Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Tăng cường quản lý tài chính tại Công ty Xây dựng Lũng Lô.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.8 KB, 87 trang )

1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Không thể phủ nhận rằng thị trường kinh doanh hiện nay đang ngày
một mở rộng hơn, cùng với cơ chế quản lý kinh doanh đổi mới theo yêu cầu
cạnh tranh, một mặt mang lại những lợi ích dài hạn để các doanh nghiệp phát
triển, mặt khác sẽ là thách thức không nhỏ đối với khả năng của doanh
nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tổ chức lại cơ cấu sản xuất, chuyển dịch
đầu tư và điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với những biến động của môi
trường kinh doanh.
Khi bắt tay vào xây dựng các chiến lược sản xuất kinh doanh, một vấn
đề quan trọng mà không một doanh nghiệp nào được phép bỏ qua là phải tính
đến việc quản lý các yếu tố tài chính, xem xét đến hiệu quả của vốn đầu tư, và
ước tính lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh. Có thể nói, tri thức đóng một vai
trò quan trọng trong quản lý tài chính trong đầu tư và kinh doanh, đó là những
kiến thức cơ bản về quản lý tài chính mà nếu không có thì người quyết định
không thể nào nhận ra được tình hình thực tế của những dự án đầu tư của các
kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty Xây dựng Lũng Lô là một doanh nghiệp kinh tế - quốc
phòng, thuộc Bộ Quốc phòng. Trong các năm qua, công ty luôn được đánh
giá là một đơn vị hoạt động hiệu quả của toàn quân. Tuy nhiên, hiện nay công
tác quản lý tài chính ở công ty chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng với vai trò
của nó, đặc biệt là ở các công ty con và xí nghiệp thành viên. Công tác tài
chính kế toán mới chỉ quan tâm đến phần hành kế toán và báo cáo quyết toán,
báo cáo thuế đảm bảo yêu cầu của pháp luật và các cơ quan quản lý Nhà
nước, chưa chú trọng về công tác quản lý tài chính, việc quản lý tài chính mới
chỉ sử dụng những phương pháp đơn giản, các chỉ tiêu và nguồn tài liệu được
2
sử dụng trong quá trình quản lý, phân tích chưa đầy đủ, chưa xây dựng được
thành một hệ thống và đặc biệt, trình độ của cán bộ phân tích, quản lý tài
chính chưa thực sự chuyên nghiệp. Tất cả những điều đó đã dẫn đến việc kém


hiệu quả trong các quyết định tài chính của người quản lý công ty.
Trước tình hình cấp bách đó, cùng với quá trình công tác lâu năm tại
Phòng Tài chính - Kế toán Công ty Xây dựng Lũng Lô - BQP và quá trình
học tập, nghiên cứu tại Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, học viên lựa chọn
đề tài “Tăng cường quản lý tài chính tại Công ty Xây dựng Lũng Lô” làm đề
tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ của mình. Đề tài này mang tính thiết thực
và phù hợp với thực tế yêu cầu của các doanh nghiệp nói chung và của Công
ty Xây dựng Lũng Lô nói riêng.
Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính doanh
nghiệp.
Đánh giá thực trạng hoạt động và công tác quản lý tài chính tại Công
ty Xây dựng Lũng Lô.
Đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính
tại Công ty Xây dựng Lũng Lô dựa trên cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn tại
công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý tài chính doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Quản lý tài chính tại Công ty Xây dựng Lũng Lô
trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2009.
3
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực
hiện luận văn là:
- Phương pháp thống kê, so sánh;
- Phương pháp tổng hợp và phân tích;
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế;
- Phương pháp nghiên cứu tình huống;
Những đóng góp của đề tài

- Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về phương pháp quản lý tài chính
doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Công ty Xây dựng Lũng Lô.
- Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính tại Công ty Xây
dựng Lũng Lô.
Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại Công ty Xây
dựng Lũng Lô giai đoạn 2007 -:- 2009
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý tài
chính tại Công ty Xây dựng Lũng Lô.
4
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
DOANH NGHIỆP VÀ MỤC TIÊU CỦA DOANH NGHIỆP
Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm
tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông
qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và
quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Theo Luật Doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Căn cứ vào hình thức sở hữu, mỗi quốc gia thường có những loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Về cơ bản, các loại hình doanh nghiệp bao gồm:
công ty tư nhân; công ty hợp doanh; công ty cổ phần; công ty trách nhiệm
hữu hạn.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu nhược điểm riêng. Tuy

nhiên, loại hình công ty cổ phần đang trở nên phổ biến và chiếm ưu thế ở các
nước phát triển.
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...
5
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ
cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp
tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn
định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập.
Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển
bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội.
Mục tiêu của doanh nghiệp
Tạo ra giá trị, tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu chính của doanh
nghiệp. Mục tiêu này nhằm không ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở
hữu doanh nghiệp. Cụ thể, mục tiêu này được lượng hóa bằng các chỉ tiêu:
- Tối đa hóa lợi nhuận sau thuế.
- Tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần (EPS). Chỉ tiêu này có thể bổ sung
cho những hạn chế của chi tiêu tối đa hóa lợi nhuận sau thuế vì thứ nhất, tối
đa hóa EPS không xét đến yếu tố thời giá của tiền tệ và độ dài thời gian của
lợi nhuận kỳ vọng, thứ hai, tối đa hóa EPS chưa xem xét đến yếu tố rủi ro, và

cuối cùng, tối đa hóa EPS không cho phép sử dụng ngân sách cổ tức để tác
động đến giá trị cổ phiếu trên thị trường.
- Tối đa hóa giá trị cổ phiếu. Tối đa hóa giá trị thị trường của doanh
nghiệp được xem là mục tiêu thích hợp nhất của doanh nghiệp vì nó kết hợp
nhiều yếu tố như độ dài thời gian, rủi ro, chính sách cổ tức và những yếu tố
khác có ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu.
6
Một yếu tố khác cũng có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới mục tiêu tối
đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp là yếu tố rủi ro, tức là tính không
chắc chắn của môi trường kinh doanh đối với khả năng tạo ra lợi nhuận trong
tương lai của doanh nghiệp. Mỗi cơ hội đầu tư đều có mức độ không chắc
chắn nhất định. Nếu tình hình kinh tế và các điều kiện khác không diễn ra
đúng như giả định, lợi nhuận của các dự án đầu tư có thể không đạt được như
dự kiến, đó là rủi ro.
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Khái niệm quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết
định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu
hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính là hoạt động liên quan đến việc huy động hình thành
nên nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn đó để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý tài chính là một trong các chức năng cơ bản của quản trị
doanh nghiệp. Chức năng quản trị tài chính có mỗi liên hệ mật thiết với các
chức năng khác trong doanh nghiệp như: Chức năng quản trị sản xuất, chức
năng quản trị marketing, chức năng quản trị nguồn nhân lực.
Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, cần chú trọng và phân biệt sự
khác nhau về chức năng, vai trò của các phòng tài chính và phòng kế toán.
Trong khi phòng kế toán chú trọng đến việc ghi chép và phản ánh các nghiệp
vụ kinh tế đã phát sinh và lập báo cáo kế toán, thì phòng tài chính lại chú

trọng sử dụng các báo cáo đó để phân tích, dự báo và hoạch định các hoạt
động tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Mặt khác, kế toán chú trọng
đến chức năng quản lý tài sản hơn, trong khi đó, tài chính chú trọng đến quyết
7
định đầu tư vốn vào đâu, tìm nguồn vốn ở đâu và phân phối lợi nhuận như thế
nào để duy trì và nâng cao giá trị của doanh nghiệp trên thị trường.
Các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chỉ chú trọng đến vai trò của kế toán. Tuy nhiên, hiện nay quan điểm quản lý
đang dần thay đổi, trong đó,vai trò quản lý tài chính đang được chú trọng và
phân rõ chức năng nhiệm vụ của tài chính và kế toán và tạo ra sự đồng bộ, ăn
khớp về những hoạt động liên quan đến tài chính kế toán.
Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp là một trong các chức năng cơ bản của
quản trị doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp cũng là người quản lý tài
chính doanh nghiệp, tuy nhiên, trong doanh nghiệp bao giờ cũng có bộ phận
chuyên trách về công tác quản lý tài chính. Bộ phận đó có thể thuộc phòng kế
toán của doanh nghiệp hoặc có thể được tổ chức riêng phụ thuộc vào quy mô
và mô hình tổ chức của doanh nghiệp.
Thông thường, các doanh nghiệp nhỏ, bộ phận thực hiện công tác tài
chính thường là một bộ phận của phòng kế toán hoặc do các nhân viên kế
toán kiêm nhiệm. Còn trong các doanh nghiệp có quy mô lớn, mô hình tổ
chức thường có giám đốc tài chính (CFO) quản lý phòng tài chính - riêng biệt
với phòng kế toán.
Giám đốc tài chính của doanh nghiệp phải luôn đứng trước các vấn đề
tài chính hàng ngày phải giải quyết: các khoản chi tiêu mang tính ngắn hạn;
các quyết định đầu tư mua sắm vào các tài sản cố định như máy móc thiết
bị…là các tài sản hữu hình và các tài sản vô hình như thương hiệu, đưa ra thật
chính xác quyết định của mình về chính sách đầu tư. Giám đốc tài chính phải
đưa ra các quyết định xem cần thực hiện các khoản đầu tư trên bằng nguồn
vốn huy động từ đâu, bằng lợi nhuận giữ lại, hay bằng cách phát hành cổ

8
phần, hay là thông qua phương thức vay nợ và quyết định chính sách tài trợ
như thế nào trong số các nguồn tài trợ nêu trên là có lợi nhất. Giám đốc tài
chính phải đưa ra các quyết định về chính sách phân phối lợi nhuận. Đây cũng
là việc cần phải cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì quyết định giữ lại lợi nhuận để tái
đầu tư hay chia cổ tức có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị thị trường của các cổ
phần của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của các cổ
đông.
Để đưa ra các quyết định đúng đắn, giám đốc tài chính phải tổ chức
thực hiện phân tích tài chính của doanh nghiệp, phân tích tài chính dự án đầu
tư và xem xét, lựa chọn các phương án đầu tư, phương án tài trợ đảm bảo hiệu
quả nhất.
Nói chung, giám đốc tài chính doanh nghiệp có các chức năng sau:
- Đảm bảo đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp
- Huy động ngân quỹ với chi phí thấp nhất;
- Sử dụng hiệu quả các nguồn ngân quỹ;
- Phân tích tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính dự án đầu tư;
Các quy định liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh và ảnh hưởng của
rất nhiều văn bản pháp lý, bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật về các lĩnh
vực: Doanh nghiệp; Kế toán; Thuế; Chứng khoán; Đầu tư; Tài chính ngân
hàng, Bảo hiểm; Ngân sách; Khấu hao … và các Quy chế, quy định về quản
lý tài chính do Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị doanh nghiệp ban hành.
Ở Việt Nam, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoặc có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
9
- Luật Kế toán số 03/2003/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và các vản bản hướng dẫn thi

hành;
- Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 và các văn bản
hướng dẫn thi hành;
- Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật có ảnh hưởng đến công tác
quản lý tài chính doanh nghiệp như: Các văn bản quy định về các sắc thuế;
Các quy định về vốn sở hữu của chủ đầu tư trong kinh doanh đầu tư dự án nhà
ở; Các quy định về quản lý và sử dụng vốn Nhà nước …
Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính doanh nghiệp
Nhân tố môi trường bên ngoài
a. Môi trường kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý
tài chính doanh nghiệp. Những khó khăn từ kinh tế vĩ mô và biến động khó
lường của thị trường có thể khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong và
rủi ro trong quản lý tài chính.
Môi trường kinh tế vĩ mô đang thay đổi rất nhanh và thậm chí sẽ còn
thay đổi nhanh hơn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Hiện đã tồn tại tình trạng cạnh tranh khốc liệt: quá trình toàn cầu hoá
và tự do hoá thương mại đang đe dọa tất cả các ngành kinh doanh.
Hiện nay vấn đề tác động nhanh, mạnh đến doanh nghiệp là lãi suất và
lạm phát. Lãi suất và lạm phát cao đang trở thành một gánh nặng cho doanh
nghiệp.
b. Pháp luật và chính sách của Nhà nước
10
Hệ thống pháp luật có tác động rất lớn đến quá trình quản lý tài chính
của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành
kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến
khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một
đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể

chế luật pháp tại khu vực đó. Pháp luật tác động đến doanh nghiệp theo hai
hướng:
- Tạo ra môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp hoạt động, bảo vệ
doanh nghiệp khi các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, có thể có ưu đãi với
một số loại hình doanh nghiệp nhất định.
- Hạn chế nhất định đối với các doanh nghiệp như la hạn chế về mặt
hàng, quy mô kinh doanh, các loại thuế…
Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới quản lý
tài chính doanh nghiệp nói riêng và quản lý doanh nghiệp nói chung, nó có
thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như các chính sách
thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế, các chính
sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng …
c. Môi trường thuế và quy định về khấu hao tài sản cố định
Hầu hết các quyết định tài chính đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh
hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó có ảnh hưởng đến mục tiêu
quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, nếu thu nhập chịu thuế thấp sẽ tiết kiệm được
thuế, do vậy, doanh nghiệp có khuynh hướng đưa khấu hao và lãi vay lớn vào
chi phí để tiết kiệm thuế, tuy nhiên, chi phí lãi vay và khấu hao lại bị hạn chế
bởi những quy định của Nhà nước.
d. Môi trường tài chính
11
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có lúc tạm thời thăng dư
nhưng cũng có lúc tạm thời thiếu hụt vốn. Lúc tạm thời thặng dư, doanh
nghiệp cần tìm nơi đầu tư vốn để sinh lợi, lúc tạm thời thiếu hụt, doanh
nghiệp cần tìm nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt nhằm đảm bảo cho hoạt động
sản xuất kinh doanh được liên tục và hiệu quả. Do vậy, trong hoạt động của
mình, doanh nghiệp luôn gắn liền với hệ thống tài chính.
Các nhân tố bên trong
a. Quy mô và hình thức của doanh nghiệp

Mỗi doanh nghiệp có quy mô, hình thức khác nhau sẽ có những chính
sách, phương pháp quản lý tài chính khác nhau. Trong khi những doanh
nghiệp Nhà nước hoặc có vốn Nhà nước chịu sự quản lý của các cơ quan hữu
quan thì các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền
quyết định đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp
có quy mô lớn thường có các phòng, ban quản lý tài chính riêng biệt, chuyên
nghiệp, trong khi những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công tác tài chính
thường do các nhân viên kế toán đảm nhiệm. Những điều đó có ảnh hưởng
nhất định đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp.
b. Mục tiêu của doanh nghiệp
Mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển quyết định
đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Trong giai nền kinh tế ổn
định, doanh nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết nhưng trong
những giai đoạn nền kinh tế gặp phải khó khăn, mục tiêu an toàn được doanh
nghiệp chú trọng, cũng có thể mục tiêu của doanh nghiệp là tăng trưởng
doanh thu, chiếm lĩnh thị trường …. Người quản lý tài chính doanh nghiệp
phải có những phương pháp, biện pháp, công cụ khác nhau trong quản lý tài
chính để đạt được mục tiêu mong muốn.
c. Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp
12
Uy tín của doanh nghiệp có tác động đến quản lý tài chính doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu tốt sẽ có nhiều thuận lợi
trong công tác huy động vốn, tiêu thụ sản phẩm và ngược lại, một doanh
nghiệp có uy tín, thương hiệu kém sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều đó sẽ có
tác động rất lớn đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp.
d. Quan điểm, khả năng của người quản lý doanh nghiệp.
Quan điểm, bản lĩnh, tầm nhìn xa trông rộng, khả năng biết nắm bắt
thời cơ, năng lực hoạch định chiến lược … của người quản lý doanh nghiệp
có tính chất quyết định đến công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Một người quản lý doanh nghiệp có tầm nhìn xa, trông rộng, có ý chí

và quyết tâm can đảm theo đuổi mục tiêu, có ý thức sáng suốt, biết mạo hiểm
có những quyết định tài chính đúng đắn trong những tình huống nan giải,
trong lúc đó, người kém bản lĩnh, không đủ can đảm sẽ không thể đưa ra
quyết định đúng đắn.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên thực hiện công
tác tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính. Với đội ngũ cán bộ
công nhân viên có trình độ cao, chuyên nghiệp trong phân tích, lập báo cáo tài
chính, kết quả phân tích, báo cáo tài chính sẽ có tính chuẩn xác, giúp cho
người quản lý doanh nghiệp có những quyết định tài chính đúng đắn hơn.
Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp
Lập kế hoạch tài chính
a. Lập kế hoạch tài chính
Lập kế hoạch tài chính là một nội dung rất quan trọng trong quản lý
tài chính đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức
và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì và mở
rộng công việc kinh doanh.
13
Kế hoạch tài chính là bản kế hoạch huy động đầy đủ, kịp thời, có hiệu
quả tiền vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh.
Kế hoạch tài chính gồm kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch dài hạn. Kế
hoạch tài chính ngắn hạn là kế hoạch về lợi nhuận và ngân quỹ doanh nghiệp
trong khi kế hoạch dài hạn thường mang tính chiến lược và liên quan đến việc
lập các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong vòng từ 3 đến 5
năm.
Để có một bản kế hoạch tài chính phù hợp, trước hết doanh nghiệp
phải có kế hoạch sản xuất, kế hoạch kỹ thuật (sửa chữa, thay thế, mua sắm bổ
sung thiết bị) và kế hoạch đầu tư phát triển cụ thể. Những bản kế hoạch này
chính là mục tiêu đáp ứng của kế hoạch Tài chính. Sau khi có những bản kế
hoạch này, bộ phận Tài chính doanh nghiệp sẽ tiến hành lập bảng cân đối nhu
cầu vốn để đáp ứng các kế hoạch nêu trên bao gồm: vốn lưu động cho sản

xuất, vốn đầu tư dài hạn cho nhu cầu mua sắm TSCĐ và cho đầu tư phát triển:
- Nhu cầu vốn lưu động được xác định đầy đủ tại các khâu cung ứng
nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế (khả năng, tần suất cung cấp); dự trự
nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế (định mức tồn kho); sản xuất ra sản
phẩm chờ giao cho khách hàng (giá thành sản xuất sản phẩm) và khâu chờ
thanh toán. Nhu cầu vốn lưu động nêu trên sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn lưu
động trong vốn chủ, khấu hao tài sản cố định chưa chi, các khoản chờ thanh
toán do chưa đến hạn, lợi nhuận chưa phân phối, các quỹ chưa chi… sau đó
đến các khoản vay ngắn hạn ngân hàng.
- Nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho nhu cầu mua sắm TSCĐ và cho đầu
tư phát triển sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn cố định trong vốn chủ và vốn vay
dài hạn ngân hàng.
- Cân đối nguồn vốn: cơ cấu hiệu quả của nguồn vốn đối với mỗi loại.
Đối với vốn lưu động thì nguồn vốn vay sẽ chiếm tỷ trọng tối đa bao nhiêu
14
trên tổng nhu cầu vốn và lãi suất vay tối đa bao nhiêu thì hiệu quả. Trường
hợp tỷ trọng vốn vay quá cao hoặc lãi suất tiền vay cao có thể làm giảm lợi
nhuận, thậm chí có thể lỗ thì phải có kế hoạch bổ sung vốn chủ hoặc hạn chế
sản lượng tự làm để giảm nhu cầu vốn lưu động và ngược lại. Đối với vốn đầu
tư dài hạn cũng vậy, trước hết phải xác định tỷ lệ cân đối giữa vốn chủ (nguồn
vốn cố định giành cho mua sắm TSCĐ và đầu tư phát triển) và vốn vay dài
hạn ngân hàng sau đó mới tiến hành kêu gọi tài trợ vốn từ phía ngân hàng.
Trường hợp không đủ tỷ lệ vốn chủ cần thiết có thể dẫn tới dự án kém hiệu
quả thì phải bổ sung vốn chủ kịp thời. Riêng đối với việc sử dụng vốn vay dài
hạn ngân hàng mua TSCĐ là máy móc thiết bị hoặc phương tiện vận tải thì
cần phải đối chiếu với phương án thuê mua tài chính để có thể lựa chọn được
phương án hiệu quả.
b. Quy trình lập kế hoạch tài chính
• Bước 1: Nghiên cứu và dự báo môi trường
Để xây dựng kế hoạch tài chính, doanh nghiệp cần tiến hành nghiên

cứu các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Nghiên cứu môi trường bên ngoài để có thể xác
định được các cơ hội, thách thức hiện có và tiềm ẩn ảnh hưởng đến hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Nghiên cứu môi trường bên trong tổ chức để thấy
được những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp để có thể có những giải
pháp hữu hiệu khắc phục những điểm yếu và phát huy cao độ những điểm
mạnh.
• Bước 2: Thiết lập các mục tiêu
Mục tiêu tài chính của doanh nghiệp bao gồm các mục tiêu về lợi
nhuận, mục tiêu doanh số và mục tiêu hiệu quả. Các mục tiêu tài chính cần
xác định một cách rõ ràng, có thể đo lường được và phải mang tính khả thi.
Do đó các mục tiêu này phải được đặt ra dựa trên cơ sở là tình hình của doanh
15
nghiệp hay nói cách khác là dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu và dự
báo môi trường. Đồng thời, cùng với việc đặt ra các mục tiêu thì nhà quản lý
cần phải xác định rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận trong
doanh nghiệp trong việc thực hiện các mục tiêu này.
• Bước 3: Xây dựng các phương án thực hiện mục tiêu
Căn cứ vào các mục tiêu đã đề ra, dựa trên cơ sở tình hình hoạt động
của doanh nghiệp, các nhà quản lý xây dựng các phương án để thực hiện các
mục tiêu này. Các phương án phải được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học và
chỉ những phương án triển vọng nhất mới được đưa ra phân tích.
• Bước 4: Đánh giá các phương án
Các nhà quản lý tiến hành phân tích, tính toán các chỉ tiêu tài chính
của từng phương án để có thể so sánh, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của
từng phương án cũng như khả năng hiện thực hoá như thế nào, tiềm năng phát
triển đến đâu…
• Bước 5: Lựa chọn phương án tối ưu
Sau khi đánh giá các phương án, phương án tối ưu sẽ được lựa chọn.
Phương án này sẽ được phổ biến tới những cá nhân, bộ phận có thẩm quyền

và tiến hành phân bổ nguồn nhân lực và tài lực cho việc thực hiện kế hoạch.
Phân tích tài chính
Quản lý tài chính doanh nghiệp liên quan đến việc ra các quyết định
về đầu tư, nguồn vốn, phân chia cổ tức và phòng ngừa rủi ro. Các quyết định
này được thực hiện ở thời điểm hiện tại nhưng sẽ ảnh hưởng đến tương lai của
doanh nghiệp. Do vậy, người quản lý doanh nghiệp, trước khi ra quyết định
phải hiểu được tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp thông qua kết
quả phân tích tài chính.
Mỗi nhà kinh tế khi nghiên cứu về phân tích tài chính doanh nghiệp
thường có một khái niệm và cách tiếp cận khác nhau. Song theo cách hiểu
16
chung nhất, phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái
niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và
các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một
doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả của doanh
nghiệp đó. Phân tích tài chính có thể được hiểu như là quá trình kiểm tra, xem
xét các số liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, xem
xét và dự tính các rủi ro, tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai làm cơ
sở cho việc ra quyết định tài chính và đánh giá doanh nghiệp một cách chính
xác.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung của
quản lý tài chính doanh nghiệp. Nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sẽ sử
dụng kết quả phân tích tài chính để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh, khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính để điều chỉnh
các hoạt động của doanh nghiệp, định hướng cho việc ra các quyết định đầu
tư, tài trợ, chiến lược phát triển sản phẩm, thị trường và phân chia lợi tức.
Có một hệ thống các công cụ và phương pháp mà người phân tích sử
dụng trong quá trình phân tích tài chính, trong đó có ba phương pháp phân
tích được sử dụng phổ biến nhất là phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ
và phương pháp Dupont.

- Phương pháp so sánh: là phương pháp được áp dụng để xác định xu
hướng biến đổi và mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Phương pháp
so sánh xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu và đánh giá tình trạng tài
chính của một doanh nghiệp thông qua việc so sánh các tỷ số của doanh
nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử
dụng kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích,
các nhà phân tích thường so sánh theo thời gian (so sánh kỳ này với kỳ trước)
để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo
17
không gian (so sánh với mức trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh
nghiệp trong ngành.
- Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này xác định các tỷ lệ chủ
yếu theo các tiêu chí cơ bản, xác định được các ngưỡng, các định mức để
nhận xét và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác
động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, biến một chỉ tiêu tổng hợp thành một
hàm số của một loạt các biến số.
Tài liệu phân tích: Trong tất cả các tài liệu được sử dụng thì Báo cáo
tài chính là tài liệu quan trọng và được sử dụng chủ yếu để phân tích tài
chính. Báo cáo tài chính thể hiện toàn bộ tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và là nơi để cung cấp nguồn thông tin chính xác và
thiết thực cho các chủ thể cả trong doanh nghiệp lẫn ngoài doanh nghiệp. Báo
cáo tài chính có 3 loại là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Nội dung phân tích:
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn để từ đó làm cơ sở để
quyết định các giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp.
- Phân tích luồng tiền: xác định sự thay đổi tiền và nguyên nhân thay
đổi. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt

hơn.
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh để
xác định khả năng và nhu cầu vốn.
- Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn và đánh giá tỷ trọng từng loại
tài sản và nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng.
18
- Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh nhằm xác định, đánh giá mối liên hệ và
đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời
so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp với số liệu trung bình của
ngành (nếu có) để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.
- Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu: Phân tích nhóm chỉ
tiêu đo lường khả năng thanh toán để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản
nợ ngắn hạn của doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính để
đánh giá mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ
vay của doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động để đánh
giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về khả
năng sinh lời để đánh giá một cách tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh và
năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Quản lý tài sản
a. Quản lý tiền và các khoản tương đương tiền
Tiền mặt là nguyên tố quan trọng nhất cho sự tồn tại của doanh
nghiệp. Quản lý tốt luồng tiền mặt sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn
khó khăn và tạo cho doanh nghiệp một cơ hội để đầu tư chiến lược hoặc giảm
thiểu chi phí.
Doanh nghiệp luôn luôn phải giữ tiền mặt nhằm:
- Đáp ứng các nhu cầu giao dịch hàng ngày như chi trả tiền mua hàng,
tiền lương, thuế, cổ tức …
- Sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đầu tư thuận lợi trong qúa trình kinh

doanh như mua nguyên liệu dự trữ khi giá thị trường giảm, hoặc khi tỉ giá
biến động thuận lợi, hay mua các chứng khoán đầu tư nhằm mục tiêu góp
phần gia tăng lợi nhuận.
19
- Duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu khi có những biến cố bất
ngờ xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động thu chi bình thường của doanh nghiệp,
chẳng hạn do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ khiến doanh nghiệp phải chi tiêu
nhiều cho việc mua hàng dự trữ trong khi tiền bán hàng chưa thu hồi kịp.
Tiền mặt ở đây hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tiền mặt tại quỹ của
doanh nghiệp và tiền gửi trên tài khoản thanh toán ở ngân hàng, còn các loại
chứng khoán đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao xem như là tài sản
tương đương tiền mặt. Quản trị tiền mặt liên quan đến thu, chi và đầu tư tạm
thời tiền mặt một cách hiệu quả.
Doanh nghiệp luôn phải có kế hoạch tồn quỹ mục tiêu - tồn quỹ mà
doanh nghiệp hoạch định lưu giữ dưới hình thức tiền mặt hoặc các tài sản
tương đương tiền mặt. Quyết định tồn quỹ mục tiêu tức là quyết định xem
doanh nghiệp nên thiết lập và duy trì mức tồn quỹ bao nhiêu là hợp lý. Liên
quan đến việc quyết định tồn quỹ, doanh nghiệp cần xem xét sự đánh đổi giữa
chi phí cơ hội do giữ quá nhiều và chi phí giao dịch do giữ quá ít tiền mặt.
Nếu doanh nghiệp giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí giao dịch sẽ nhỏ,
nhưng ngược lại chi phí cơ hội sẽ lớn. Tổng chi phí giữ tiền mặt chính là tổng
chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.
Ta có thể xác định mức tồn quỹ tối ưu theo một số mô hình như: mô
hình Baumol, mô hình Millerr - Orr.
• Mô hình Baumol
Mô hình Baumol quyết định tồn quỹ kết hợp giữa chi phí cơ hội và chi
phí giao dịch. Mô hình này được ứng dụng nhằm thiết lập tồn quỹ mục tiêu.
Theo mô hình Baumol, nếu C là thị giá của các loại chứng khoán được bán
trong mỗi lần giao dịch, tồn quỹ bình quân trong mỗi kỳ sẽ là C/2, F là chi phí
cố định phát sinh khi bán chứng khoán ngắn hạn, T là tổng số tiền mặt cần

thiết cho mục đích giao dịch trong thời kỳ hoạch định là một năm, K là chi
20
phí cơ hội do giữ tiền mặt thì Tổng chi phí: TC = C/2 x K + T/C x F. Tổng chi
phí TC đạt cực tiểu khi:

K
TF
C
2
=
Sơ đồ 1.1 mô tả tổng chi phí giữ tiền mặt nhỏ nhất tại điểm C*, cho
nên C* là điểm tồn quỹ tiền mặt tối ưu. Đây chính là tồn quỹ mục tiêu mà
doanh nghiệp cần hoạch định theo mô hình Baumol.
Sơ đồ 1.1: Mô hình Baumol
Mô hình Baumol được xây dựng trên những giả định bao gồm: Doanh
nghiệp áp dụng tỉ lệ bù đắp tiền mặt không đổi; Không có dự trữ tiền mặt cho
mục đích an toàn; Dòng tiền tệ rời rạc chứ không phải liên tục. Những giả
định này không đúng trên thực tế nên làm hạn chế mô hình Baumol, nhưng dù
sao mô hình này cũng có sự đóng góp quan trọng trong lý thuyết quản trị tiền
mặt.
• Mô hình Miller-Orr:
Tổng chi phí giữ
tiền mặt
Chi phí cơ hội giữ
tiền mặt
Chi phí giao địch
C*
Chi phí giữ tiền mặt
Quy mô tiền mặt
21

Mô hình Miller-Orr tồn quỹ với dòng tiền vào và dòng tiền ra biến
động ngẫu nhiên hàng ngày. Mô hình Miller Orr liên quan đến cả dòng tiền
vào và dòng tiền ra với giả định dòng tiền ròng bằng dòng tiền vào trừ dòng
tiền ra có phân phối chuẩn. Dòng tiền dòng hàng ngày có thể ở mức kỳ vọng,
ở mức cao nhất hoặc thấp nhất. Giả định dòng tiền bằng 0, tức là dòng tiền
vào bù đắp đủ dòng tiền ra.
Sơ đồ 1.2: Mô hình Miller - Orr.

Có ba khái niệm cần chú ý trong mô hình này: Giới hạn trên (H), giới
hạn dưới (L) và tồn quỹ mục tiêu (Z). Ban quản lý doanh nghiệp thiết lập H
căn cứ vào chi phí cơ hội giữ tiền là L căn cứ vào mức độ rủi ro do thiếu tiền
mặt. Doanh nghiệp cho phép tồn quỹ biến động ngẫu nhiên trong phạm vi
giới hạn và nếu như vẫn nằm trong mức giới hạn trên giới hạn dưới thì doanh
nghiệp không cần thiết giao dịch mua hay bán chứng khoán ngắn hạn. Khi tồn
quỹ đụng giới hạn trên (tại điểm X) thì doanh nghiệp sẽ mua (H – Z) đồng
chứng khoán ngắn hạn để giảm tồn quỹ trở về Z. Ngược lại, khi tồn quỹ giảm
đến giới hạn dưới tại điểm Y thì doanh nghiệp sẽ bán Z – L đồng chứng
khoán ngắn hạn để gia tăng tồn quỹ lên đến Z .
Tiền mặt
Thời gian
Thấp (L)
Mục tiêu
(Z)
Cao (H)
22
Mô hình Miller-Orr xác định tồn quỹ dựa vào chi phí giao dịch và chi
phí cơ hội. Chi phí giao dịch (F) là chi phí liên quan đến việc mua bán chứng
khoán ngắn hạn để chuyển đổi từ tài sản đầu tư cho mục đích sinh lợi ra tiền
mặt nhằm mục đích thanh toán. Chí phí giao dịch cố định không phụ thuộc
vào doanh số mua bán chứng khoán ngắn hạn. Chí phí cơ hội do giữ tiền mặt

là K, bằng lãi suất ngắn hạn, số lần giao dịch của mỗi thời kỳ là số ngẫu nhiên
thay đổi tùy thuộc vào sự biến động của dòng tiền vào và dòng tiền ra. Kết
quả là chi phí giao dịch phụ thuộc vào số lần giao dịch chứng khoán ngắn hạn
kỳ vọng còn chi phí cơ hội phụ thuộc vào tồn quỹ kỳ vọng.
Với tồn quỹ thấp nhất L đã cho, sử dụng mô hình Miller Orr chúng ta
tìm được tồn quỹ mục tiêu (Z) và giới hạn trên (H) theo mô hình này, giá trị
của Z và H làm cho mức tổng chi phí tối thiểu được xác định theo công thức:
L
K
F
Z
+=
4
3
*
2
δ
H* = 3Z – 2L
Trong đó dấu * chỉ giá trị tối ưu, δ
2
là phương sai của dòng tiền ròng
hàng ngày, F là chi phí giao dịch, K là chi phí cơ hội của tiền và L là tồn quỹ
thấp nhất. Mô hình Miller-Orr còn cho phép xác định tồn quỹ trung bình
C
average
theo công thức:
C
average
=
4Z – L

3
Doanh nghiệp cần xác định tồn quỹ mục tiêu, khoản tiền mặt nhàn rỗi
có thể đầu tư nhằm mục đích sinh lợi bằng cách mua các chứng khoán ngắn
hạn như trái phiếu, tín phiếu của kho bạc. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do thị
trường tài chính chưa phát triển nên các hình thức đầu tư này chưa thực sự
hấp dẫn do tính thanh khoản kịp thời chưa đảm bảo cho nhu cầu tiền mặt
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Quản lý các khoản phải thu
23
Các khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua bán
chịu hàng hóa, dịch vụ. Có thể nói, mọi doanh nghiệp đều phát sinh các khoản
phải thu. Kiểm soát các khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa chi
phí, lợi nhuận và rủi ro. Nếu không bán chịu hàng hóa thì doanh nghiệp có
nguy cơ mất đi cơ hội bán hàng, dịch vụ, do đó mất đi lợi nhuận. Nếu bán
chịu hàng hóa quá nhiều thì chi phí cho khoản phải thu tăng và nguy cơ phát
sinh các khoản nợ khó đòi và rủi ro thu hồi nợ. Do vậy, doanh nghiệp cần có
chính sách bán chịu phù hợp.
Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào
các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả, chất lượng sản phẩm dịch vụ và
chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Trong các yếu tố này, chính sách bán
chịu có ảnh hưởng mạnh nhất đến các khoản phải thu và sự kiểm soát về tài
chính của doanh nghiệp. Hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu só thể kích thích được
nhu cầu, dẫn đến gia tăng doanh thu và lợi nhuận, nhưng vì bán chịu nhiều
làm cho các khoản phải thu tăng lên và bao giờ cũng làm cho chi phí thu hồi
nợ và rủi ro thu hồi nợ tăng lên, do vậy, doanh nghiệp cần xem xét cẩn thận
sự đánh đổi này.
Tiêu chuẩn bán chịu là tiêu chuẩn tối thiểu về mặt uy tín tín dụng của
khách hàng để doanh nghiệp chấp nhận bán chịu hàng hóa dịch vụ. Tiêu
chuẩn bán chịu là một bộ phận cấu thành của chính sách bán chịu của doanh
nghiệp và mỗi doanh nghiệp đều phải thiết lập tiêu chuẩn bán chịu của mình

chính thức hoặc không chính thức.
Tiêu chuẩn bán chịu và chính sách bán chịu có ảnh hưởng rất lớn đến
doanh thu và thị phần của doanh nghiệp. Nếu đối thủ cạnh tranh có tiêu chuẩn
bá chị thấp và mở rộng chính sách bán chịu, trong khi doanh nghiệp không
phản ứng lại điều này thì nỗ lực tiếp thị sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Doanh
nghiệp nên hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu đến mức có thể chấp nhận được, sao
24
cho lợi nhuận tạo ra do tăng doanh thu từ ảnh hưởng của chính sách bán chịu
vượt quá chi phí phát sinh do bán chịu.
Để quyết định mở rộng hay thu hẹp chính sách bán chịu, ta cần phân
tích và so sánh xem lợi ích và chi phí phát sinh như thế nào nếu doanh nghiệp
thay đổi chính sách bán chịu.
Quyết định chính sách bán chịu còn bao gồm quyết định độ dài thời
gian chậm trả và tỷ lệ chiết khấu hàng bán nếu khách hàng thanh toán ngay
hoặc khách hàng thanh toán trước thời hạn bán chịu cho phép.
Khi quyết định độ dài thời gian bán chịu, doanh nghiệp cần phân tích,
so sánh và xem xét lợi ích và chi phí phát sinh để quyết định xem nên áp dụng
thời hạn bán chịu hợp lý.
Thay đổi tỷ lệ chiến khấu ảnh hưởng đến tốc dộ thu tiền của các khoản
phải thu. Tăng tỷ lệ chiết khấu sẽ kích thích người mua trả tiền sớm hơn để
được hưởng chiết khấu, do đó sẽ làm giảm kỳ thu tiền bình quân, kết quả là
giảm chi phí đầu tư các khoản phải thu. Nhưng khi tăng tỷ lệ chiết khấu sẽ
làm giảm doanh thu thuần, do đó giảm lợi nhuận. Do vậy, quyết định tỷ lệ
chiết khấu phải xem xét, so sánh lợi ích và chi phí.
Chính sách bán chịu không chỉ liên quan đến tăng, giảm các khoản
phải thu mà còn liên quan đến khả năng thu hồi nợ. Khi mở rộng chính sách
bán chịu, các khoản phải thu tăng lên và do đó, các khoản nợ khó đòi cũng
tăng lên.
Để quản lý hiệu quả các khoản phải thu, doanh nghiệp không những
có chính sách bán chịu phù hợp mà còn phải có những phương pháp để nâng

cao hiệu quả thu hồi nợ khách hàng:
- Sử dụng kế toán thu hồi nợ chuyên nghiệp: Doanh nghiệp bán chịu
cần phải tổ chức một bộ phận chuyên đánh giá khách hàng trước khi bán chịu
và thu hồi công nợ. Do hoạt động mang tính chuyên nghiệp và trải qua kinh
25
nghiệm nên hiệu suất thu hồi nợ sẽ dần dần được cải thiện và có thể giảm
thiểu chi phí thu hồi nợ.
- Sử dụng nghiệp vụ bao thanh toán: Trong trường hợp địa bàn thu hồi
nợ quá rộng hoặc số lượng khách hàng quá lớn, doanh nghiệp nên sử dụng
nghiệp vụ bao thanh toán. Bao thanh toán là một nghiệp vụ theo đó những
doanh nghiệp thường xuyên bán chịu hàng hóa dịch vụ sẽ bán lại những
khoản nợ phải thu cho một doanh nghiệp chuyên môn làm nghiệp vụ thu hồi
công nợ. Nhờ có sự chuyên môn hóa việc thu hồi nợ nên sau khi mua lại các
khoản nợ, doanh nghiệp có thể nâng cao được hiệu suất thu hồi nợ và giảm
chi phí thu hồi nợ nhờ vào lợi thế về quy mô. Về phía doanh nghiệp bán nợ,
sau khi bán các khoản phải thu sẽ không phải bận tâm đến việc thu hồi nợ mà
chi tập trung vào quá trình sản xuất kinh doanh. Quyết định việc có sử dụng
dịch vụ bao thanh toán hay không phải xem xét và so sánh giữa chi phí thu
hồi nguyên giá một khoản phải thu kèm theo rủi ro và tốn kém chi phí với
việc thu ngay ở hiện tại một khoản bằng nguyên giá nợ trừ đi chi phí dịch vụ
bao thanh toán.
c. Quản lý hàng tồn kho
Tồn kho là một bộ phận tài sản lưu động cần thiết cho hoạt động của
doanh nghiệp. Tồn kho hình thành mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Một doanh nghiệp sản xuất phải duy trì tồn kho dưới hình thức nguyên
vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Tác động tích cực của việc duy trì tồn kho là giúp cho doanh nghiệp
chủ động hơn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:
- Tồn kho nguyên liệu giúp doanh nghiệp chủ động trong sản xuất và
năng động trong việc mua nguyên liệu dự trữ.

×