Lời nói đầu
Trong các môn học xã hội nói chung và môn khoa học kinh tế chính
trị nói riêng ta thấy đợc sự đa dạng về phơng pháp nghiên cứu của môn
học này. Chúng nghiên về nguồn gốc của các nền kinh tế, vạch ra những
quy luật phát triển, dấu hiệu cơ bản, những chức năng riêng lẻ của từng
thành phần kinh tế, từng bộ phận cấu thành, những đơn vị riêng lẻ chúng
gắn bó hữu cơ với nhau để xác lập nên nền kinh tế. Từ nền kinh tế cổ
điển, kinh tế t bản và sang kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa chúng ta
thấy đợc những bớc chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế này (kém, lạc
hậu) sang nền kinh tế kia (có nhiều u điểm, hiện đại hơn). Trải qua từng
giai đoạn lịch sử những bớc thăng trầm hay thịnh vợng của xã hội (hay
còn gọi là chế độ xã hội đơng thời) đều do chức năng của bộ máy Nhà n-
ớc đó quyết định. Nhà nớc vạch ra đờng lối, đa ra chỉ tiêu đúng đắn cho
sự phát triển xã hội đó hay không còn tuỳ thuộc vào nhiều vấn đề. Nhng
đối với những nhà hoạch định chính sách tầm quốc gia thì phải có một
cách nhìn sâu rộng và phải đi từ thực tế khách quan, phải gắn liền với nền
văn hoá, địa lý của nớc đó và phải liên đới với quốc tế để đa ra chính
sách đúng đắn. Cho nên trong đợt làm nghiên cứu khoa học này tôi chọn
đề tài về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là vì: trong thời kỳ này Đảng
và Nhà nớc ta đang thực hiện chơng trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc tiến lên XHCN, sau 10 năm đổi mới ta đã gặt hái đợc nhiều thành
công nhng bên cạnh những thành công đó chúng ta đã mắc phải một số
sai lầm trong cơ cấu nền kinh tế và định hớng nền kinh tế đó. Để thay thế
nền kinh tế cũ chúng ta phát triển nền kinh tế thị trờng hàng hoá nhiều
thành phần thì việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ
phần là vấn đề rất quan trọng và cấp bách (nóng bỏng nhất trong giai
đoạn hiện nay). Vì thế, tôi thấy đây là một đề tài mang ý nghĩa thực tế
hiện hành mà không chỉ mình tôi mà đối với cả sinh viên thuộc ngành
kinh tế và đối với bất kỳ ai quan tâm đến nền kinh tế Việt Nam.
Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ngời mà đã hớng dẫn
cho tôi hết lòng từ khi cha hiểu biết về đề tài này và cho đến khi hoàn
thành. Dù nội dung chỉ đạt đến một chừng mực nào đó thì là do trình độ
nhận thức của mình. Nhng qua lần nghiên cứu này nó giúp cho tôi dần
làm quen với nghiên cứu bậc đại học và tôi tin rằng nó sẽ giúp tôi ngày
càng hoàn thiện hơn về lý luận của mình.
1
I )Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc.
1.1 Cơ sở khoa học:
I.1.1. Cơ sở lý luận:
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Một
hình thái kinh- tế xã hội nó cấu thành nên bởi hai bộ phận chính là: Ph-
ơng thức sản xuất (bao gồm lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất) và
kiến trúc thợng tầng đợc xây dựng trên đó. Theo quy luật phát triển của
xã hội, một xã hội muốn phát triển đòi hỏi quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, để hỗ trợ cho lực lợng sản
xuất đó phát triển. Sự phát triển của lực lợng sản xuất này đi kèm với nó
là một quan hệ sản xuất phù hợp nó tạo động lực cho sự phát triển của
một xã hội. Ta đã thấy sự ra đời của kinh tế hàng hoá dựa trên hai điều
kiện: Sở hữu t nhân và phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá
phát triển đòi hỏi có sự phát triển của sở hữu t nhân và phân công lao
động xã hội. Kinh tế thị trờng là sự phát triển ở trình độ cao của kinh tế
hàng hoá với sự ra đời của hệ thống ngân hàng, thị trờng tài chính và
công ty cổ phần. Các hình thức kinh tế này trớc hết là sản phẩm của sự
phát triển kinh tế hàng hoá nhng điều đó có chung một cội nguồn ở sự
phát triển xã hội hoá sở hữu t nhân. Từ đó ta có thể nói lên rằng sự phát
triển của các hình thái kinh tế -xã hội từ bậc thấp lên bậc cao chúng đều
trải qua thời gian lịch sử. Tơng ứng với một giai đoạn phát triển của lịch
sử sẽ tồn tại một nền kinh tế khác nhau và nền kinh tế đó gắn bó chặt chẽ
và nó quyết định sự phát triển hay tàn luỹ của giai đoạn lịch sử đó. Cho
nên ta có thể nói ở giai đoạn này việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc
là một nhiệm vụ cấp bách, một hiện tợng khách quan phải có đối với Việt
Nam.
I.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế nền kinh tế Việt Nam sau 10 năm đổi mới chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc chúng ta đã
gặt hái đợc nhiều thành công. Đó là một nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phát triển đa dạng. Từ đó nảy sinh một vấn đề là Nhà nớc
không can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, không nên bao biện mà phải
gắn trách nhiệm đến từng chủ thể hoạt động kinh tế.
2
Cho nên trong nền kinh tế thị trờng thực thụ (tức là rốn bao cấp
của Nhà nớc đã bị cắt bỏ hoàn toàn) thì xu hớng cổ phần hoá một bộ
phận các doanh nghiệp Nhà nớc đã diễn ra nh một quy luật.
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh quá trình cổ phần hoá
diễn ra nh sau:
- Các doanh nghiệp nhỏ nếu không muốn bị phá sản thì phải góp vốn
(góp cổ phần) để tạo ra một doanh nghiệp lớn (công ty cổ phần) có sức
cạnh tranh lớn hơn. Bởi vì doanh nghiệp lớn thờng có lợi thế hơn so với
doanh nghiệp nhỏ trong việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành
đổi mới quy trình công nghệ để cuối cùng là có giá bán rẻ hơn, hoặc là
tuy giá không hạ hơn nhng chất lợng mẫu mã tốt hơn, tiêu thụ nhanh hơn
và nhiều hơn đối với một sản phẩm cùng loại.
- Các doanh nghiệp lớn nếu không muốn bị phá sản cũng phải hoặc
là đầu t vốn của mình vào nhiều các doanh nghiệp khác bằng cách mua
cổ phiếu của các công ty cổ phần hoặc là phân tán rủi ro cho nhiều ngời
khác bằng cách bán cổ phiếu cho nhiều doanh nghiệp. Thực chất của cách
làm này là phân tán rủi ro cho nhiều doanh nghiệp để hởng lợi nhuận
bình quân ổn đinh về toàn bộ vốn đầu t. Mà thực tế là các nớc phát triển
trên thế giới đã làm và đã gặt hái đợc kết quả hết sức to lớn.
Nh vậy, việc thành lập một công ty cổ phần trong trờng hợp này là
rất thuận lợi. Vì mọi cổ đông đều có chung một mục đích nên họ đến với
nhau, thông qua điều lệ, bầu giám đốc là hoàn toàn tự chủ và tự
nguyện. Hầu nh không có sự cỡng bức, mất dân chủ nào ngoại trừ số vốn
góp của mỗi ngời là khác nhau nên tiếng nói của họ và lợi tức đợc hởng
là không giống nhau.
Đối với doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN) thì lý do để cổ phần hoá
có khác và do vậy cách cổ phần hoá cũng khác.
Thực tiễn nhiều thập kỷ chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu
quả hơn so với kinh tế tập thể và kinh tế t nhân. Cũng có những trờng hợp
cá biệt trong những điều kiện đặc biệt, với một thời gian ngắn, kinh tế
quốc doanh cũng có thể làm ăn có lãi, phát triển. Nhng nhìn tổng quát,
lâu dài thì kinh tế quốc doanh kém hiệu quả.
Vì doanh nghiệp Nhà nớc thờng làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên
buộc Nhà nớc phải có chính sách tài trợ, bao cấp- tài trợ là một sách lợc
luôn luôn cần thiết, nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt
động tốt theo chủ trơng phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Còn
3
bao cấp là việc không đáng làm, vì Nhà nớc phải bù lỗ cho những doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả và thực ra là không phải duy trì hình thức
quốc doanh. Nh vậy là cũng một khoản tiền mà Nhà nớc cấp cho một
DNNN cụ thể nào đó có thể coi là tài trợ hay là bao cấp phụ thuộc vào
việc xác định doanh nghiệp đó có cần là quốc doanh hay không. Xác định
đúng một doanh nghiệp là quốc doanh hay ngoài quốc doanh là rất khó
và tiêu chuẩn để xác định cũng luôn luôn thay đổi tuỳ vào sự thay đổi
chiến lợc và sách lợc phát triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn của
Chính phủ.
Lịch sử phát triển kinh tế đã cho thấy: Sau đại chiến thế giới II, các
nớc đua nhau thành lập doanh nghiệp Nhà nớc, đặc biệt là các nớc xã hội
chủ nghĩa và các nớc muốn bắt chớc mô hình của Liên Xô (cũ). Nhng đến
những năm 1970 thì đa số các nớc trên thế giới đã nhận ra rằng: kinh tế
quốc doanh là kém hiệu quả và chứa đựng nhiều tiêu cực. Từ đó đến nay,
ở những mức độ khác nhau, với các biện pháp không hoàn toàn giống
nhau, các nớc đang tìm cách cải tổ khu vực kinh tế quốc doanh mà cổ
phần hoá đợc coi là một giải pháp quan trọng và phổ biến.
Nhng thực tế ở các nớc thị trờng phát triển (nh Anh, Pháp ) và ở
các nớc Đông Âu (Hungari, Balan, Tiệp Khắc, Rumani, Bungarri, SNG
) đã cho thấy việc cổ phần hoá DNNN là phức tạp và khó khăn.
Tính phức tạp của cổ phần hoá DNNN bắt nguồn từ nhiều lý do:
- Một là, quan niệm thế nào là DNNN và vai trò của nó trong nền
kinh tế quốc dân của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đảng phái, thậm trí cho
đến mỗi ngời dân thờng không giống nhau, có lúc khác nhau rất lớn. Từ
đó dẫn đến nhận thức về hàng loạt các vấn để khác cũng không thống
nhất nh: Những doanh nghiệp nào để lại hình thức quốc doanh, những
doanh nghiệp nào cần cổ phần hoá cần phải làm nhanh hay làm từ từ, ai
lãnh đạo việc này là đúng, là tốt, cổ phần hoá bao nhiêu phần trăm là vừa.
- Hai là, xử lý những vấn đề có tính chất nghiệp vụ trong quá trình
cổ phần hoá là không đơn giản.
+ Xác định giá trị doanh nghiệp nh thế nào là chính xác ?
+ Đất có tính vào giá trị của doanh nghiệp hay không và tính nh
thế nào?
+ Giải quyết vấn đề lao động nh thế nào khi DNNN chuyển sang
công ty cổ phần?
+ Và rất nhiều vấn đề khác nữa?
4
Ngoài những khó khăn có tính phức tạp gây ra, nh đã nói trên, có
một khó khăn khác là một số DNNN không muốn cổ phần hoá.
Nguyên nhân gây ra sự thoái thác hoặc do dự của một số doanh
nghiệp Nhà nớc có nhiều nhng phổ biến hơn cả là:
- Họ cha hiểu rõ là sẽ đợc gì mất gì khi chuyển sang công ty cổ
phần, nghĩa là có lợi gì không ? Nếu họ muốn chờ xem đã.
- Do thiếu kiến thức và kinh nghiệm nên họ rất ngại ngùng và lo
lắng: tiến hành nh thế nào cho mọi việc đều êm đẹp cả ?
Tóm lại sự lo lắng chần chừ của các DNNN khi chuyển sang công ty
cổ phần là tất nhiên và chính đáng. Ngời lao động không lo lắng làm sao
đợc khi cha biết rõ ngày mai mình sẽ sống ra sao, có tiếp tục đợc làm
việc hay không, tự do dân chủ có đợc mở rộng hơn không ?
Mỗi câu hỏi đó chỉ có thể trả lời bằng chính sách và nội dung cụ thể
về cổ phần hoá ở mỗi nớc, đặc biệt là vấn đề xử lý lợi ích của Nhà nớc và
ngời lao động.
Song dù khó khăn, phức tạp đến đâu, nhng nếu Nhà nớc và toàn dân
nhận thức đợc rằng trong nền kinh tế thị trờng để phát triển và giàu có
lên phải cổ phần hoá phần lớn các DNNN thì công cuộc cổ phần hoá nhất
định sẽ tiến triển tốt. Bằng chứng là, ở mức độ thành đạt và nhanh hay
chậm khác nhau. Nhng từ năm 1980 đến nay các đều đạt đợc những thành
tựu về cổ phần hoá và đang xúc tiến quá trình này nhanh hơn nữa.
ở Việt Nam từ năm 1986 chúng ta đã có chủ trơng đẩy nhanh công
cuộc đổi mới về nhiều mặt.
Đến tháng 11 năm 1987 Chính phủ nhận thấy cần phải cổ phần hoá
một số doanh nghiệp Nhà nớc và muốn thế trớc hết phải làm thí điểm.
Chủ trơng đó đã đợc ghi trong điều 22 tại QĐ ngày 2/7/HĐBT và giao
cho Bộ tài chính chủ trì việc này. Đó là chủ trơng hoàn toàn đúng, nhng
còn quá sớm so với điều kiện lúc đó.
Bao cấp của Nhà nớc cho các DNNN còn rất lớn, cha làm bộc lộ
những yếu kém. Vì thế, tuy có chủ trơng nhng Nhà nớc cũng cha thấy hết
đợc sự bức bách, sống còn phải cổ phần hoá một số các DNNN. Còn
DNNN thì vẫn sống ung dung thậm trí còn làm ăn có lãi (mặc dù lãi
giả) và đóng góp đến 60-70% tổng số thu cho ngân sách Nhà nớc. Do đó,
chủ trơng cổ phần hoá một số DNNN cha trở thành hiện thực.
5
Kinh tế thị trờng ở nớc ta cha phát triển, mỗi hoạt động của mỗi
DNNN cha đợc thơng mại hoá. Vì thế từ trung ơng đến địa phơng cha ai
hiểu mấy về một vấn đề rất mới, rất phức tạp, là cổ phần hoá DNNN.
Cha có sự thống nhất về quan điểm, quyết tâm trong toàn Đảng,
toàn dân nên không thể làm đợc.
Tóm lại, do điều kiện khách quan, chủ quan cha chín muồi nên một
chủ trơng đúng của Chính phủ đã bị lãng quên.
Đến ngày 10-5-1990, tức là hơn 2 năm sau,Chính phủ lại có quyết
định 143/HĐBT trong đó nhắc lại chủ trơng cổ phần hoá một số DNNN.
Lần này vấn đề cổ phần hoá đã đợc nói rõ hơn về mục đích, cách làm. .
.và mặc dù Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng đã rất tích cực và
làm đợc nhiều việc khởi đầu nan. Nhng sau gần 2 năm chủ trơng vẫn
dừng lại ở mức các dự thảo còn trên thực tế Nhà nớc đã thành lập công ty
cổ phần hoặc một phần nào đó của DNNN. Nhng nhìn chung không theo
một bài bản thống nhất nên hiện nay rất khó xử với những loại công ty:
xe khách Hải Phòng, nông trờng Hữu Lũng. . .
Nguyên nhân cha thành của chủ trơng cổ phần hoá năm 1990 có
nhiều nhng đáng chú ý là những nguyên nhân chủ quan sau đây:
Sự thống nhất, quyết tâm và quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng
và Nhà nớc cha cao.
Sự chuẩn bị của các cấp, các ngành và cơ sở thiếu chu đáo và
khẩn trơng. Đáng chú ý là việc tuyên truyền, giải thích, tập huấn. . .cha
làm tốt.
Một số bộ, ngành, địa phơng và DNNN còn có t tởng ỷ lại, chờ
đợi hoặc không muốn làm vì lợi ích cục bộ. Cần nói rõ rằng, đến nay Nhà
nớc cha có điều kiện điều tra, nghiên cứu và tổng kết để có những nhận
xét, đánh giá đầy đủ về việc không thực hiện đợc QĐ 143/HĐBT.
Trên đây chỉ là những nhận xét để rút kinh nghiệm cho việc tiếp tục
làm tốt đợt thí điểm cổ phần hoá lần này theo QĐ 202/CT ngày 8/6/1992
của Chủ tịch HĐBT. Dới đây là một số nội dung chính về chủ trơng
chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
A) Mục tiêu cổ phần hoá một số DNNN:
Cổ phần hoá DNNN lần này nhằm đạt đợc 3 mục tiêu đã đợc nhắc kỹ
theo thứ tự u tiên sau:
6
1)Mục tiêu thứ nhất là: phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài
sản của Nhà nớc thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Trớc hết cần hiểu rằng mục đích của việc cổ phần hoá DNNN là
chuyển quyền sở hữu cho các cổ đông, chứ không phải là quyền sử dụng
nghĩa là mua đứt bán đoạn, chứ không phải nh cho thuê, cho vay. Tuy vậy
vẫn có 2 trờng hợp đặc biệt không chuyển quyền sở hữu mà chỉ chuyển
quyền sử dụng. Đó là:
Đất của doanh nghiệp, vì cho đến nay (8.92) luật pháp Việt Nam
không cho phép bán đất.
Trờng hợp các cổ đông là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế quốc
doanh thì chỉ là chuyển quyền sử dụng các tài sản của Nhà nớc mà thôi.
Thứ hai là: tài sản nói ở đây chủ yếu là thể hiện dới hình thức tài
sản là vốn. Vì vậy, không cần thiết là xem là nên cổ phần hoá phần nào t
liệu sản xuất hay vật phẩm tiêu dùng. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trờng
thì sự chuyển hoá giữa hai hình thức này là thờng xuyên và không khó
khăn gì.
Thứ ba là: nh đã phân tích ở trên hiện nay các DNNN làm ăn rất
kém hiệu quả. Đó là gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc (NSNN) vừa là
nguy cơ với nền tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trờng mà làm
ăn kém hiệu quả (lỗ, không lãi hoặc lãi ít) thì nhất định sớm muộn cũng
bị phá sản. Vì vây mục tiêu cao nhất của cổ phần hoá là phải nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhng nếu duy trì sở hữu
Nhà nớc thì dẫn đến hiệu quả kém. Vì vậy, mục tiêu số một của cổ phần
hoá là giải quyết vấn đề sở hữu, tức là đa dạng hoá quyền sở hữu thì mới
có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhng nếu đã thay đổi
quyền sở hữu mà vẫn không nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thì
mục tiêu của cổ phần hoá coi nh cha đạt đợc. Lúc đó chúng ta phải xem
lại hai vấn đề sau:
Mức độ chuyển quyền sở hữu đã đủ đô hay cha? Theo kinh
nghiệm của thế giới nếu Nhà nớc vẫn chiếm giữ trên 51% cổ phiếu của
công ty thì nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là khó khăn hoặc
không thực hiện đợc. Nếu Nhà nớc còn giữ 20% cổ phiếu trở lên thì vấn
đề thay đổi quản lý sẽ gặp khó khăn. Nghĩa là trong trờng hợp cho phép (
không cần giữ hình thức quốc doanh) thì bán cổ phần ngoài quốc doanh
càng nhiều càng tốt, cho đến 100%.
Chính sách và cơ chế quản lý cha phù hợp ?
7
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bằng cách
đa dạng hoá quyền sở hữu, bán một bộ phận tài sản Nhà nớc cho các cổ
đông là mục tiêu số một của cổ phần hoá DNNN.
2) Mục tiêu thứ hai : là phải huy động đợc một khối lợng vốn nhất
định ở trong và ngoài nớc để phát triển sản xuất kinh doanh.
Các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu t phát triển. Nhng
lấy ở đâu ? Nhà nớc ( ngân sách và ngân hàng) không thể và không nên
tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ
không bao giờ cho DNNN vay nếu DNNN không đợc cải tổ và không có
phơng án cải tổ và có phơng án làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nớc
ngoài sẽ không cho DNNN vay nếu giữ nguyên trạng. Họ chỉ có thể làm
ăn với DNNN thông qua các hình thức thuê, liên doanh, mua cổ phần . . .
Vậy là, muốn có vốn để đầu t cho phát triển DNNN chỉ có thể thông
qua hình thức bán cổ phần.
Việc bán cổ phần cho bên nớc ngoài là rất cần thiết và có thể làm đ-
ợc, vì:
Ta đang thiếu vốn mà họ thì thừa vốn và đang cần thị trờng để
đầu t ( nh Đài Loan, Nam Triều Tiên, Malaysia, Singapore. . .).
Ta đang thiếu kỹ thuật và thiết bị hiện đại, còn họ thì có thừa
( tất nhiên là ta phải lựa chọn cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
doanh nghiệp và tránh nhập đồ bãi rác).
Ta đang thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý đối với nền kinh
tế thị trờng còn họ thì không thiếu và sẵn sàng chuyền lại cho ta. Cũng
cần phải nhấn mạnh rằng: kiến thức và kinh nghiệm của ngời khác bao
giờ cũng cần, cũng quý nhng không thể bê nguyên si vào áp dụng ở
Việt Nam, càng không thể thay thế sự sáng tạo của chúng ta.
Song việc bán cổ phần cho nớc ngoài trong quá trình làm thí điểm là
không nên, vì hai lẽ:
- Một là: đã làm thí điểm thì có thể thành công cũng có thể không
thành công. Nghĩa là ở đây có sự rủi ro rất lớn. Vì vậy, không để ngời n-
ớc ngoài phải chịu rủi ro đó ( ngoại trừ trờng hợp họ thích rủi ro).
- Hai là: các luật lệ nhằm chi phối ngời nớc ngoài trong lĩnh vực
này còn cha đủ. Chúng ta đã có luật công ty và luật đầu t nớc ngoài ở
Việt Nam nhng cả hai luật đó đều cha đủ để điều hành các hoạt động của
ngời nớc ngoài trong công ty cổ phần nhất là về mặt tài chính. Ví dụ,
8
chính sách thuế đối với ngời nớc ngoài trong luật đầu t và luật công ty
phải nh nhau hay khác nhau ?
Nếu một số DNNN Legamex, Diêm thống nhất, công ty liên hiệp
vận chuyển thuộc Liên hiệp hàng hải Việt Nam muốn bán cổ phần cho
ngời nớc ngoài thì phải coi là trờng hợp đặc biệt, vợt ra ngoài khuôn khổ
của QĐ 202/CT và nhất thiết phải có quyết định riêng của Chủ tịch
HĐBT có thể coi trờng hợp đó là thí điểm của thí điểm.
Vấn đề thu hút vốn trong nớc thông qua việc bán cổ phần cũng có
những ý kiến và quan niệm khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng
: cán bộ và nhân dân ta rất nghèo,
vào loại nghèo nhất thế giới làm gì có tiền mà mua cổ phiếu?
ý kiến này không thực tế. Thực ra, hiện nay có bao nhiêu tiền nhàn
rỗi trong dân c thì không một ai có thể nói chính xác đợc. Các số liệu
công bố nơi này, nơi kia chỉ là sự phỏng đoán, thiếu cơ sở tin cậy. Nhng
không phải vì thế mà ta hoàn toàn không biết, không có căn cứ. Chúng ta
hãy xem những biểu hiện chứng tỏ dân có tiền để mua cổ phiếu:
- Tính bình quân thì thu nhập của dân ta thấp, khoảng 200
USD/năm. Nhng một bộ phận không nhỏ dân chung sống khá
sung túc. Rất hiều ngời có xe máy, ti vi màu, có nhẫn vàng đeo
tay, đồng hồ đắt tiền. . .Nghĩa là, họ luôn có khoảng từ 10-30
triệu đồng. Nếu họ muốn ( và ta có hình thức bán hấp dẫn) thì
không khó khăn gì khi họ phải bỏ ra 50000-100000 đồng hay 1-2
triệu đồng để mua cổ phiếu. Từ 1989 khi Nhà nớc cho phép các
chủ hộ t nhân tự do kinh doanh thì có ngời đã bỏ ra hàng trăm
lạng vàng để đầu t ( ở Huế). Hiện nay ở Hà Nội có khoảng 300
hiệu vàng, bạc. Đó chẳng phải là dấu hiệu vốn khá phong phú
trong dân là gì ?
- Qua các đợt bán tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, . . . càng
chứng tỏ dân chúng có nhiều vốn đang cất trữ. Cha đợc sử dụng
hợp lý.
Tóm lại, tiền để mua cổ phiếu ( mức độ tối thiểu là 50000
đ
/cổ
phiếu ) không phải là vấn đề đáng lo. Điều đáng lo là cổ phiếu của công
ty cổ phần có đủ sức hấp dẫn không tức là đầu t vào đó có lợi hay
không ?
Loại ý kiến thứ hai cho rằng:
chỉ nên bán cổ phiếu cho ngời nớc
ngoài hoặc t nhân thôi không bán cho các DNNN khác mua, vì Nhà nớc
bán cho Nhà nớc thì chẳng thay đổi đợc gì vì bản chất DNNN.
9
Xin nói ngay rằng, ngay cả trong trờng hợp này thì DNNN cũng chỉ
có 2 sự thay đổi khác quan trọng.
- Một là, đó là hình thức điều chỉnh vốn từ nơi thừa tới nơi thiếu
trong nền kinh tế quốc dân mà hiện nay ta muốn nhng không làm đợc.
Trong nền kinh tế thị trờng, việc khai thông di chuyển vốn rất có ý nghĩa
rất quan trọng nhằm không cho vốn chết và sử dụng vốn có hiệu quả
hơn ( vì nơi nào làm ăn có hiệu quả ngời ta mới bỏ vốn đầu t hoặc chuyển
vốn đầu t từ nơi khác để đầu t ).
- Hai là, dù có một số DNNN khác mua cổ phiếu thì doanh nghiệp
vẫn đa dạng hoá đợc sở hữu tài sản theo một trong các dạng: quốc doanh
+ tập thể + t nhân; quốc doanh + t nhân; hoặc quốc doanh + tập thể.
Dù sao cũng cần phải nhấn mạnh rằng: đây là hình thức cổ phần hoá
không nên khuyến khích và không nên thực hiện việc DNNN chỉ bán cổ
phần cho kinh tế quốc doanh.
Loại ý kiến thứ ba cho rằng:
dù có vốn đầu t ta cũng không mua
cổ phiếu vì quốc doanh làm ăn kém hiệu quả, tham nhũng lãng phí. . .
Sự nghi ngờ này là do ảnh hởng xấu của DNNN để lại. Sau khi cổ
phần hoá nói chung doanh nghiệp không còn là DNNN nữa, mà:
- Hoạt động theo luật công ty đã đợc Quốc hội thông qua ngày
21/12/1990.
- Có phơng án phát triển và hiệu quả kinh tế mới tốt hơn nhiều so
với DNNN trớc đây. Nếu không nh vậy thì tất nhiên là không ai
mua cổ phiếu.
3) Mục tiêu thứ ba của cổ phần hoá các DNNN là: tạo ra điều kiện
để ngời lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Chúng ta đã phải trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay
hoay mãi mà cha đa lại cho ngời lao động làm chủ thực sự làm chủ tập
thể đã biến thành vô chủ, làm chủ thông qua bộ tứ đã biến thành
tự bố, tức là giám đốc quyết định tất cả (quyết định 217/HĐBT).
Ngoài ra, ngời lao động giác ngộ ra rằng: nếu không làm chủ đợc về
kinh tế thì mọi sự làm chủ đều vô nghĩa, chỉ là hình thức.
10
Chỉ khi có vấn đề cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong
HĐQT (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó ng-
ời lao động mới có quyền thực sự không bị một sức ép nào. Nhng lúc đó
lại xuất hiện một vấn đề khác: quyền làm chủ của mỗi ngời không giống
nhau, ngời giàu (mua nhiều cổ phiếu) thì có quyền hơn ngời nghèo (mua
ít cổ phiếu) .
Nếu theo quan niệm cũ thì đây là một điều không thể chấp nhận đợc,
là sự không công bằng, phi xã hội chủ nghĩa Thực ra, d ới chế độ ta, dới
xã hội chủ nghĩa cũng cha thể có công bằng tuyệt đối. Nhà nớc ta chỉ có
thể và cần phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trớc, nhng đồng
thời có biện pháp để hạn chế ngời nghèo thu hẹp khoảng các giữa giàu và
nghèo. Chỉ có cách đó dân ta mới giàu lên đợc, nớc ta mới phồn vinh đợc.
Không nên có ảo tởng rằng dới chế độ ta mỗi ngời đều bình đẳng về giàu
nghèo, vì nh thế không bao giờ có thể giàu đợc, vì làm gì có động lực để
làm giàu.
Chúng ta cần thấy thêm điều này: Nếu cổ phần hoá các DNNN thành
công, nếu đạt đợc 3 mục tiêu đã nêu thì sẽ có hai hệ quả tất yếu rất quan
trọng.
Một là, sẽ xoá bỏ một cách triệt để bao cấp của Nhà nớc cho
doanh nghiệp dới mọi hình thức. Đây là vấn đề nhức nhối, hiện nay ta
muốn xoá bỏ nhng cha làm triệt để.
Hai là, tạo tiền đề hình thành và phát triển thị trờng chứng khoán.
Để cho sự giao lu vốn thông suốt đáp ứng yêu cầu về sự thiếu vốn
hiện nay, Chính phủ ta (mà trớc hết là chính quyền hai thành phố HCM
và Hà Nội) đang xúc tiến thành lập thị trờng chứng khoán. Muốn thành
lập thị trờng chứng khoán, phải có nhiều điều kiện, nhng một trong
những điều kiện tiên quyết là phải có chứng khoán, mà cổ phiếu là loại tỷ
trọng lớn trên thị trờng đó.
Rõ ràng là, cổ phần hoá (mới có cổ phiếu) và thiết lập thị trờng
chứng khoán gắn bó với nhau, là tiền đề của nhau, đòi hỏi cùng triển khai
một lúc. Bộ tài chính cũng đang dự thảo đề án để trình Chính phủ để
thành lập thị trờng chứng khoán.
B) Đối tợng làm thí điểm làm cổ phần hoá là các
DNNN có đủ 3 điều kiện sau đây:
1)Thứ nhất là chỉ những doanh nghiệp có quy mô vừa ( không phải lớn
cũng không phải nhỏ).
11
Vì đang trong thời kỳ thí điểm nên nếu cổ phần hoá các doanh
nghiệp lớn thì khó làm và nhỡ có sai xót gì thì sẽ thất thoát một số l-
ợng lớn tài sản của Nhà nớc. Nhng nếu thí điểm ở những doanh nghiệp
quá nhỏ thành thì không bõ công, vì cũng gần ấy ban bệ mà chỉ huy
động một khối lợng vốn quá ít, tức là chi phí cổ phần hoá sẽ cao.
Nhng quy mô vừa là thế nào ? Có thể phân loại quy mô doanh
nghiệp theo nhiều cách. Căn cứ vào giá trị tài sản, số ngời lao động, tổng
doanh thu, lợi nhuận làm ra. . . Chúng tôi chọn cách phân loại theo số
vốn pháp định ban hành kèm theo Nghị định 222/HĐBT ngày 23/7/1991
của HĐBT cụ thể hoá một số điều quy định trong luật công ty căn cứ vào
danh mục vốn pháp định đối với từng ngành là, có thể chia làm 3 loại:
Loại công ty cổ phần Vốn pháp định tối thiểu
(triệu đồng)
Loại lớn 1000 - 1500
Loại vừa 500 - 1000
Loại nhỏ 50 - 500
Điều này chỉ đa đến một kết luận là: không nên cổ phần hoá các
DNNN có vốn cổ phần hoá dới 500 triệu đồng.
2)Điều kiện thứ hai, phải là các DNNN không thuộc diện Nhà nớc cần
đầu t 100% vốn ( an ninh quốc phòng hoặc một số ngành then chốt) và đ-
ợc Chính phủ xác định danh mục cụ thể nh đã nói ở phần II).
3)Điều kiện thứ ba: phải là các DNNN đang làm ăn có lãi hoặc là tuy tr-
ớc mắt có gặp khó khăn nhng tơng lai là hoạt động tốt.
Về vấn đề này, có nhiều ý kiến khác nhau:.
Có ý kiến cho rằng Nhà nớc nên bán những doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ chứ tại sao lại bán các doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Chúng ta biết rằng, lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá tổng quát nhất về
hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ thì không chỉ do một nguyên nhân nào mà thờng do nhiều
nguyên nhân, bao gồm cả tài năng và uy tín của giám đốc, chế độ quản
lý, khả năng tiếp cận với thị trờng. . .Cho nên một doanh nghiệp đã có
truyền thống làm ăn thua lỗ thì không có sức thuyết phục cổ đông
12
rằng: khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ làm ăn tốt. Vì thế, qua thực tế
của nớc ta cho thấy các DNNN làm ăn thua lỗ rất khó hoặc không thể cổ
phần hoá đợc, tức là không thể bán đợc.
DNNN đang làm ăn có lãi mới cần bán, vì:
- Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn nữa (lâu nay th-
ờng là lãi giả).
- Để Nhà nớc có thể thu hồi vốn nhằm đầu t cho những yêu cầu
thiết yếu khác (thực hiện mục tiêu 2 của cổ phần hóa DNNN).
- Mới có thể bán đợc, tức là thực hiện đa dạng hoá quyền sở hữu.
Ngoài ra phải xem xét kỹ, doanh nghiệp đem cổ phần hoá có phải là
DNNN thuần tuý hay không ? Nghĩa là, phải xem doanh nghiệp có đủ
điều kiện nh NĐ 388/HĐBT quy định không ? Các doanh nghiệp lâu nay
vẫn gọi là các DNNN nhng lại liên doanh với các đơn vị hoặc cá nhân
trong nớc, ngoài nớc hoặc là có bán cổ phần một số bộ phận nào đó thì
không thuộc diện DNNN thuần tuý nên không đa vào cổ phần hoá trong
đợt này. Ví dụ nh nhà máy xà bông Miền Nam (thuộc công ty bột giặt
Miền Nam, Bộ công nghiệp nhẹ), xí nghiệp sản xuất bao bì ( thuộc công
ty kinh doanh và chế biến lơng thực Hà Nội) không phải là DNNN thuần
tuỳ vì có sự góp vốn của tập thể và cá nhân trong và ngoài nớc nên không
thể đa vào diện cổ phần hoá.
Tóm lại, việc Nhà nớc quy định các điều kiện nói trên là căn cứ vào
điều kiện cụ thể và khả năng của ta sau này, khi cổ phần hoá đại trà các
DNNN thì điểm cổ phần hoá sẽ đợc mở rộng hơn.
2.2 Kinh nghiệm cổ phần hoá các DNNN:
Một số kinh nghiệm cổ phân hoá của các nớc trên thế giới.
2.2.1 Cổ phần hoá ở nhóm các nớc t bản phát triển:
Trong thập kỷ 80, các nớc t bản phát triển, đặc biệt là Tây Âu, đợc
chú ý nh là một quá trình giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nớc và
tiến hành cổ phần hoá các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh
tế thị trờng hỗn hợp đã đợc hình thành với việc thiết lập kinh tế Nhà nớc
ngày càng rộng lớn kể từ sau chiến tranh thế giới hai. Chính sách cổ phần
phần hoá bao trùm ở các nớc này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ
chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật của kinh tế thị tr-
ờng. Thơng mại hoá sản xuất và sự cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn
là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và thể chế hành chính. Cuộc
khủng hoảng của Nhà nớc phúc lợi chung ở Tây Âu đã khiến các Chính
13
phủ đi đến ủng hộ quan điểm kinh tế tân cổ điển và mở đờng cho việc
quay lại vận dụng rộng rãi các cơ chế thị trờng để điều tiết các hoạt động
kinh tế.
Việc thực hiện cổ phần ở các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển
không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có
khu vực kinh tế Nhà nớc mới đảm nhận đợc mà là nâng cao hiệu quả hoạt
động của khu vực này. Do đó, chính phủ mỗi nớc đã lựa chọn các phơng
pháp tiến hành cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế
Nhà nớc, mà trái lại còn củng cố cho xứng đáng với vị trí quan trọng của
nó với trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô
vì lợi ích toàn xã hội.
Xét về quy mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá, khu vực kinh tế Nhà
nớc ở các nớc công nghiệp phát triển có sự thu hẹp xét theo chỉ số về tỷ
lệ việc làm, tỷ trọng trong tổng t bản cố định và thu nhập quốc dân. Theo
số liệu đa ra tại Đại hội lần thứ 12 của CEEP họp tại Pháp tháng 10 năm
1990 trong các DNNN có 100% vốn Nhà nớc và doanh nghiệp Nhà nớc
có vốn hỗn hợp Nhà nớc-t nhân của các nớc EC có 7370000 ngời làm
việc, chiếm gần 10,6% số việc làm trong các ngành kinh tế không kể
nông nghiệp. Tỷ trọng các doanh nghiệp này trong tổng đầu t t bản cố
định là 17,3% còn trong thu nhập quốc dân là 12% tính trung bình trong
khối EC. Đại lợng số học trung bình của 3 chỉ tiêu trên là 13,3% đợc
CEEP sử dụng để ớc tính sự đóng góp kinh tế của khu vực kinh tế Nhà n-
ớc. So với năm 1982 là 16,6% và năm 1985 là 15,3% thì chỉ tiêu trên
phản ánh sự giảm bớt của khu vực kinh tế Nhà nớc ở các nớc khối EC do
quá trình cổ phần hoá. Tuy nhiên sự suy giảm này không làm thay đổi
vai trò của khu vực kinh tế Nhà nớc trong những ngành, những lĩnh vực
quan trọng đối với nền kinh tế. Khu vực kinh tế Nhà nớc vẫn giữ đợc ảnh
hởng quyết định đến các ngành thuộc cơ sở hạ tầng nh: năng lợng, giao
thông vận tải, bu điện, truyền hình viễn thông, các ngành công nghiệp
nặng nh luyện kim, đóng tàu, khai thác và chế biến dầu mỏ, các ngành có
hàm lợng vốn và khoa học kỹ thuật cao nh hàng không, nhà máy điện
nguyên tử, chế tạo các linh kiện điện tử kỹ thuật cao. . .
Quá trình cổ phần hoá ở các nớc đã có nền kinh tế thị trờng phát
triển đợc thực hiện chủ yếu dới các hình thức bán cổ phiếu của các công
ty quốc doanh hay các DNNN qua các sở giao dịch chứng khoán, bán đấu
giá có giới hạn ngời mua, hoặc bán trực tiếp cho những ngời mua đợc lựa
chọn một phần hay toàn bộ cổ phần doanh nghiệp. Việc bán đấu giá hay
bán trực tiếp thờng áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
các lĩnh vực dịch vụ công cộng và thơng mại, cân đối với các công ty lớn
thì phổ biến là cổ phần hoá thông qua bán cổ phiếu trên thị trờng chứng
14