Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nguyễn Tư Nghiêm - họa sĩ và nhà... ẩm thực doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.58 KB, 9 trang )

Nguyễn Tư Nghiêm- họa sĩ và
nhà ẩm thực



Dù không am hiểu gì mấy về hội họa, tôi cũng biết được rằng những bức ký
họa trên cuốn sổ gia đình chúng tôi được tặng lại ấy là cực kỳ quý giá. Cuốn sổ là
của cha tôi. Hai bức ký họa trên cuốn sổ đó cũng là chân dung ông. Còn người vẽ
là họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, tác giả các bức tranh “Con nghé”, “ Giao thừa bên
Hồ Gươm”, “Điệu múa cổ”… nổi tiếng sau này.
Cha tôi – nhà văn Nguyễn Huy Tưởng – đã sử dụng cuốn sổ đó trong những năm
đầu kháng chiến. Cuối năm 1947, Pháp nhảy dù Việt Bắc. Cha tôi cùng các ông
Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Đình Thi đã may mắn thoát được vòng vây của
địch, sau đó luồn rừng lần tới chân núi Tam Đảo. Ở đó, họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm
đã vẽ cha tôi vào cuốn sổ nói trên. Cuốn sổ sau đó không biết thế nào lại được nhà
văn Nguyễn Đình Thi cất giữ. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, vợ nhà văn
Nguyễn Đình Thi khi ấy là cô Phạm Thị Trường vẫn còn sống, nhưng cũng đã yếu
lắm rồi. Có lẽ cô biết mình không sống được bao lâu nữa nên đã tặng lại cuốn sổ
đó cho gia đình chúng tôi trước lúc đi xa. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích, và càng
biết ơn cô khi được thấy các bức ký họa có thể nói là vô giá của họa sĩ Nguyễn Tư
Nghiêm.

Bức ký họa thứ nhất, đề ngày 2-12-1947, họa sĩ vẽ cha tôi mặc theo lối cán bộ,
ngồi khoanh chân thư thái dưới chân núi Tam Đảo như trong bài thơ Cá nước của
Tố Hữu. Bức thứ hai được thực hiện 6 ngày sau đó ở làng Thản Sơn (nay thuộc
huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc), khi giặc đã rút chạy; lần này họa sĩ vẽ cha tôi trong
tư thế đứng, mặc theo lối dân tộc nhưng mở phanh ngực trông thật khỏe khoắn,
ngang tàng. Khoảng thời gian cô Trường chuyển lại cho gia đình chúng tôi cuốn
sổ cũng là lúc Nhà xuất bản Hội Nhà văn đang biên soạn cuốn Nguyễn Huy Tưởng
– văn và người, loại sách chân dung-tư liệu về các nhà văn. Tôi liền giới thiệu hai
bức ký họa đó với nhà xuất bản và rất được hoan nghênh. Năm 1991 sách ra, Giáo


sư Hoàng Thiếu Sơn có giới thiệu cuốn sách ở Thư viện Hà Nội. Trong rất nhiều
điều Giáo sư nói về cha tôi và cuốn sách, tôi nhớ nhất một ý rằng, chỉ với hai bức
ký họa của Nguyễn Tư Nghiêm vẽ Nguyễn Huy Tưởng, cũng đáng để mua cuốn
sách đó rồi!
Đến tận khi ấy, tôi chưa có dịp được biết họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Sách ra, được
giới thiệu rồi, tôi mới nghĩ đến việc tìm gặp bác để biếu cuốn sách. Đồng thời
cũng tự trách mình lẽ ra trước đó phải đến xin phép bác đã. Nhưng rồi lại nghĩ, bác
và cha tôi vốn rất quý nhau, chắc bác cũng chẳng nỡ trách con trai bạn về cái việc
“tiền trảm hậu tấu” này đâu.


Chân dung họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm do họa sĩ
Bùi Xuân Phái vẽ
Tôi có quen biết họa sĩ Lương Xuân Đoàn, người khá quảng giao trong giới họa sĩ.
Tôi nói với anh mong muốn của mình và rất mừng là đã được anh nhận lời cùng
tôi tới thăm họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Một sáng chủ nhật đẹp trời, hai chúng tôi
gặp nhau trước cổng ngôi nhà nổi tiếng số 65 phố Nguyễn Thái Học, nơi ở của họa
sĩ Nguyễn Tư Nghiêm cùng nhiều văn nghệ sĩ tài danh khác. Chúng tôi lên tầng ba,
tới trước cửa một gian cơi nới ngay đầu cầu thang. Nhiều nhà biệt thự xưa của Hà
Nội có hành lang khá rộng, các hộ thuê nhà thường quây phần diện tích phía ngoài
căn phòng để có thêm diện tích cho cái gia đình ngày càng phát triển của mình.
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm bấy giờ sống độc thân, chả cần nhiều diện tích ở làm gì.
Nhưng ông là họa sĩ nên cũng rất cần có chút không gian riêng để “hành nghề”,
không được như xưởng của các họa sĩ giàu có thì chí ít cũng là một góc riêng bày
được cái giá vẽ, treo vài ba bức tranh. Ông tiếp chúng tôi ở cái gian cơi nới chằn
chặn 15 mét vuông ấy, không phải trong lúc đang mải miết vẽ thì có khách đến
giữa chừng, mà là khi vừa hoàn thành xong một công việc tối cần thiết: trữ nước
dùng trong ngày. Bấy giờ đất nước vừa bước vào thời kỳ Đổi mới, cuộc sống đã
có nhiều đổi thay nhưng chưa hẳn đã hết các khó khăn của thời bao cấp. Với nhiều
người dân Hà Nội, đó là nạn thiếu nước. Ngôi nhà họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm ở là

một biệt thự cũ kỹ từ thời Tây, nước không lên được các tầng trên. Hằng ngày ông
phải lo lấy nước từ dưới nhà đưa lên cho tiện việc sinh hoạt. Khi chúng tôi đến thì
ông cũng vừa lo xong “việc nước”, đang ngồi nghỉ ngơi vẻ rất mãn nguyện. Ông
tỏ ra vui mừng khi có khách, nhất là lại nhận ra họa sĩ Lương Xuân Đoàn. Anh
Đoàn giới thiệu tôi với ông. Trái với sự chờ đợi của tôi, ông không tỏ vẻ ngạc
nhiên cũng như bất ngờ gì. Ông chỉ biểu hiện sự “ghi nhận” của mình bằng câu hỏi
lại: “Con anh Tưởng? Con anh Tưởng?” Đồng thời gật gật đầu ra ý mời vào.
Chúng tôi ngồi vào cái bàn con, họa sĩ vừa lúi húi pha trà, vừa nghe chúng tôi nói.
Tôi nói về cuốn sách, thanh minh không biết nhà ông để đến xin phép trước, bây
giờ có sách ra xin được biếu ông Tôi lật nhanh đến chỗ có các bức ký họa, chìa
ra đưa ông xem, mắt chăm chăm chờ phản ứng của ông. Ông đỡ lấy ngắm nhìn
bức vẽ của mình, song không có vẻ xúc động như tôi chờ đợi (dẫu gì thì cũng đã
gần nửa thế kỷ kể từ khi ấy!). Nhưng rồi ông ngước nhìn tôi, khẽ nheo nheo mắt,
và nói, như để khẳng định hay như đang hồi tưởng điều gì: “Ra cháu là con bố
Tưởng”


Ký họa của Nguyễn Tư Nghiêm

Biết bao cảm xúc ập đến với tôi khi ấy. Những kỷ niệm của cha tôi với họa sĩ,
được ông ghi lại thật chi tiết và cảm động trong nhật ký, mà trước khi đến thăm
họa sĩ, tôi vừa lần đọc lại. Nỗi xúc động được gặp người họa sĩ tài danh bậc nhất
của nền hội họa Việt Nam, mà với cha tôi, đơn giản là “một người bạn quí” Tất
cả đọng lại thành ấn tượng về một cái gì đó thật dễ chịu, thật êm đềm, khi một kẻ
hậu sinh như tôi được diện kiến họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Ông hầu như không
nói, chỉ ngồi đó lắng nghe, trong khi tôi tranh thủ khoe với ông về những gì mình
biết về ông, về cha tôi, về cô Nghĩa mà tôi đọc được trong nhật ký của cha tôi
viết vội trong những ngày diễn ra trận Việt Bắc, các ông chạy giặc chí chết nhưng
may mà thoát được. Lần ấy, trong đoàn văn nghệ sĩ các ông thế nào lại có một
người đẹp – đẹp như Bodisava theo như cha tôi nói mà tôi không biết nghĩa là gì –

tên là cô Nghĩa. Dường như cả cha tôi và họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm đều mê mẩn
trước sắc đẹp của cô, nhưng họa sĩ mới thực sự là người si tình. Ông vẽ cô lúc
nghỉ, ông cố tình tụt lại sau đoàn người lúc đi để được nói chuyện với cô, ông nảy
ra ý nghĩ nếu không giúp được gì cho kháng chiến, thì giúp cho một người vậy –
và người ấy là cô. Cha tôi luôn tôn trọng những khoảnh khắc riêng tư của bạn,
nhưng mỗi khi có dịp, ông lại cùng họa sĩ và người đẹp chuyện trò rất đỗi thân mật.
Gần hai năm sau đó, trong một cơn khủng hoảng tinh thần, cha tôi sẽ có dịp hồi
tưởng lại những kỷ niệm tuyệt đẹp này trong nhật ký: “Ta đi trên con đường Liễn
Sơn - Thản Sơn. Lòng nặng trĩu buồn. Sau trận Việt Bắc sao mà đời ta thanh thản.
Bên ta một người bạn quí: Nghiêm. Một thiếu nữ tươi đẹp [Nghĩa]. Một tác phẩm
đang làm [Những người ở lại] Đường bốc lên kỷ niệm. Mỗi bước là một hình
ảnh dĩ vãng. Những buổi đi chơi với Nghiêm – trời mát lạnh. Chợ Miễu với Nghĩa.
Bếp lửa hồng. Đêm khuya chuyện gẫu, nướng sắn. Lễ Noel êm đềm.” (3-7-
1949)
Tôi cứ nói và nói, dường như không thể kìm nỗi xúc động khi được kể lại với họa
sĩ những gì biết được qua nhật ký của cha mình. Họa sĩ yên lặng lắng nghe, nhưng
có lúc tôi cảm thấy như ông đang ở đâu đâu xa lắm. Anh Lương Xuân Đoàn cũng
ngồi nghe như một người quan sát, dường như anh đã xác định lần này đến thăm
họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm là dành cho tôi, nên hầu như không tham gia vào câu
chuyện. Thế rồi tôi bỗng đâm ngượng về sự ba hoa của mình. Tôi chợt lúng túng
không biết nói gì nữa. Họa sĩ bỗng mỉm cười. Ông nói, điều hoàn toàn bất ngờ đối
với tôi, và có lẽ, với cả anh Đoàn nữa: “Hay là ở lại ăn cơm nhé. Cũng đến bữa
rồi”. Sao lại có câu hỏi giản dị, tự nhiên, và đúng lúc thế, đúng cái lúc tôi đang
lúng túng không biết nói gì! Tuy nhiên, tôi cũng rất bất ngờ trước lời mời của họa
sĩ. Ông sống độc thân, lại là nghệ sĩ, việc cơm nước chắc không dễ gì. Chúng tôi
lại đến bất chợt, nhận lời ở lại ăn, không biết có quá làm khó ông? Tôi quay sang
anh Đoàn dò hỏi. Anh bảo nếu Thắng không vội, thì nên ở lại ăn cùng họa sĩ. Với
anh, không có vấn đề gì Vâng, thế thì bác cho chúng cháu ăn nhé, tôi cám ơn
họa sĩ, không chỉ với lòng biết ơn, mà – điều này cũng xin nói thật – cả đôi chút tò
mò nữa: cái “việc ở” của họa sĩ, thậm chí cả “việc nước” nữa, mình đã được biết

rồi, còn “việc ăn” thì sao đây?
Họa sĩ để chúng tôi ngồi lại, còn ông đi làm cơm. Ông cứ lúi húi chỗ này một tí,
chỗ kia một tí, không rõ cụ thể ông đang làm gì nữa. Còn tôi và anh Đoàn tiếp tục
câu chuyện, vẫn tôi nói nhiều hơn là anh. Tôi kể thêm những điều cha tôi từng viết
về họa sĩ, trên tờ báo Văn nghệ thời kháng chiến cũng như trong nhật ký. Mấy
tháng sau lần hai ông chạy giặc kể trên, cha tôi có gặp lại họa sĩ khi ông đi tìm gặp
các văn nghệ sĩ để viết về cuộc thi “Việt Bắc kháng chiến”. Trong đoạn kể lại cuộc
gặp họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm trong bài viết đăng báo Văn nghệ số 2 năm 1948,
cha tôi có viết đại ý rằng, họa sĩ bị cái ám ảnh lúc nào giặc cũng có thể nhảy dù
xuống đầu ông, để bắt có riêng ông, vì vậy lúc nào cái ba lô vuông của ông cũng
phải sẵn sàng. “Lần này, cha tôi viết, anh khoe tinh thần đã cứng, tuy vậy anh vẫn
đeo ba lô vì là thời buổi quân sự hóa cần phải thế. Anh vẫn cười hị hị, câu chuyện
vẫn ậm ừ như người ba phải” Bấy giờ không rõ nhà văn Tô Hoài đã cho xuất bản
hồi ký Cát bụi chân ai hay chưa, nhưng chắc chắn là tôi chưa đọc. Vì vậy tôi
không được biết mấy năm sau đấy, họa sĩ còn bị mắc lại chứng bệnh này, khi phải
tham gia công tác giảm tô ở Thái Nguyên. “Cả tuần không bắt được rễ, không xâu
chuỗi được một cố nông nào, nhà văn Tô Hoài kể, Nguyễn Tư Nghiêm hoảng quá
phát dại, đi không nhớ đường về xóm. Suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào,
châu chấu ăn”. Song chỉ riêng đoạn văn cha tôi tả họa sĩ cũng đủ khiến tôi bất ngờ
lắm rồi. Tôi liếc nhìn họa sĩ đang lúi húi chuẩn bị cơm nước cho mấy bác cháu mà
càng khó hình dung chuyện trước kia. Chính cái người hay “cười hị hị”, nói
chuyện thì “ậm ừ như người ba phải” ấy lại có một cốt cách nghệ sĩ hiếm có. Một
lần, cũng trong kháng chiến, cha tôi và ông gặp nhau tại xưởng họa của họa sĩ Tô
Ngọc Vân ở Thanh Cù, còn gọi là phố Tản Cư thuộc đất Phú Thọ. Được xem tranh
của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, bấy giờ là một giảng viên của xưởng họa, cha tôi
đã không kìm được thốt lên: “Những bức sơn mài của Nghiêm đẹp quá” (nhật ký
26-6-1949) Còn họa sĩ thì tâm sự với cha tôi: “Trong đời chỉ có travail và amour.
Danh tiếng không cần lắm” (“travail” và “amour” trong tiếng Pháp có nghĩa là
“công việc” và “tình yêu”)
Chúng tôi cùng trầm ngâm. Dường như họa sĩ Lương Xuân Đoàn cũng lây sự xúc

động của tôi qua giọng kể run run, anh ngồi yên ngắm nhìn bức tranh đang vẽ dở
của họa sĩ trên giá vẽ. Tôi cũng nhìn theo và không khỏi ngạc nhiên. Mặc dù bức
tranh đã vẽ được khá nhiều, tôi vẫn không hiểu là vẽ về gì. Tôi thú thực điều đó
với họa sĩ Lương Xuân Đoàn. Anh mỉm cười thông cảm, bảo: “Hôm nào Thắng
đến xem lúc họa sĩ đang vẽ. Mình đã có lần may mắn được xem ông vẽ rồng. Cứ
thấy ông đưa bút phết liên hồi. Không theo một trình tự đầu cổ thân đuôi chân
trước chân sau gì cả. Có khi đang vẽ mấy cái móng vuốt lại chuyển sang lớp vẩy
trên mình rồng. Cứ như lên đồng ấy”. Thấy tôi ngớ ra như không hình dung nổi,
anh Đoàn giải thích, đại ý: Họa sĩ đã bố cục sẵn bức tranh trong đầu rồi. Lúc vẽ,
tùy theo cảm hứng mà vẽ cái gì trước cái gì sau
Vừa lúc ấy họa sĩ bưng mâm lên. Không chỉ tôi mà cả anh Đoàn cùng trố mắt nhìn.
Cơm canh cá. Có cả vài món nữa nhưng đập vào mắt nhất là món canh cá. Bát
canh xinh xắn nổi rõ các màu thường có của món này: màu vàng ngậy của cá rán
qua, màu đỏ của cà chua, màu xanh đậm của thì là, xanh nhạt của hành lá Tất cả
các màu đó hòa quện với nhau vừa hài hòa, vừa vẫn nổi bật màu nào ra màu nấy.
Và ăn thì lại càng ngon, chắc chắn là bảo đảm các tiêu chuẩn của một món ăn đạt
trình độ ẩm thực cao theo tiêu chí của nhạc sĩ Trần Văn Khê: ngon miệng, bắt mắt,
nhai nghe dễ chịu. Tiêu chuẩn cuối cùng này có khi lại càng được hơn, khi anh
Đoàn và tôi không ngớt lời khen ngon, khen một cách thật tình cũng như ăn một
cách còn thật tình hơn thế
Trong đời tôi đã được hưởng nhiều bữa ăn ngon. Những bữa ăn do mẹ tôi nấu,
những bữa do vợ nấu, những bữa do người thân, những bữa do bạn bè mời mọc,
rồi biết bao lần là tiệc tùng, chiêu đãi ở đủ các nhà hàng sang trọng, với các món
đặc sản hiếm hoi Nhưng chắc chắn khó có lần nào để lại cho tôi ấn tượng đặc
biệt như lần được ăn món canh cá của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, người vốn coi ở
đời chỉ có công việc và tình yêu là quan trọng. Ông từng có lần nói với cha tôi một
câu tục ngữ bằng tiếng Pháp: Il ne faut pas badiner avec l’amour, có nghĩa là:
“Không được đùa với tình yêu”. Còn nhớ, hôm đến thăm họa sĩ ra về, tôi có kể lại
chuyện ấy cho một người bạn biết tiếng Pháp và chúng tôi đã chơi chữ cùng nhau
bằng cách thay chữ cuối “l’amour” (tình yêu) trong câu tục ngữ bằng chữ “la vie

quotidienne” (cuộc sống hằng ngày). Ý chúng tôi muốn thử cắt nghĩa phương
châm sống của ông, có thể là thế này chăng: “Không được đùa với cuộc sống
thường ngày”, nhất là khi người ta là nghệ sĩ, và người ta sống một mình. Nhưng
nay thì ông đã có người nâng khăn sửa túi rồi: chị Giang, ái nữ của nhà văn
Nguyễn Tuân, không chỉ là người bạn đời của ông mà còn thay ông giao tiếp với
đời – từ việc hội họp, kỷ niệm đến chuyện đại sự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh
về văn học nghệ thuật. Đã từ lâu ông tránh mọi cuộc gặp gỡ đông người. Chả phải
ông từng nói ngày nào với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng bạn ông đó sao: “Trong
đời chỉ có travail [công việc] và amour [tình yêu]. Danh tiếng không cần lắm”


×