Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

CHUYÊN ĐỀ “Đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề của Việt Nam” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.53 KB, 19 trang )

Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 0






CHUYÊN ĐỀ

“Đánh giá tác động của giá xăng dầu đến
một số ngành nghề của Việt Nam”






















































Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 1

MỤC LỤC
Phần 1: GIỚI THIỆU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
2.1 Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 4
3. Khái quát phương pháp tiến hành đề tài 4
3.1 Phương pháp thu thập thông tin số liệu 4
3.2 Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu 4
4. Phạm vi nghiên cứu 4
Phần 2: NỘI DUNG 5
1. Khái quát về sự biến động của giá xăng dầu trong vài năm trở lại đây 5
1.1 Sơ lược về sự biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới trong
vài năm trở lại đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này 5
1.2 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở lại
đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này 6
1.2.1 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở lại
đây
6
1.2.2 Nguyên nhân chủ yếu để Nhà Nước đưa ra quyết định thả nổi giá xăng
dầu theo giá thi trường 7
2.Đánh giá tác động của giá xăng dầu đối với nền kinh tế Việt Nam 7
2.1 Những mặt lợi và mặt hại của việc thả nổi giá xăng dầu theo giá thị
trường đối với nền kinh tế Việt Nam 7

2.1.1 Những mặt lợi 8
2.1.2 Những mặt hại 8
2.2 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành khai thác thủy hải sản 9
2.2.1.Tỉnh Sóc Trăng 9
2.2.2 Tỉnh Cà Mau 10
2.2.3 Tỉnh Bạc Liêu 11
2.3 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành giao thông vận tải 11
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 2
2.3.1 Ngành vận tải đường sắt 11
2.3.2 Ngành vận tải đường bộ 12
3. Những phương hướng và biện pháp khắc phục những vấn đề trên 13
3.1 Chính sách chung 13
3.2 Chính sách, biện pháp đối với ngành khai thác thủy hải sản và ngành
giao thông vận tải 14
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 16
1. Kết luận 16
2. Kiến nghị 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 3
Phần 1: GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế hiện nay thì nguồn năng lượng
dầu mỏ là không thể thiếu, nó chiếm tỷ lệ sử dụng khoảng 40% trong tất cả các
nguồn năng lượng trên thế giới. Tuy nhiên nguồn năng lượng này lại có giới
hạn, nó không được tái tạo thêm mà ngược lại nó lại được sử dụng ngày càng
nhiều. Theo dự đoán thì nguồn năng lượng này chỉ có thể đáp ứng trong vài
chục năm nữa. Vì vậy giá cả của nó ngày càng tăng lên là điều khó tránh khỏi.

Khi giá xăng dầu tăng thì nó ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành nghề sử dụng
nhiều xăng dầu để hoạt động.
Sau khi trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại quốc tế
WTO thì nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bật trong tất
cả các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh…Nhưng trong những năm
gần đây mà đặc biệt là năm 2007 và đầu năm 2008 giá dầu thô trên thế giới tăng
một cách nhanh chóng làm cho giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo. Việc
giá xăng dầu tăng đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống hàng ngày của người
dân, đến quá trình sản xuất của các doanh nghiệp…Vì vậy nó đã tác động rất
lớn đến nền kinh tế Việt Nam, mà trong đó có một số ngành nghề rất nhạy cảm
với giá xăng dầu như: khai thác thủy sản, giao thông vận tải…
Từ hai vấn đề trên, đòi hỏi cần có những phương hướng, biện pháp để
giảm những tác động xấu do giá xăng dầu tăng. Đó là lý do đề tài nghiên cứu
“Đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề của Việt Nam”
được thực hiện.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài này là đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một
số ngành nghề của Việt Nam từ đó đề ra những phương hướng, biện pháp khắc
phục nhằm giảm tác động của nó đối với các ngành này.
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 4
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá những mặt lợi và mặt hại của việc thả nổi giá xăng dầu theo giá thị
trường đối với nền kinh tế Việt Nam
-
Đánh giá tác động của giá xăng dầu đối với ngành khai thác thủy hải sản và
ngành giao thông vận tải từ đó đưa ra phương hướng, biện pháp khắc phục
những tác động này.


3. Khái quát phương pháp tiến hành đề tài
3.1 Phương pháp thu thập thông tin số liệu
Chủ yếu các thông tin, số liệu là thu thập từ các nguồn:
+ Sách báo, tap chí, truyền hình
+ Inernet qua các trang tìm kiếm: www.google.com.vn, www.gos.vn,… sử
dụng các từ khóa có liên quan để đến các trang Wed cần thu thập thông tin.
3.2 Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả.
- So sánh sự biến động của giá xăng dầu qua các năm và tác động của nó đến
một số ngành nghề của Việt nam mà chủ yếu là dựa vào các yếu tố chi phí
nhiên liệu đầu vào của các ngành, trong đó chủ yếu là xăng dầu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do biến động của giá xăng dầu tác động đến rất nhiều ngành nghề, nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế, và do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không thể
đánh giá sâu sắc tất cả các tác động này. Nên phạm vi của đề tài chỉ tập trung
vào đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề quan trọng của
nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến đầu năm 2008 trong đó
chủ yếu là hai ngành: khai thác thủy sản và giao thông vận tải.
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 5
Phần 2: NỘI DUNG

1. Khái quát về sự biến động của giá xăng dầu trong vài năm trở lại đây
1.1 Sơ lược về sự biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới trong
vài năm trở lại đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này
Từ năm 2005 đến cuối năm 2007 giá dầu thô trên thị trường thế giới đã
tăng từ 62USD/thùng lên gần 100USD/thùng (nguồn tổng hợp từ báo tuổi trẻ và
vietnamnet). Cũng có lúc trong giai đoạn này thì giá dầu thô thế giới giảm
nhưng giảm không nhiều và giảm trong thời gian ngắn và sau đó lại tiếp tục
tăng.

Giá dầu thô thế giới trong 3 tháng đầu năm 2008 lại tăng vọt lên hơn
100USD/thùng và trong đợt tăng giá này thì nó xuất phát từ những nguyên nhân
chủ yếu sau:
Cung cầu bất quân bình càng lúc càng thêm rõ nét: sản lượng dầu thềm
lục địa Bắc Hải giảm nhanh hơn dự báo. Bạo động ở Algeria, Nigeria,
Venezuela…góp phần đánh sụt lượng cung dầu thô. Cung giảm không cân đối
được cơn khát dầu gia tăng theo cường độ bùng nổ tăng trưởng của hai nhóm
N4 (chủ lực là Trung Quốc và Ấn Độ) và N11 (dẫn đầu là ASEAN).
Theo Thượng Viện Mỹ mà cụ thể là Fadel Gheit khẳng định 40% giá
dầu bị chồng thêm bởi yếu tố đầu cơ. Do giá không ngừng leo thang, các công
ty hàng không quốc tế rót khoản tiền khổng lồ vào mua các “option” ở thị
trường dầu tương lai, bảo đảm ngưỡng giá 100USD/thùng ổn định đến tháng 3
năm 2009. Không riêng lĩnh vưc hàng không, các công ty chuyên doanh năng
lượng (dầu & khí đốt) cùng thành phần kiếm lời thông qua mua bán chứng
khoán tương lai, tích cực khuấy động giá dầu thô. Khoảng 10.000 giao dịch
thực hiện trong tháng 11/2007, tăng đột biến lên hơn 25.000 vài ngày đầu năm
2008.
Sau hết, không kém quan trọng là đồng đôla tuột giá lại tác đông làm
tăng giá dầu thô thế giới vì dầu thô lấy USD làm bản vị.
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 6
1.2 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở lại
đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này
1.2.1 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở
lại đây
Từ năm 2005 đến cuối năm 2007 thì giá xăng dầu trong nước cũng biến
động tăng nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn so với thị trường thế giới là do
chính sách trợ giá bù lỗ của Nhà Nước. Việc tăng giá là do Nhà Nước quyết
định và công bố. Ví dụ như biến động của giá dầu DO từ năm 2005 đến đầu
năm 2008 thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1:Biến động giá dầu DO từ năm 2005 đến nay
Đơn vị tính: Đồng/lít
Thời gian giữ mức giá Giá
17/08/2005 – 27/04/2006 7.500
27/04/2006 – 09/08/2006 7.900
09/08/2006 – 01/2007 8.600
01/2007 - 22/11/2007 8.700
22/11/2007 – 25/02/2008 10.200
25/02/2008 đến nay 13.900
(Nguồn tổng hợp từ báo tuổi trẻ)
Mốc quan trọng là vào ngày 25/02/2008. Giá xăng dầu đã được Nhà
Nước cho thả nổi theo giá thị trường. Theo nghị đinh 55 thì giá xăng dầu đã
được giao cho doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh. Từ thời điểm này các
doanh nghiệp nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu chính thức nhận quyền này,
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 7
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp và người dân phải chấp nhận sống chung với
biến động của thị trường thế giới và sau ngày 25/02 thì giá xăng dầu cụ thể là:
Xăng A92 tăng từ 13.300đ/lít lên 14.500đ/lít
Xăng A95 tăng lên 14.800đ/lít
Dầu Diesel 0,25S tăng từ 10.200đ/lít lên 13.900đ/lít
Dầu madut tăng từ 8.500đ/lít lên 9.500đ/lít
Dầu Diesel 0,5S tăng lên 13.950đ/lít
1.2.2 Nguyên nhân chủ yếu để Nhà Nước đưa ra quyết định thả nổi giá
xăng dầu theo giá thi trường
- Giá dầu thô thế giới đang tăng cao ở mức kỷ lục mà Việt Nam vẫn chưa sản
xuất được xăng dầu phục vụ cho thị trường trong nước. Phải đến giữa năm
2009, khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động thì chúng ta cũng
mới có thể đáp ứng được một phần nhu cầu (khoảng 6,5 triệu tấn/năm trong
tổng nhu cầu là 13,5 triệu tấn/ năm).

- Nhà Nước không thể bao cấp mà để doanh nghiệp tự hạch toán độc lập. Ví
dụ như chỉ riêng năm 2007, số tiền bù lỗ chi kinh doanh xăng dầu lên đến
11.000 tỷ đồng. Đây là số tiền rất lớn, thay vì phải tập trung bù lỗ cho doanh
nghiệp thì Nhà Nước có thể làm kinh phí cho chăm lo cộng đồng, hỗ trợ
người nghèo, vùng khó khăn, vung sâu, vùng xa…
- Nếu tiếp tục bao cấp về xăng dầu thì Nhà Nước vô tình bao cấp cho các
doanh nghiệp nước ngoài và bao cấp luôn các nước láng giềng do tình trạng
buôn lậu xăng dầu qua biên giới không thể kiểm soát nổi.
2.Đánh giá tác động của giá xăng dầu đối với nền kinh tế Việt Nam
2.1 Những mặt lợi và mặt hại của việc thả nổi giá xăng dầu theo giá thị
trường đối với nền kinh tế Việt Nam
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 8
2.1.1 Những mặt lợi
- Về mặt vĩ mô, Nhà Nước từ nay sẽ không phải đau đầu với con số hàng
chục ngàn tỷ đồng mỗi năm để bù lỗ hỗ trợ doanh nghiệp. Nguồn tiền lớn
này thay vì hỗ trợ gián tiếp cho doanh nghiệp thì từ nay sẽ hỗ trợ trực tiếp
đến người dân chịu sức ép của tăng giá xăng dầu.
- Bên cạnh đó hàng loạt thành quả được tạo ra khi Nhà nước không phải mất
công, mất sức chống buôn lậu, ngăn ngừa tình trạng “bao cấp ngược” cho thị
trường khu vực và các doanh nghiệp nước ngoài hưởng lợi từ bao cấp giá.
- Từ nay doanh nghiệp cũng hoàn toàn chủ động trong kinh doanh mà không
phải chạy theo chính sách; ngược lại, cơ quan quản lý không phải can thiệp
vào doang nghiệp bằng những mệnh lệnh hành chính.
- Bên cạnh đó, thị trường cơ bản có được môi trường cạnh tranh mà ở đó
doanh nghiệp buộc phải đổi mới quản lý, tiết kiệm chi phí; còn người tiêu
dùng thì phải tiết kiệm tiêu dùng, được lựa chọn mức giá cạnh tranh…

2.1.2 Những mặt hại
- Các doanh nghiệp vân tải, với hàng ngàn lít xăng tiêu thụ mỗi ngày, số tiền

bội chi nhân với 1.500đ/lít đã là con số rất lớn. Chưa hết, phần đông đối
tượng là nông dân, ngư dân đang sử dụng số lượng lớn dầu cho sản xuất,
đánh bắt xa bờ… cũng sẽ oằn vai với số bội chi tới 3.700 đồng/lít dầu.
-
Bên cạnh đó các chuyên gia cũng đưa ra cảnh báo bởi gần như chắc chắn,
hàng loạt các lĩnh vực kinh doanh khác có sử dụng xăng dầu cũng sẽ tăng
giá trong tương lai gần.

- Đặc biệt với ba ngành than, điện, xi măng, việc khống chế giá đầu ra trong
khi chi phí đầu vào tăng vọt sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực này phải chịu sức ép rất lớn. Điều đó cũng sẽ làm cho các doanh
nghiệp này hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế chung.
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 9
- Giá xăng dầu tăng cũng sẽ tác động tiêu cực về mặt tâm lý. Như chúng ta đã
biết yếu tố tam lý luôn gây phản ứng dây chuyền đội giá của các hàng hóa, dịch
vụ khác đối với dân chúng theo vòng luân chuyển tiếp theo. Tác động tâm lý
này trên thực tế lại xảy ra với thị trường Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so
với những dự liệu.
2.2 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành khai thác thủy hải sản
Chưa bao giờ những chủ phương tiện đánh bắt thủy hải sản phải vất vả trước
“cơn bão giá” như hiện nay. Xăng dầu tăng giá kéo theo hàng loạt dịch vụ nghề
biển tăng theo… gây bất lợi cho những người sống bằng nghề khai thác biển. Hiện
đã có không ít phương tiện khai thác xa bờ phải ngưng hoạt động. Tháng 1 năm
2007 giá dầu tăng lên 8.700đ/lít, ngày 22/11/2007 tăng vọt lên 10.200đ/lít (tăng
17%) và đến 25/02/2007 tăng lên 13.900đ/lít chỉ một năm mà giá dầu tăng lên
59,77% không chỉ mọi người ngỡ ngàng mà còn góp phần đẩy những phương tiện
lẫn ngư dân khai thác nghề biển lâm vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Biết
rằng mặt hàng xăng dầu là mặt hàng rất quan trọng trong nghề đi biển, vì vậy khi

tăng giá xăng dầu đã tác động dây chuyền đến nhiều mặt hàng khác. Sau đây là
điển hình ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau về nỗi khỗ của ngư dân sau khi
giá dầu tăng lên 13.900đ/lít:
2.2.1.Tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Sóc Trăng hiện có trên 1.000 tàu khai thác thủy hải sản, trong đó có
270 tàu khai thác xa bờ, mỗi tàu khai thác xa bờ phải tốn chi phí nhiên liệu cho mỗi
chuyến ra khơi từ 10.000 đến 15.000 lít dầu, như vậy chi phí nhiên liệu tăng thêm
bình quân cho mỗi chuyến khoảng 40 triêu đồng. Các tàu có công suất dưới 90 mã
lực (CV) hoặc tương đương khai thác ngắn hạn trên biển cũng tiêu tốn từ 2.500 đến
3.000 lít dầu và chi phí tăng thêm cho mỗi chuyến từ 6 đến 7 triệu đồng so với thời
điểm áp dụng giá xăng dầu gần đây. Cái khó là ngư dân không thể chủ động điều
chỉnh giá khai thác được. Giá các mặt hàng thủy sản từ sau tết Nguyên đán đến nay
chỉ tăng từ 250 đồng đến 800 đồng một Kg, mức tăng này không thể bù đắp được
chi phí xăng dầu, các chi phí hàng hóa thiết yếu, trong đó có nước đá cũng tăng
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 10
theo do chi phí vận chuyển tăng. Sự tăng giá đồng loạt như vậy khiến cho hầu hết
các tàu thuyền khai thác loại vừa và nhỏ phải neo đậu, chờ giá hải sản tăng thêm để
bù đắp chi phí nhiên liệu đầu vào.
Theo ông Lư Tấn Hòa, phó chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Sóc Trăng:
trong những ngày đầu tháng 3/2008 thì tại khu vực cảng Trần Đề có từ 60 đến 70%
tàu khai thác thủy sản của Sóc Trăng phải nằm bờ chưa ra khơi khai thác. Lý do
nằm bờ thì vẫn là giá xăng dầu tăng trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến các hoạt
động sản xuất, dịch vụ vận chuyển của ngư dân. Riêng hoạt động khai thác biển lại
không thể chủ động tăng giá sản phẩm, phần lớn tàu thuyền khai thác biển phải neo
đậu tại bến để chờ giá hải sản nhích lên để bù đắp giá dầu tăng cao.
Với một số tàu tiếp tục hoạt động thì để có lãi là không nhiều, mức thu nhập
của ngư phủ cũng bị giảm theo. Nếu như trước đây, chủ tàu chi cho ngư phủ trong
khoảng 40% lợi nhuận, thì nay mức chi này chỉ còn 30% đến 35%. Nhiều ngư phủ
chuyển sang các tàu khai thác có công suất lớn, các tàu có công suất vừa và nhỏ

thiếu ngư phủ trong khai thác.
2.2.2 Tỉnh Cà Mau
Xăng dầu tăng giá, mỗi tàu đánh bắt xa bờ ở tỉnh Cà Mau phải tăng thêm chi
phí từ 20 triệu đến 70 triệu đồng trở lên cho một chuyến ra khơi. Mà trong khi Cà
Mau hiện có 1.137 phương tiện đánh bắt xa bờ thì chi phí tăng khoảng từ 22.740
đến 79.590 triệu đồng. Nhiều ngư dân đang phân vân “giữa hai dòng nước” nếu
tiếp tục ra khơi thì sẽ nắm chắc phần lỗ lã, bằng không thì lấy gì để mưu sinh và trả
nợ. Đây thật sự là một bài toán khó cho ngư dân. Mọi thứ điều tăng, trong khi giá
hải sản thì không tăng, do bị các tư thương ép giá để bù đắp cho khoản chi phí xăng
dầu trong những chuyến đi thu mua. Trước thực trạng này, không ít chủ tàu tuyên
bố sẽ chuyển nghề hoặc đợi đến khi dầu sụt giá mới dám ra khơi đánh bắt. Việc
làm của hàng chục ngàn bà con lao động nghề biển cũng sẽ bị lung lai.
Ông Nguyễn Hoàng Thiên, trưởng ban thủy sản thị trấn Sông Đốc, huyện
Trần Văn Thời, Cà Mau cho biết: Nếu chủ phương tiện trả tiền công dưới mức 40%
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 11
trên tổng doanh thu sẽ không thuê được lao động đi biển. Nhưng để có tổng doanh
thu từ 70 triệu đồng trở lên/chuyến không phải tàu nào cũng đạt được. Cho nên,
nhiều tàu câu mực tạm ngưng hoạt động do thua lỗ. Còn đối với nghề cào khơi, chi
phí đầu tư sản xuất còn cao hơn. Một tàu đánh bắt xa bờ công xuất 250CV sau
chuyến đi biển 30 ngày phải đầu tư hơn 300 triệu đồng thì nay phải tăng thêm 70
triệu đồng/tàu/chuyến. Trong khi đó, sản lượng khai thác thủy sản không tăng,
thậm chí còn giảm do nguồn lợi thủy sản ngày càng suy kiệt, cá tạp, cá phân
thường chiếm từ 60% sản lượng thủy sản đánh bắt, trong khi tôm, cá hàng hóa có
giá trị kinh tế cao chỉ chiếm 6 đến 10%.
2.2.3 Tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu hiện có hơn 1000 tàu đánh bắt thủy sản ngoài khơi. Khi giá dầu tăng
lên 13.900 đồng/lít thì các chủ tàu khó khăn nay lại càng khó khăn thêm. Theo ông
Lê Hiền, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân huyện Đông Hải Tỉnh Bạc Liêu thì riêng ở
huyện Đông Hải hiện có khoảng 375 phương tiện đánh bắt xa bờ ngưng hoạt động

và thêm nhiều tàu tiếp tục nằm bờ mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do dầu tăng giá,
từ tháng cuối năm 2007 đến nay, phần lớn ngư dân rơi vào tình trạng thua lỗ sau
các chuyến đi biển, tàu nào hiệu quả nhất chỉ đủ khả năng hòa vốn là giỏi. Ngay cả
ngư dân khai thác thủy sản trước kia ăn chia theo tỷ lệ lợi nhuận nay không còn
dám đi biển theo hình thức chia trên, vì ngày công nhiều mà khai thác không có
bao nhiêu, theo đó yêu cầu chủ tàu trả lương theo ngày công. Nếu ăn chia theo tỷ lệ
lợi nhuận thì có nguy cơ trắng tay sau nhiều ngày cực lực trên biển. Trước đây theo
thông lệ thỏa thuận miệng các tàu chuẩn bị xuất bến ra biển khai thác thì đã được
các đại lý xăng dầu bán thiếu, khi nào về bán cá xong mới thanh toán. Nay dầu lên
giá, các đại lý không kham nổi và không bán thiếu. Do đó nhiều chủ tàu không có
vốn phải cho tàu nằm bờ. Các chủ tàu thì mệt mỏi còn ngư dân không ai thuê “ thất
nghiệp dài dài” đời sông rơi vào cảnh khó khăn hơn.
2.3 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành giao thông vận tải
2.3.1 Ngành vận tải đường sắt
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 12
Ngành vận tải đường sắt lao đao vì chi phí nhiên liệu tăng. Theo ông Nguyễn
Hữu Tuyên, trưởng ban vận tải, tổng công ty Đường Sắt Việt Nam thì trong vận tải
đường sắt, chi phí nhiên liệu của toàn ngành là 610 tỷ đồng, nay đã đội lên 800 tỷ
đồng. Nguyên nhân do giá dầu tăng từ 10.200 đồng lên 13.900 đồng/lít, tăng 36%.
Trong bối cảnh này, giá thành vận tải đường sát bị đẩy lên buộc tổng công ty phải
tính toán cân đối lại giá cước. Hiện nay, ngoài việc yêu cầu các đơn vị thành viên
thực hiện triệt để tiết kiệm, cắt giảm tối đa chi phí, tổng công ty cũng đang tính
toán để điều chỉnh giá cước vận tải hành khách và hàng hóa. Bởi đó là giải pháp
đảm bảo kinh doanh vận tải không bị lỗ. Mà cái khó của ngành Đường sắt là vé tàu
khách thì đã bán trước vài dài ngày, còn cước vận tải hàng hóa thì đã ký hợp đồng
cả năm với các chủ hàng. Việc thương thảo lại với các chủ hàng là không dễ. Hiện
tổng công ty đang nghiên cứu để điều chỉnh giá vé, giá cước cho hợp lý. Tuy nhiên
không thể tăng ngay một lúc 20% như giá nhiên liệu. Trước mắt giá cước vận tải
đường sắt chỉ có thể tăng khoảng 7%.

2.3.2 Ngành vận tải đường bộ
Trước sức ép của việc tăng giá xăng dầu thì việc tăng giá vé, giá cước vận tải
là chuyện sớm muộn, và người dân buộc phải chi thêm tiền cho việc đi lại và vận
chuyển hàng hóa. Thí dụ như tại quầy vé cùa bến xe miền Đông vào ngày 5 tháng
3, các bảng niêm yết giá thì giá cước cũ bị giá cước mới dán chồng lên. Việc tăng
giá vé xuất hiện đồng loạt ở các tuyến từ TP HCM đi các tỉnh Ninh Thuận, Đà
Nẵng, Nha Trang, Bình Định, Hà Nội… việc tăng giá vé trên là đúng theo nhận
định của nhiều người; tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ việc dán bảng giá mới mà
không thông báo, giải thích đã làm nhiều hành khách bực dọc.
Tương tự như bến xe miền Đông thì tại bến xe miền Tây giá vé cũng tăng.
Công ty xe khách miền Tây, Công ty vận tải Trà Vinh và Công ty vận tải Đồng
Tháp đã tăng giá vé. Mức tăng trung bình khoảng 20%. Cụ thể, tuyến TP HCM –
Cần Thơ từ 44.000 đồng/vé lên 52.000 đồng/vé; TP HCM – Cao Lãnh từ 40.000
đồng/vé lên 45.000 đồng/vé; TP HCM – Trà Vinh tăng từ 50.000 đồng lên 60.000
đồng; TP HCM – Cà Mau từ 83.000 đồng lên 98.000 đồng… Theo bà Hà Thị Yến,
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 13
phó tổng giám đốc bến xe miền Tây, giá vé của các doanh nghiệp dịch vụ trung
chuyển khách tăng mạnh hơn các doanh nghiệp khác.
3. Những phương hướng và biện pháp khắc phục những vấn đề trên
3.1 Chính sách chung
Gần đây khi Nhà nước cho các doanh nghiệp tự quyết định giá xăng dầu thì
Bộ Công Thương kiến nghi với chính phủ về một số giải pháp mới nhằm bình ổn
thị trường, giá cả. Theo đó các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu
như xăng dầu, sắt thép… Được tự định giá bán nhưng phải cam kết ổn định ít nhất
trong vòng một quí.
Ngoài ra, trong điều kiện thị trường biến động bất thường, Nhà nước sẽ thực
hiện các biện pháp cấp bách nhằm ổn định thị trường. Các cơ quan quản lý có
quyền tạm thu hồi giấy phép hoạt động của doanh nghiệp khi phát hiện doanh
nghiệp bán giá cao bất hợp lý.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đề nghi chính phủ cho phép áp dụng việc
yêu cầu doanh nghiêp kinh doanh xăng dầu, sắt thép… đăng ký giá bán với cơ quan
quản lý bằng văn bản thông báo giá. Các doanh nghiệp công bố công khai giá bán
và bán theo đúng giá này.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốc độ tăng giá, Chính Phủ yêu
cầu Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ,
linh hoạt; Chính phủ cũng sẽ có các biện pháp đảm bảo cho thị trường bất động sản
tiếp tục phát triển lành mạnh, có kiểm soát và chống đầu cơ trong lĩnh vực này.
Trong đợt điều chỉnh này, Liên bộ cũng nhận định rằng đối tượng chịu áp lực
lớn hơn là những hộ gia đình khó khăn tai các địa bàn vùng sâu, vùng xa… theo đó,
một cơ chế hỗ trợ cũng được ban hành đi kèm với đợt điều chỉnh này. Cụ thể là:
Chính phủ sẽ trung hỗ trợ cho nhóm những người bị tác động trực tiếp, nhiều nhất
từ việc xăng dầu tăng giá và cho người nghèo, như mở rộng diện hỗ trợ và cấp
không thu tiền dầu cho các hộ dân ở các địa bàn chưa có điện lưới, cho các đồng
bào dân tộc thiểu số và thuộc diện chính sách; nâng mức bảo trợ bảo hiểm y tế cho
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 14
người nghèo; giảm thuế trong lĩnh vực nông nghiệp; hỗ trợ thay phương tiện giảm
thiểu chi phí nguyên liệu đối với đánh bắt xa bờ; thực hiện các cơ chế cho vay ưu
đãi…
Bên cạnh những chính sách và biện pháp trên thì Nhà nước cần đầu tư để tìm
những nguồn năng lượng thay thế như:

biodiesel, điện nguyên tử, hydrogen, nhiên
liệu sinh học, năng lượng mặt trời, năng lượng gió…
3.2 Chính sách, biện pháp đối với ngành khai thác thủy hải sản và ngành
giao thông vận tải
Trước những khó khăn của bà con ngư dân, Bộ thủy sản đã đề nghi Chính phủ
dùng một phần trong phí giao thông đường bộ thu qua xăng dầu để tái đầu tư cơ sở
hạ tầng cho ngành thủy sản và điều tra nguồn lợi ngư trường. “Nhà nước có quy

định thu phí đường bộ qua giá xăng dầu nhằm tạo nguồn kinh phí tái đầu tư cho hạ
tầng giao thông. Tuy nhiên, việc thu phí như vậy chưa hợp lý với ngành đánh bắt
thủy sản, bởi họ chủ yếu hoạt động trên biển. Vì vậy đề nghị trích một phần phí đó
để đầu tư lại cho ngư dân”.
Đồng thời, nên tổ chức sản xuất theo mô hình tập đoàn, tổ, đội giúp tiêu hao
nhiên liệu ít hơn. Áp dụng công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với khâu quản lý sau
thu hoạch cũng là một giải pháp giúp tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao giá bán
và bù lỗ khi giá xăng dầu tăng.
Về phía phần mình, Bộ thủy sản sẽ đầy mạnh các dự án phát triển, điều tra
nguồn lợi và dự báo ngư trường chính xác để thông báo cho bà con nơi đánh bắt
hiệu quả, đồng thời tao nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho ngư dân.
Về chính sách hỗ trợ thì Bộ tài chính đã ban hành việc hỗ trợ 33% phí bảo
hiểm thân tàu phải nộp hàng năm cho các tàu đánh cá hoạt động xa bờ; hỗ trợ bằng
tiền trực tiếp cho ngư dân tương ứng với 30% lãi suất vay ngân hàng để đầu tư thay
máy tàu từ loại máy tiêu hao nhiều nhiên liệu sang tiêu hao ít nhiên liệu.
Riêng tỉnh Cà Mau hiện đang thực hiện quy hoạch phát triển nghề cá từ nay
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 gắn với những biện pháp đồng bộ
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 15
nhằm quật dậy nghề khai thác đánh bắt trên ngư trường vốn còn nhiều khó khăn,
bất cập. Theo đó quy hoạch lại ngư trường khai thác trên từng tuyến (tuyến bờ,
tuyến lộng, tuyến khơi), quy định phương tiện, cơ cấu ngành nghề, mùa vụ khai
thác thích hợp, hiệu quả nhưng phải đảm bảo khả năng khôi phục tái tạo của các
loài thủy sản để chúng tiếp tục sinh sôi, nảy nở.
Đối với ngành giao thông vận tải thì giải pháp trước mắt là tìm cách triệt để
tiết kiệm như bố trí lại lịch trình vận chuyển hành khách, giao hàng, nhận hàng, kết
hợp vận chuyển hàng hai chiều để tránh lãng phí. Hoặc cách thứ hai là tăng giá
cước tuy nhiên tăng thì phải có lộ trình để không gây sốc đối với người dân.

Bản nháp chuyên đề năm thứ 3

Trang 16
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trước diễn biến của giá dầu thô thế giới trong vài năm trở lại đây, đặc biệt là
gần đây giá dầu thô đã vượt mức 100 USD/thùng đã gây sức ép đối với giá xăng
dầu trong nước. Trong khi Việt Nam là nước nhập khẩu 100% xăng dầu thành
phẩm thì việc bao cấp, trợ giá đối với xăng dầu sẽ tốn một khoảng chí phí rất lớn.
Thay vì bao cấp bù lỗ xăng dầu thì khoảng tiền này có thể sử dụng cho việc hồ trợ
các đối tượng bị tác động trực tiếp khi giá xăng dầu tăng như: hỗ trợ ngư dân, đồng
bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, diện chính sách… Vì vậy khi Nhà
nước thả nổi giá xăng dầu theo giá thị trường, cho các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu tự quyết định giá là điều hợp lý. Tuy nhiên khi giá xăng dầu được thả nổi
như hiện nay thì nó cũng có nhiều mặt lợi và mặt hại mà những mặt hại này có tác
động không nhỏ đến các ngành nghề như: ngành khai thác thủy hải sản, ngành giao
thông vận tải…
Đối với các ngành thủy hải sản thì khi giá xăng dầu tăng đã làm cho chi phí
của ngành này tăng cao. Trong khi giá các sản phẩm khai thác được không tăng
hoặc tăng rất ít do sự ép giá của thương lái để bù lỗ cho chi phí của các chuyến đi
thu mua. Tuy chính phủ đã có một số biện pháp, chính sách nhưng ngành vẫn còn
rất nhiều khó khăn.
Còn ngành giao thông vận tải cũng bị tác động không nhỏ trong đợt tăng giá
xăng dầu ngày 25/2/2008. Giá xăng dầu tăng cao làm cho chi phí vận chuyển hành
khách, hàng hóa tăng lên rất cao còn giá cước vận chuyển thì không thể tăng đột
ngột mà phải tăng từ từ để không gây sốc đối với khách hàng. Việc tăng giá cước là
chuyện sớm muộn, tuy nhiên ngành giao thông vận tải cần thực hiện nhiều biện
pháp giảm chi phí để bù lại phần nào chi phí nhiên liệu tăng cao như hiện nay.
2. Kiến nghị
Giá xăng dầu tăng cao thì vấn đề chi phí nhiên liệu của ngành khai thác thủy
hải sản và giao thông vận tải đội lên rất cao thì không riêng các chính sách của Nhà
Bản nháp chuyên đề năm thứ 3

Trang 17
nước, ngành cần phải tìm mọi biện pháp để giảm tác động xấu của việc giá xăng
dầu tăng.
- Đối với chính phủ thì chính phủ cần có nhiều biện pháp tích cực hơn:
 Tìm hiểu những khó khăn của những đối tượng bị ảnh hưởng khi giá xăng dầu
tăng để đưa ra những chính sách phù hợp.
 Đẩy mạnh xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất để sớm đưa vào vận hành.
Tăng cường đầu tư xây dựng các nhà máy lọc dầu khác để Việt Nam sớm trở
thành nước không phải nhập khẩu xăng dầu thành phẩm và tương lai trở thành
nước xuất khẩu xăng dầu.
 Tìm và nghiên cứu các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ như: năng lượng
sinh học, năng lượng nguyên tử…
 Tăng cường về quản lý xăng dầu, tránh trường hợp tăng giá bất hợp lý của các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và có những hình thức xử lý thích đáng khi
các doanh nghiệp này vi phạm.
- Đối với ngành khai thác thủy hải sản và giao thông vận tải thì cần có những biện
pháp như sau:
 Tìm cách để tiết kiệm nhiên liệu như thay thế động cơ tốn nhiều nhiên liệu
bằng động cơ tốn ít nhiên liệu.
 Ngành khai thác thủy hải sản cần đẩy mạnh thăm dò ngư trường để cho việc
khai thác có hiệu quả hơn.
 Tìm thêm đầu ra với giá cao cho các sản phẩm khai thác để bù lại phần nào
chi phí xăng dầu.

Bản nháp chuyên đề năm thứ 3
Trang 18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Cầm Văn Kình (26/02/2008), “Nhà nước giá dầu, doanh nghiệp định giá

xăng”, tuổi trẻ, trang 3.
2/ Ngọc Ẩn (26/02/2008), “Nhà xe, nhà thầu đều lao đao”, tuổi trẻ, trang 3.
3/ GS.TS Trần Ngọc Thơ (27/02/2008), “Thả nổi giá xăng dầu trong thị
trường không hoàn hảo”, tuổi trẻ, trang 3.





/>dao/10916701/478



×