các dịch vụ của ngân hàng. Qua Internet banking các bạn có thể gởi đến ngân hàng
những thắc mắc, góp ý với ngân hàng và được trả lời sau một thời gian nhất định. Tuy
nhiên, với tính chất bảo mật không cao bằng dịch vụ ngân hàng tại nhà hoặc Kiosk-
banking, dịch vụ Internet-banking vẫn còn được cung cấp hạn chế và đòi hỏi quá trình
xác nhận giao dịch phức tạp hơn.
5. Kiosk ngân hàng:
Là sự phát triển của dịch vụ ngân hàng hướng tới việc phục vụ khách hàng với chất lượng

cao nhất và thuận tiện nhất. Trên đường phố sẽ đặt các trạm làm việc với đường kết nối
Internet tốc độ cao. Khi khách hàng cần thực hiện giao dịch hoặc yêu cầu dịch vụ, họ chỉ
cần truy cập, cung cấp số chứng nhận cá nhân và mật khẩu để sử dụng dịch vụ của hệ
thống ngân hàng phục vụ mình. Đây cũng là một hướng phát triển đáng lưu tâm cho các
nhà lãnh đạo các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Happy_4_U
31st-08-2009, 10:01
III. Ưu nhược điểm, hướng phát triển
1. Ưu điểm :
- Về phía khách hàng: Ưu điểm lớn nhất của dịch vụ ngân hàng điện tử dành cho khách
hàng chính là sự tiện nghi và luôn sẵn sàng của dịch vụ ngân hàng. Bây giờ, khách hàng
chỉ cần gửi một tin nhắn lúc nửa đêm thay vì phải xin phép sếp ra ngoài trong giờ làm
việc chỉ để đóng tiền điện thoại cho vợ là một ưu thế rõ rệt nhất của ngân hàng điện tử.
Khách hàng có thể tiếp cận với ngân hàng điện tử mọi lúc mọi nơi. Bên cạnh đó, dịch vụ
ngân hàng điện tử với công nghệ hiện đại đã tiết kiệm được thời gian và giảm chi phí
dịch vụ cho khách hàng. Ngoài ra, khách hàng được ngân hàng phục vụ tận nơi với
những thông tin nóng hổi nhất như biến động tỷ giá, tra cứu thông tin tài chính của đối
tác … Và hơn nữa, với những tiêu chuẩn chuẩn hoá, khách hàng được phục vụ tận tuỵ và
chính xác thay vì phải tuỳ thuộc vào thái độ phục vụ khác nhau của các nhân viên ngân
hàng.
- Về phía ngân hàng : Các giao dịch ngân hàng được tự động hoá không chỉ mang lại lợi
ích cho khách hàng mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho ngân hàng. Thông qua những
dịch vụ mới, những kênh phân phối mới, ngân hàng có thể mở rộng đối tượng khách
hàng, phát triển thị phần, giảm chi phí, thu hút nguồn vốn huy động từ tiền gởi thanh toán
của khách hàng, tăng thêm lợi nhuận … bên cạnh đó, ứng dụng và phát triển những công
nghệ ngân hàng hiện đại cũng giúp cho các ngân hàng luôn tự đổi mới, hoà nhập và phát
triển không chỉ ở thị trường trong nước mà còn hướng tới thị trường nước ngoài.
2. Nhược điểm :
Tại Việt Nam, tiến trình phát triển ngân hàng điện tử đã đạt được những thành công nhất
định, tuy nhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế như:

- Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử còn chưa thoả mãn khách hàng ở những cấp độ
cao hơn như việc gửi tiền mặt vào tài khoản, việc đăng ký sử dụng dịch vụ… còn phải tới
trực tiếp giao dịch tại chi nhánh ngân hàng, hoặc các dịch vụ ngân hàng điện tử chất
lượng cao hơn còn chưa được phát triển như dịch vụ quản lý quỹ đầu tư, dịch vụ địa ốc,
cho thuê tài chính…
- Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như chất lượng mạng, tốc độ đường truyền, lỗi kỹ thuật
hoặc thiết bị đầu cuối không đảm bảo chất lượng dẫn tới chất lượng dịch vụ chưa cao.
Bên cạnh đó, các hệ thống ngân hàng điện tử của các ngân hàng còn phát triển tương đối
độc lập, chưa có sự phối hợp, liên thông cần thiết nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của
dịch vụ mới này.
- Giao dịch ngân hàng điện tử còn phụ thuộc nhiều vào chứng từ lưu trữ truyền thống,
chưa thể điện tử hoá mọi chứng từ giao dịch. Ngoài ra, việc sử dụng chữ ký điện tử,
chứng nhận điện tử chưa được phổ biến rộng rãi và chưa thể hiện được ưu thế so với chữ
ký thông thường.
- Bên cạnh đó, những rủi ro mới như hacker (tin tặc), virus máy tính có thể có những tác
hại rất lớn không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với khách hàng, gây mất lòng tin của
khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng.
- Một lý do quan trọng nữa đó là quy mô và chất lượng của TMĐT còn rất thấp và phát
triển chậm, cần có một hệ thống TMĐT đủ mạnh để cung cấp tất cả hàng hoá dịch vụ trên
mạng, tạo tiền đề cho dịch vụ ngân hàng điện tử phát triển.
3. Hướng phát triển :
Trong tương lai, với trình độ và tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng như hiện nay,
các ngân hàng Việt Nam đang nỗ lực ứng dụng công nghệ mới, phát triển dịch vụ mới để
tăng sức cạnh tranh, nhanh chóng hoà nhập với khu vực và thế giới. Từ những webpage
giới thiệu dịch vụ ngân hàng (Giai đoạn Brochure-ware), tới website cung cấp dịch vụ
ngân hàng (Giai đoạn E-commerce), các ngân hàng Việt Nam đang hướng tới việc cung
cấp những dịch vụ ở cấp độ cao hơn, tăng sự chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng, đối tác
(Giai đoạn E-business) và tiến tới xây dựng mô hình ngân hàng điện tử (E-bank hay E-
enterprise) thực sự , tận dụng được sức mạnh thực sự của mạng toàn cầu và cá nhân hoá
dịch vụ ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng chuyên biệt*.

IV. Giải pháp phát triển và kiến nghị
1. Đối với chính phủ và các cơ quan quản lý:
Để dịch vụ ngân hàng điện tử thực sự đi vào đời sống và phát huy được toàn diện những
ưu thế cũng như những lợi ích của nó đòi hỏi phải có sự đầu tư, sự quan tâm đúng đắng
của các nhà quản lý, khách hàng và bản thân các ngân hàng. Nhưng nhìn chung cần phát
triển đồng bộ các giải pháp sau:
- Đẩy mạnh phát triển TMĐT, khuyến khích, đãi ngộ các đối tượng là các nhà đầu tư ,
các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính… đầu tư kinh doanh buôn bán trên mạng, từ đó
tạo nhu cầu kinh doanh, thanh toán, giao dịch… tạo ra lượng khách hàng tiềm năng cho
dịch vụ NHĐT sau này.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các luật và nghị định nhằm quản lí
tiến trình kinh doanh trên mạng, là căn cứ để giải quyết tranh chấp. Xây dựng chuẩn
chung và cơ sở pháp lý cho văn bản điện tử, chữ kí điện tử và chứng nhận điện tử.
- Để tạo điều kiện cho các chứng từ điện tử đi vào cuộc sống, cần xây dựng hệ thống các
tổ chức, cơ quan quản lí, cung cấp, công chứng chữ kí điện tử và chứng nhận điện tử.
Xây dựng một trung tâm quản lí dữ liệu trung ương để giúp cho việc xác nhận, chứng
thực chứng tư điện tử được nhanh chóng và chính xác. .
- Phát triển hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin mà Internet, thực hiện tin học hoá các tổ
chức kinh doanh dịch vụ, các ngân hàng và tổ chức tín dụng, nâng cao tốc độ đường
truyền Internet, giảm thiểu cước phí … tạo điều kiện cho toàn dân có thể sử dụng các
dịch vụ trực tuyến cho sinh hoạt hằng ngày cũng như công việc kinh doanh.
2. Đối với bản thân các ngân hàng thương mại:
- Ngân hàng điện tử là một bước phát triển không mới nhưng tất yếu cho tát cả các ngân
hàng thương mại trong xu thế hội nhập toàn cầu. Do vậy, để đi tắt, đón đầu và ứng dụng
hiệu quả dịch vụ ngân hàng điện tử, bản thân các ngân hàng phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp sau:
- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai công nghệ, dịch
vụ mới, nghiên cứu, rút kinh nghiệm và phát triển có chọn lọc những dịch vụ mới phù
hợp với khả năng của ngân hàng, của đối tượng khách hàng tiềm năng.
- Nghiên cứu phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử, cung cấp các

dịch vụ ở cấp độ cao cấp hơn và mang lại nhiều lợi nhuận hơn như dịch vụ quản lý quỹ
đầu tư, dịch vụ địa ốc, cho thuê tài chính…, điện tử hoá các thủ tục, chứng từ đăng ký,
tiến tới xây dựng những chi nhánh ngân hàng điện tử hoạt động hoàn toàn trên môi
trường mạng (E-branch)
- Đặc biệt chú trọng tới vấn đề bảo mật và an ninh mạng do tác hại của hacker, virus máy
tính không chỉ đơn thuần là thiệt hại vật chất mà còn là uy tín, chất lượng của ngân hàng.
Luôn cập nhận công nghệ bảo mật, sử dụng tường lửa, chương trình chống virus, hệ
thống backup dữ liệu luôn hoạt động an toàn và thông suốt.
- Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là phải xây dựng và đào tạo đội ngũ
cán bộ công nhân viên cả về nghiệp vụ ngân hàng và công nghệ thông tin. Bảo đảm cho
nguồn nhân lực của hệ thống ngân hàng luôn được cập nhật công nghệ mới, tiến bộ khoa
học kĩ thuật mới để nhanh chóng cập nhất, ứng dụng, phát huy tiến bộ công nghệ ngân
hàng, tạo năng lực cạnh tranh cao cho ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng điện tử đã có một lịch sử phát triển tương đối lâu dài trên thế giới, tuy
nhiên tại Việt Nam mới chỉ là những bước đi chập chững ban đầu mang tính chất thăm
dò, thử nghiệm của một vài ngân hàng. Trong tương lai không xa, dịch vụ ngân hàng điện
tử sẽ là vũ khí cạnh tranh tốt nhất của các ngân hàng thương mại do những ưu thế vượt
trội của nó so với những dịch vụ truyền thống. Để phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại
Việt Nam, không chỉ từ sự nỗ lực của bản thân các ngân hàng mà còn phải có sự ủng hộ
và đầu tư của Chính phủ, các tổ chức kinh tế và quan trọng nhất là của khách hàng. Hiện
đại hoá dịch vụ ngân hàng, đi trước và ứng dụng những công nghệ mới, cung ứng những
dịch vụ mới mà tiêu biểu là dịch vụ ngân hàng điện tử chính là chìa khoá thành công cho
các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Happy_4_U
31st-08-2009, 10:02
2-Vấn đề nhận diện rủi ro trong giao dịch tiền điện tử, ngân hàng điện tử ở Việt Nam.
a- Hoạt động ngân hàng điện tử ở Việt Nam
- Cơ sở hạ tầng cho hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử. Hiện tại, cơ sở hạ tầng
cho hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử ở Việt Nam vẫn còn khá lạc hậu. Đánh
giá tổng hợp về cơ sở hạ tầng cho giao dịch điện tử ở Việt Nam có thể là khó khăn; Tuy

nhiên các khảo sát về sự sẵn sàng cho thương mại điện tử của nền kinh tế cho thấy mức
độ sẵn sàng tham gia thương mại điện tử của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với các
nước trong khu vực (WB-2001). Theo cách đo lường mức độ sẵn sàng tham gia thương
mại điện tử, Việt Nam đạt 4, 4 điểm, là mức thấp so với các nước khác trong khu vực.
Trong điều kiện như vậy, giao dịch ngân hàng và dịch vụ ngân hàng hiện đại (như e
-banking, internet banking, tiền điện tử ) thường phát triển chậm và gặp nhiều rủi ro
(những khó khăn thường gặp có thể là tốc độ đường truyền chậm, lỗi do người sử dụng,
và người tiêu dùng, )
- Hoạt động ngân hàng điện tử ở Việt Nam. Trong những năm qua, Việt Nam đã có rất
nhiều nỗ lực trong việc hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Ngày 26/3/2002, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã chính thức khai trương hệ thống thanh toán bù trừ điện tử. Hiện
tại các giao dịch được thực hiện thuận tiện và chính xác cũng như rất nhanh chóng. Các
ngân hàng thương mại cũng đang tích cực hiện đại hoá công nghệ. Một số NHTMNN và
TMCP đã hoàn thành giai đoạn I và đang tiếp tục triển khai giai đoạn II của dự án hiện
đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán ngân hàng.
Kể từ năm 1993, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phát hành card đầu tiên ở Việt Nam,
các sản phẩm “card” được dân chúng sử dụng ngày càng nhiều ở Việt Nam. Đến nay,
Việt Nam đã đạt tỷ lệ bình quân là 4.500 người / máy ATM
Các ngân hàng thương mại là các định chế được phép phát hành các loại thẻ; các định chế
tài chính khác chưa được phép cung cấp dịch vụ này. Sự phát triển của thị trường thẻ đã
góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng và thực hiện
chủ trương đẩy nhanh thanh toán không dùng tiền mặt của Nngân hàng Nhà nước Viêt
Nam. Hiện tại ở Việt Nam có một số ngân hàng Việt Nam được phát hành thẻ tín dụng
(credit card) và thể ghi nợ (debit card). Đến nay, thị trường thẻ Việt Nam đã có sự phát
triển vượt bậc và dự kiến sẽ đạt 3, 5 triệu thẻ vào cuối năm 2006 (Số liệu năm 2006 là dự
báo).
- Vấn để quản lý rủi ro hoạt động ngân hàng điện tử và tiển điện tử ở các ngân hàng Việt
Nam. Hiện tại các các giao dịch ngân hàng điện tử và tiển điện tử ở Việt Nam, như trên
đã nêu, còn là khá mới mẻ và chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động ngân hàng, hoặc chỉ là
một khâu trong cả quy trình thủ công của ngân hàng. Điều này dẫn đến việc quan tâm về

quản lý rủi hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử cũng chỉ ở giai đoạn ban đầu. Rủi
ro đã từng phát sinh trong hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử ở Việt Nam trong
thời gian qua như năm 2003 tại một ngân hàng thương mại Nhà nước thất thoát ước
khoảng 5 triệu USD (tương đương khoản trên 80 tỷ VND) và gần đây hiện tượng làm thẻ
tín dụng thẻ để rút tiền,
b- Một vài gợi ý chính sách
- Cần nhận thức đầy đủ về rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử và quá
trình chuyển đổi đi đôi với rủi ro: Sự nhanh nhậy của công nghệ hiện đại cũng đi kèm với
rủi ro lớn nếu con người không kiểm soát được nó; Quá trình chuyển đổi sang một tập
quán giao dịch mới là giao dịch điện tử (trong đó có ngân hàng điện tử và tiền điện tử)
trong điều kiện một nền kinh tế đang chuyển đổi cũng có thể đi đôi với nhiều rủi ro.
- Đào tạo cán bộ nhằm tăng cường khả năng vận hành và quản lý nghiệp vụ ngân hàng
điện tử, tiền điện tử. Có sẵn sàng thực hiện các giao dịch điện tử và sau đó là để đội ngũ
này vận hành và quản lý hiệu quả hoạt động ngân hàng điện tử. Nếu việc đào tạo đội ngũ
cán bộ đi chậm hơn quá trình hiện đại hoá ngân hàng thì khả năng hấp thụ công nghệ sẽ
hạn chế và đi kèm với tình trạng đó là những rủi ro sẽ dình dập ở đâu đó trong hệ thống
ngân hàng.
- Đẩy mạnh việc áp dụng các chuẩn mực quốc tể vào hoạt động ngân hàng: Việc áp dụng
các chuẩn mực quốc tế vào hoạt động ngân hàng (kế toán, kiểm toán, ) sẽ là cơ sở cho
ngân hàng nhanh nhậy trong việc nhìn nhận, đánh giá tình trạng rủi ro của ngân hàng và
hạn chế được các rủi ro có thể xẩy ra. Tư tưởng đình trệ quá trình này ở nơi nào đó, với
bất kỳ lý do gì, chính là sự che dấu một sự yếu kém nào đó và đó là nguy cơ tiềm ẩn của
những rủi ro đã “tích tụ” lâu ngày.
Chuẩn hoá các giao dịch ngân hàng nhằm hạn chế các rủi ro. Hoạt động ngân hàng điện
tử, tiền điện tử là những giao dịch diễn ra chủ yếu ở chế độ trực tuyến. Do đó việc quy
chuẩn hoạt động ngân hàng theo một cách thức nào đó như dưới dạng định sẵn hay quy
định rõ về quy trình nghiệp vụ sẽ tránh được tình trạng làm việc tuỳ tiện trong các khâu
nghiệp vụ hoặc các sai sót, và qua đó hạn chế được rủi ro đối với ngân hàng và đối với
nền kinh tế.
Theo VietinBank.

Powered by vBulletin® Version 4.1.5 Copyright © 2012 vBulletin Solutions, Inc. All
rights reserved.

×