Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Quản lý tài chính theo mô hình công ty mẹ công ty con tại tổng công ty xây dựng thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.59 KB, 122 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
BCLCTT
BCTC
CĐKT
DN
IAS
IASC
KQHĐKD
SXKD
TK
TMBCTC
TLG
TCDN
VAS
XDCB
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ


Báo cáo tài chính
Cân đối kế toán
Doanh nghiệp
Chuẩn mực kế toán quốc tế
Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế
Kết quả hoạt động kinh doanh
Sản xuất kinh doanh
Tài khoản
Thuyết minh báo cáo tài chính
Tổng công ty Xây Dựng Thăng Long
Tài chính doanh nghiệp
Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Xây dựng cơ bản
DANH MỤC BẢNG
STT Số hiệu Nội dung Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Bảng 2.1
Bảng2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4

Bảng2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10
Bảng 2.11
Bảng tài sản bình quân
Bảng kết quả sử dụng tài sản
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Tình hình thanh toán của Công ty Thăng Long
Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Tốc độ luân chuyển TSLĐ
Cơ cấu tài sản của Công ty THĂNG LONG
Cơ cấu nguồn vốn của Công ty Thăng Long
Kết quả HĐSXKD của TLG trong 3 năm gần đây.
Kết cấu tài chính các Tổng công ty năm 2011
Bảng BCTC các Tổng công ty năm 2011
73
74
84
87
92
94
98
101
103
105
107
STT Số hiệu Nội dung Trang

1
2
3
4
5
Sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.2
Sơ đồ 2.1
Sơ đồ 2.2
Sơ đồ 2.3
Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ- Công ty con
Quan hệ chủ sở hữu nhà nước với công ty mẹ nhà nước
Mô hình quản lý hình chóp
Sơ đồ tổ chức của TLG (Trước chuyển đổi)
Mô hình tổ chức của Tổng công ty Thăng Long (sau đổi
mới)
13
53
57
59
64
LỜI MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài:
Trong mấy năm gần đây kể từ khi nước ta gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đã có sự
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ngoài sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước thì còn có sự thâm nhập, chiếm lĩnh thị phần của các doanh nghiệp nước ngoài. Do
vậy các doanh nghiệp đã có sự phân cực, trạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn. Để tồn tại,
phát triển và khẳng định thương hiệu của mình thì các doanh nghiệp cần phải xác định
cho mình một chiến lược đúng đắn, bởi một chiến lược sai lầm thì hậu quả của doanh
nghiệp phải gánh là rất nặng nề.

Việc hoạch định chiến lược phải tính đến nhiều yếu tố khách quan bên ngoài và chủ quan
bên trong doanh nghiệp, phân tích có hệ thống các thông tin để làm căn cứ hoạch định
hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và trong dài hạn, tập trung mọi nỗ lực và các
nguồn lực vào các mục tiêu chính sao cho có hiệu quả nhất, ứng phó với những tình
huống bất định, thích nghi với sự thay đổi.
Là đơn vị đầu ngành trong lĩnh vực xây dựng Cầu, hầm (được kiểm chứng bằng các sản
phẩm đã khai thác và đưa vào sử dụng và chiếm thị phần khá lớn so với các đơn vị cùng
ngành). Qua quá trình nhìn lại, đằng sau những thành công và lợi nhuận của doanh
nghiệp thì Tổng công ty vẫn còn rất nhiều hạn chế, chưa tận dụng được thế mạnh của
mình để vượt lên hẳn so với doanh nghiệp cùng ngành. Các kết quả kinh doanh vẫn chưa
tương xứng với tiềm lực sẵn có cũng như ngành mũi nhọn mà Tổng công ty đang hoạt
động.
Sau khi gia nhập WTO, trong xu thế hội nhập, hợp tác và cạnh tranh với các tổ chức, tập
đoàn cùng ngành trong nước, khu vực và thế giới thì lợi thế cạnh tranh của ngành mũi
nhọn ( cầu, hầm) của tổng công ty ngày càng rút ngắn hơn so với các đơn vị cùng ngành
khác bởi các đơn vị cùng ngành kia cũng đang được hội tụ và tích lũy đầy đủ các thế
mạnh mà tổng công ty đang có.
Trước bối cảnh trên, việc tìm kiếm và xây dựng một giải pháp ổn định, áp dụng đúng
đắng công tác quản lý tài chính cho Tổng công ty xây dựng Thăng Long thực sự cần
thiết. Quản lý tài chính hiệu quả không chỉ giúp Tổng công ty phát triển ổn định, bền
vững, mang lại lợi ích cho Doanh nghiệp mà còn nằm trong Chiến lược phát triển của
Chính Phủ về quy hoạch Tổng công ty là một tập đoàn, một hạt nhân lớn của nền kinh tế
đất nước.
Điều này đóng một vai trò hết sức quan trọng cho sự thành công của doanh nghiệp nói
chung và Tổng công ty xây dựng Thăng Long nói riêng, nó vạch ra con đường để cho các
doanh nghiệp/Tổng công ty Thăng Long phát triển. Bản thân tổng công ty xây dựng
Thăng Long hiện tại chưa tiến hành phân tích, xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh
doanh cũng như công tác quản lý tài chính cho mình một cách bài bản, hệ thống. Vì vậy
việc tiến hành nghiên cứu, phân tích để xây dựng và áp dụng công tác quản lý tài chính
sao cho phù hợp với Tổng công ty là điều hết sức cần thiết.

Với các tiêu chí nêu trên, đề tài: "Quản lý tài chính theo mô hình Công ty mẹ -
công ty con tại Tổng công ty Xây Dựng Thăng Long " được tác giả lựa chọn làm luận
văn tốt nghiệp với mong muốn vận dụng các kiến thức đã học để góp phần vào sự phát
triển bền vững của Tổng Công ty trong tình hình hiện nay.
• Tình hình nghiên cứu của luận văn
Về mặt cơ sở lý thuyết của công tác quản lý tài chính tác giả vận dụng những
kiến thức đã học trong quá trình học tập bộ môn “Tài chính công ty nâng cao” tại nhà
trường. Về mặt thực tiễn tác giả sử dụng các nghiên cứu luận văn của nhiều học viên các
trường đại học trong cả nước về một số vấn đề liên quan như:
“Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tại Công ty Cổ phần
Sông Đà 10”;“ Công tác lập dự án đầu tư tại Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây
dựng Việt Nam (Vinaconex): Thực trạng và giải pháp”; “Đổi mới tổ chức, quản lý ở
Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con”.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ mới đề cập sơ lược về việc quản lý vốn hoặc quản
lý dự án đầu tư mà chưa đi sâu vào nghiên cứu quy trình quản lý tài chính và việc áp
dụng như thế nào cho mô hình công ty mẹ- công ty con.
• Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận của công tác quản lý tài chính và xây dựng khung
phân tích áp dụng cho các doanh nghiệp áp dụng mô hình công ty mẹ- công ty con. Phân
tích thực trạng và đánh giá về công tác quản lý tài chính tại Tổng công ty xây dựng
Thăng Long. Xác định được các hạn chế và những khó khăn trong công tác này và đề
xuất các giải pháp thực tế nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính tại công
ty.
• Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
• Đối tượng
Công tác quản lý tài chính tại Tổng công ty xây dựng Thăng Long
Các doanh nghiệp áp dụng mô hình công ty mẹ- công ty con
• Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tại Tổng công ty xây dựng Thăng Long& 1 số công ty xây dựng nói riêng
cũng như các công ty sử dụng mô hình công ty mẹ- công ty con nói chung.

- Tập trung vào phân tích, xây dựng công tác quản lý tài chính cho Tổng công ty xây
dựng Thăng Long giai đoạn 2009-2011 và kế hoạch 5 năm
• Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của công tác quản lý tài chính theo mô hình công ty mẹ
công ty con.
- Áp dụng khung lý thuyết vào công tác quản lý tài chính và chỉ ra các điểm hạn chế tại
công ty
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại
tổng công ty.
• Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng, nghị quyết của Đảng bộ Tổng công ty xây dựng Thăng Long, đồng
thời nghiên cứu hình thức chuyển đổi tổ chức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con
của Tổng công ty xây dựng Thăng Long. Trong đó coi trọng phương pháp đúc kết các
bài học từ việc tham khảo kinh nghiệm về công tác quản lý tài chính theo mô hình công
ty mẹ- công ty con tại các công ty khác.
Nguồn dữ liệu chủ yếu sử dụng là Bản báo cáo thường niên của Tổng công ty, của
các Tổng công ty khác trong cùng ngành. Từ đó, sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như:
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê so sánh
- Phương pháp chuyên gia
• Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính theo mô hình công ty mẹ- công ty con
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính của Tổng công ty xây dựng Thăng Long
Chương 3 Giải pháp chủ yếu đổi mới quản lý tài chính ở Tổng công ty xây dựng Thăng
Long theo mô hình công ty mẹ công ty con

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO MÔ HÌNH
CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
• KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON
1.1.1 Khái niệm
Theo Các Mác hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa là hình thức khởi đầu của tổ chức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Sự hình thành các công ty xuyên quốc gia (Transnational
Corporation - TNC) tổ chức và quản lý theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con là kết
quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ
sự tích tụ, tập trung tư bản và tập trung sản xuất cao độ, dẫn đến sự độc quyền của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển dần lên của hiệp tác giản đơn, công trường thủ
công và đại công nghiệp cơ khí đã làm nảy sinh các hình thức tổ chức sản xuất xã hội
ngày một hoàn thiện, từ các xưởng thợ thủ công, đến công trường thủ công, từ công
xưởng công nghiệp đến xí nghiệp sản xuất lớn, đến các loại hình công ty với nhiều hình
thức khác nhau. Phát triển song song với quy mô sản xuất là các hình thức (hay còn gọi
là kiểu tổ chức) quản lý tương ứng và linh hoạt nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Các TNC với
mô hình quản lý hiện đại là một sự tiến bộ lịch sử vô cùng cao, và là một thủ đoạn bóc
lột văn minh và tinh vi, khi người công nhân cũng lại là người có cổ phần trong chính
công ty mà họ làm việc.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, V.I.Lênin
cho rằng tự do cạnh tranh sẽ làm tập trung sản xuất, và sự tập trung đó đạt đến mức độ
nhất định sẽ dẫn đến độc quyền. V.I.Lênin nêu các nét cơ bản của lịch sử độc quyền như
sau:
"- Những năm 1860 - 1870 nấc thang phát triển cao nhất của tự do cạnh tranh. Độc
quyền chỉ là mầm mống bước đầu nhìn thấy.
- Sau khủng hoảng năm 1873, các cartel bắt đầu phát triển, và cũng chỉ là những hiện
tượng thoáng qua.
- Cuối thế kỷ XIX và khủng hoảng những năm1900 - 1903, cartel trở thành một trong
những cơ sở của toàn bộ đời sống kinh tế. Chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế
quốc" [14, tr.142].
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giữa phần ba cuối thế kỷ XVIII

đến đầu nửa sau thế kỷ XIX là thời kỳ của công xưởng cơ khí công nghiệp. Từ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các tổ chức độc quyền bắt đầu ngự trị trên thế giới. V.I.Lênin
cũng chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn phát triển đã diễn ra sự
thống trị của các độc quyền và tư bản tài chính. Xuất khẩu tư bản có ý nghĩa to lớn, sự
phân chia thế giới của các Tơrơt (Trust) quốc tế đã bắt đầu và đã phân chia xong toàn bộ
lãnh thổ thế giới bởi các nước tư bản phát triển nhất. Độc quyền chỉ có thể phát triển trên
cơ sở tập trung sản xuất và tư bản đạt mức độ cao, tư bản công nghiệp và tư bản ngân
hàng đã phát triển tới mức liên kết chặt chẽ với nhau, vươn rộng ra bên ngoài thông qua
xuất khẩu tư bản ngày càng nhiều. Đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ đó, các liên
minh độc quyền và các cường quốc tư bản đã tiến hành phân chia thế giới về kinh tế và
lãnh thổ, từ đó các công ty xuyên quốc gia với hình thức liên kết đa dạng và mô hình tổ
chức Công ty mẹ - Công ty con cũng hình thành và phát triển.
Theo diễn giải của chuẩn mực kế toán quốc tế ISA (International Accounting Standard):
Công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp lý có ít nhất một đơn vị trực thuộc –
công ty con (Subsidiary)
Công ty con là thực thể pháp lý bị kiểm soát bởi công ty mẹ.
Kiểm soát ở đây được hiểu là:
(1) sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều hơn 50% số phiếu bầu;
(2) sở hữu 50% số phiếu bầu hoặc ít hơn nhưng nắm quyền đối với hơn 50% số phiều
bầu theo sự thỏa thuận với các cổ đông khác; hoặc nắm quyền lãnh đạo, điều hành liên
quan đến các chính sách tài chính hay sản xuất kinh doanh của công ty và được qui định
tại điều lệ, theo sự thỏa thuận hay hợp đồng; hoặc có quyền bổ nhiệm hay miễn nhiệm
phần lớn các thành viên của HĐQT, ban lãnh đạo; hay có quyền quyết định, định hướng
đến phần lớn số phiếu bầu tại các cuộc họp HĐQT, ban lãnh đạo.
Mặc dù trên thế giới và tại Việt Nam có nhiều cách diễn giải khác nhau nhưng chúng ta
có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của mô hình này.
1.1.2 Phân loại
Hiện nay việc liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con rất đa dạng tuỳ thuộc vào
loại hình kinh doanh, khả năng tiềm lực sức mạnh và khả năng chi phối của Công ty mẹ,
dưới đây là một số dạng mô hình liên kết chính.

- Mô hình kiên kết chủ yếu bằng vốn
Mô hình này đòi hỏi các Công ty mẹ có tiềm lực tài chính mạnh, thường là các
ngân hàng hoặc các công ty tài chính, hình thành thông qua con đường nhất thể hoá kinh
doanh bằng cách thôn tín, sát nhập. Qua việc nắm giữ số lượng cổ phần chi phối, Công
ty mẹ nắm giữ quyền lãnh đạo các doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết sách về
nhân lực, vật lực, tài lực biến chúng thành các doanh nghiệp cấp dưới trực tiếp (Công
ty con). Các Công ty con này vẫn có tư cách pháp nhân, tiến hành các hoạt động kinh
doanh độc lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần vào một số doanh nghiệp, Công ty
mẹ biến những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác thành các doanh nghiệp phụ
thuộc nửa trực tiếp.
Thực hiện các mô hình liên kết bằng vốn là các Cheabol (Hàn quốc) như
Samsung, Daewoo; các tập đoàn của Nhật Bản lấy Ngân hàng làm trung tâm như Bank
of Tokyo Mitsubishi với 690,461 tỷ USD năm 1997, Sumitomo bank 182,707 tỷ USD
năm 1997.
- Mô hình liên kết theo dây chuyền sản xuất-kinh doanh
Mô hình này thường áp dụng đối với những ngành mà sản phẩm có cấu tạo nhiều cấp,
nhiều bộ phận. Công ty mẹ có tiềm năng lớn, thực hiện chức năng trung tâm như xây
dựng chức năng kinh doanh tiếp thị, phát triển sản phẩm, huy động vốn và phân bổ vốn
đầu tư, quan hệ đối ngoại, đào tạo nhân lực, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Công ty mẹ
kiểm soát một mạng lưới các Công ty con, công ty cháu theo dạng hình chóp (cấp 1, cấp
2, cấp 3), tạo thành một quần thể doanh nghiệp khổng lồ. Ví dụ: Để sản xuất một chiếc
máy bay Boeing 747 phải có 4,5 triệu linh kiện do 1.500 xí nghiệp lớn, 10.000 xí nghiệp
nhỏ và vừa của 6 nước cùng tham gia chế tạo; Vào cuối những năm 1990 có tới 40 -
50% linh kiện và bán thành phẩm thông qua các Công ty con của các công ty đa quốc
gia sản xuất.
Sự phối hợp và kiểm soát hoạt động của Công ty mẹ đối với Công ty con, công ty cháu
được thực hiện rất chặt chẽ, thông qua chiến lược sản phẩm và kế hoạch kinh doanh
đồng bộ từ trên xuống dưới, Công ty mẹ tham gia góp cổ phần, trợ giúp về mặt kỹ thuật,
đào tạo cán bộ, sự phân công hợp tác trong nội bộ tập đoàn hết sức cụ thể và khoa học.
Tuy nhiên theo mô hình liên kết nhiều tầng này, Công ty mẹ có thể không cho phép các

Công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ góp vốn để thành lập các công ty cháu
nhằm giảm thiểu rắc rối trong quản lý tài sản.
- Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất - kinh doanh
Theo mô hình này Công ty mẹ thường là những trung tâm nghiên cứu ứng dụng lớn, lấy
việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên kết. Các Công ty con là đơn vị sản
xuất - kinh doanh, có chức năng ứng dụng những kết quả nghiên cứu công nghệ mới của
Công ty mẹ, biến nó thành sản phẩm có ưu thế trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của
cả tập đoàn chính là khả năng liên kết, từ nghiên cứu đến ứng dụng. Mô hình này thường
áp dụng ở những ngành kỹ nghệ cao.
Tuy các dạng mô hình liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con dựa trên các nền
tảng khác nhau, song suy cho cùng đều là sự chi phối bởi yếu tố tài sản, trong đó bao
gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Sức mạnh chi phối của Công ty mẹ phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng nắm giữ các nguồn tài sản trên và chính những tài sản vô
hình như sở hữu công nghiệp, phát minh khoa học công nghệ, uy tín sản phẩm, thị
trường, thương hiệu, lại có tác động hỗ trợ hết sức hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc để
cũng cố, tăng cường quan hệ hợp tác và lợi ích kinh tế giữa Công ty mẹ và các Công ty
con. Công ty mẹ có thể sử dụng được các lợi thế của Công ty con về các mặt lao động,
tài nguyên, thị trường khi Công ty con đặt ở các quốc gia có ưu thế về các mặt này.
Đây chính là cơ sở để giải thích việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn
xuyên quốc gia. Ví dụ các tập đoàn kinh doanh ở châu Á Thái Bình Dương (Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc) đều chọn đa dạng hoá hoạt động kinh doanh làm chiến lược
phát triển và thường có ba mô hình sau:
- Liên kết theo chiều dọc: Các công ty lớn thường thâm nhập rộng rãi vào các ngành
khác, có liên quan như những bước trung gian của sản xuất và lưu thông. Những năm
gần đây, liên kết theo chiều dọc được mở rộng sang cả những ngành sản xuất khác nhau,
không có mối liên hệ trực tiếp với ngành sản xuất chính của hãng để hình thành các công
ty lớn kinh doanh trên quy mô quốc tế.
- Liên kết theo chiều ngang: Là sự liên kết giữa các công ty lớn trong một ngành nhất
định để hình thành nên các công ty quốc tế khổng lồ.
- Liên kết Conglomerat: Tiến hành vào các ngành công nghiệp tăng trưởng mới, không

liên quan tới lĩnh vực kinh doanh ban đầu. Mối liên hệ giữa Công ty mẹ và các chi
nhánh (Công ty con) chủ yếu là tài chính; Điều hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên
kết với các ngân hàng đầu tư, thương mại, công ty bảo hiểm Cơ cấu của Conglomerat
rất gọn nhẹ, linh hoạt và phi tập trung hoá, chủ yếu là kiểm soát hoạt động của Công ty
con thông qua hệ thống tài chính và chỉ đạo hành chính nhằm tăng cường hiệu quả hoạt
động kinh doanh của các công ty, chi nhánh qua sự dao động giá cả cổ phiếu của nó trên
thị trường chứng khoán.
Một số mô hình Công ty mẹ - công ty con
- Cartel: là hình thức tập đoàn kinh tế theo một ngành chuyên môn hoá, chỉ bao gồm các
công ty sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục đích hạn chế cạnh
tranh thông qua các thoả thuận thống nhất về giá cả, thị trường tiêu thụ, nguyên liệu,
thống nhất các chuẩn mực về mẫu mã, kiểu dáng, kích thước sản phẩm, dịch vụ Trong
Cartel các doanh nghiệp thành viên giữ tính độc lập về mặt pháp lý, còn tính độc lập về
kinh tế được đảm bảo hợp đồng kinh tế. Đây là hình thức tập đoàn có liên kết thấp nhất,
xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ.
- Syndicate là một dạng đặc biệt của Cartel. Sự khác biệt căn bản là Syndicate có một
phòng thương mại chung do một ban quản trị điều hành và tất cả các công ty phải tiêu thụ
hàng hoá qua kênh văn phòng này. Như vậy doanh nghiệp thành viên vẫn giữ được tính độc
lập về mặt sản xuất, nhưng bị phụ thuộc về mặt tiêu thụ sản phẩm. Tính liên kết của tập
đoàn chỉ ở khâu tiêu thụ.
- Trust là một tổ chức cao hơn Syndicate ở chổ Trust không những liên kết về mặt tiêu
thụ sản phẩm mà còn liên kết về mặt sản xuất. Trust bao gồm nhiều doanh nghiệp công
nghiệp do một ban quản trị thống nhất điều hành. Khác với hai loại trên và các thành
viên của Trust đều bị mất quyền độc lập cả về sản xuất và thương mại. Việc thành lập
Trust là nhằm
độc chiếm nguồn nguyên liệu, khu vực đầu tư và thu lợi nhuận cao.
- Consrtium là một trong những hình thức của tổ chức độc quyền ngân hàng nhằm mục
đích chia nhau mua chứng khoán trong hoặc ngoài nước, hoặc tiến hành một vụ mua bán
nào đó. Nó thường do một ngân hàng lớn đứng đầu, điều hành hoạt động của cả tập
đoàn.

- Concern là một hình thức tổ chức kinh tế được áp dụng phổ biến hiện nay dưới hình
thức Công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác, lập nên mối quan hệ Công ty mẹ - Công ty
con. Công ty mẹ điều hành hoạt động của cả tập đoàn, các Công ty con chịu trách nhiệm
hữu hạn trên phần vốn kinh doanh của mình và độc lập về pháp lý, phụ thuộc vào tập
đoàn về mục tiêu hoạt động nhằm thực hiện mục đích chung của cả tập đoàn. Concern
thường được tạo nên bởi hai doanh nghiệp độc lập và có pháp nhân đầy đủ. Các Concern
thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước thông qua hợp đồng, đơn đặt hàng, quan hệ
cá nhân tài trợ cho các thế lực chính trị. Tiền đề chính để ra đời một Concern là tồn tại
một công ty chủ chốt đủ khả năng để quản lý và kiểm soát hoạt động, đặc biệt là kiểm
tra tài chính các công ty khác. Để làm được điều đó, Concern phải có một ngân hàng có
khả năng đảm bảo phần lớn tín dụng cho toàn Concern, thường tổng tư bản không dưới
1 tỷ USD.
- Conglomrate là tập đoàn đa ngành, các công ty thành viên không có mối quan hệ về
công nghệ sản xuất nhưng có mối liên hệ chặt chẽ về tài chính. Đây là một tập đoàn tài
chính, thông qua mua bán chứng khoán trên thị trường để đầu tư vào những công ty có
lợi nhuận cao nhất và các ngành có hiệu quả cao nhất. Chính mối quan hệ này là cơ sở
quan trọng để hình thành một Conglomerate. Sự hoạt đông tích cực của thị trường chứng
khoán đã giúp cho Conglomerate “nuốt” dần các công ty có lãi suất cao và làm cho cơ
cấu của Conglomerate thay đổi nhanh chóng.
Trong đó Concern và Conglomerate là hai hình thức tổ chức phổ biến của TNC hiện đại
và có những đặc thù khác nhau như sau:
* Cơ sở hình thành:
Concern hình thành trên cơ sở công ty lớn của ngành thâu tóm, khống chế và đi đến nuốt
gọn các công ty nhỏ trong cùng một ngành sản xuất hoặc các doanh nghiệp ở các ngành
khác có kỹ thuật gần tương đồng với công ty gốc bằng vốn của công ty.
Conglomerate nhằm vào các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, bất kể ngành nghề
nào trong nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán.
Đặc trưng hình thành của Concern là liên kết theo chiều ngang, có tính chuyên ngành
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Đặc trưng hình thành của Conglomerate là
liên kết theo chiều dọc, có tính đa dạng và hỗn hợp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.

* Cơ cấu điều hành và cơ chế hoạt động
Kết cấu của Concern luôn có một công ty gốc làm trụ cột, cơ cấu tổ chức của nó
được thiết lập tập trung thẳng đứng theo tầng, bậc ma trận. Thông tin điều hành truyền
từ trung tâm xuống các chi nhánh đều qua khâu trung gian của hệ thống quản lý, nên duy
trì tính quyền lực, tính kế hoạch tổng thể đảm bảo được sự thống nhất và có hiệu lực của
các quyết sách. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là hệ thống điều hành cồng kềnh,
thông tin truyền từ trên xuống chậm, dễ bị sai lệch qua phần xử lý của các cáp trung
gian.
Kết cấu của Conglomerate là kết cấu mạng lưới tư bản hoạt động ở nhiều ngành
đan xen, xâm nhập vào nhau tạo nên nhiều trung tâm quyền lực cân bằng. Quyền
lực điều hành trực tiếp đối với hệ thống từng bước chuyển sang tay tư bản chức
năng và tập trung vào tay các nhà quản trị cao cấp. Tuy nhiên quyền lực thực tế
nằm trong tay các tập đoàn sở hữu lớn. Giới chủ điều chỉnh hoạt động của tập
đoàn gián tiếp bằng hoạt động mua bán cổ phiếu của các công ty, chi nhánh trên
thi trường chứng khoán. Điều hành của Conglomerate linh hoạt và mềm dẻo. Hệ
thống điều hành gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế cao do phát huy được tính chủ động
sáng tạo của các Công ty con và kịp thời chuyển rủi ro trong hoạt động công ty ra
ngoài thị trường.
* Về lĩnh vực hoạt động:
Nhờ hoạt động trên thị trường chứng khoán thông qua mua bán cổ phiếu của các chi
nhánh đã giúp cho Conglomerate thay đổi lĩnh vực hoạt động nhanh chóng và luôn thu
hút được các công ty thuộc các ngành có công nghệ mũi nhọn, hàm lượng khoa học kết
tinh trong sản phẩm cao và có tỷ suất lợi nhuận lớn. Lợi nhuận của Conglomerate chủ
yếu được tạo ra trên thị trường chứng khoán thông qua việc mua bán và đầu cơ cổ phiếu
nhờ kinh nghiệm và biện pháp hoạt động trên thị trường vốn.
Còn Concern do phải duy trì một ngành nghề chủ chốt buộc Concern có cơ cấu sản xuất
kinh doanh ổn định và biến đổi ở một phạm vi nhỏ bé và chậm chạp hơn. Việc mở rộng
công ty của Concern chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất. Concern chỉ thu hút các công ty
thuộc các ngành dịch vụ ở mức độ cần thiết cho hoạt động bình thường của tập đoàn.
Khối lượng lợi nhuận chủ yếu mà các Concern thu được là từ lĩnh vực sản xuất.

1.1.3 Đặc điểm mối quan hệ mô hình công ty mẹ- công ty con:
Thứ nhất, công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc lập, có sản nghiệp riêng
(pháp nhân kinh tế đầy đủ)
Thứ hai, công ty mẹ có lợi ích kinh tế nhất định liên quan đến hoạt động của công ty con
Thứ ba, công ty mẹ chi phối đối với các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty
con thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các quyết định của
công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm HĐQT, ban lãnh đạo hoặc quyền tham gia
quản lý, điều hành
Thứ tư, vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với nhau
và mang tính tương đối, tức công ty con này có thể là công ty mẹ của một công ty khác
(tính tương đối này càng nổi bật hơn trong trường hợp các công ty trong một nhóm có
nắm giữ vốn cổ phần qua lại của nhau, thí dụ như theo mô hình của các tập đoàn của
Nhật)
Thứ năm, trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con nói chung là trách nhiệm hữu
hạn
Thứ sáu, về mặt lý thuyết, mô hình quan hệ này sẽ tạo cho cơ cấu tổ chức của các công ty
trong nhóm có chiều sâu không hạn chế; tức công ty mẹ con, công ty con, công ty cháu…
Một vấn đề cần lưu ý là: mặc dù công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc
lập, và nếu công ty con là công ty có trách nhiệm hữu hạn thì công ty mẹ chỉ chịu trách
nhiệm đối với phần vốn góp hay cổ phần của mình mà thôi, nhưng do mối quan hệ có
tính chất chi phối các quyết định của công ty con, nên luật pháp nhiều nước bắt buộc
công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh hưởng của công ty mẹ đối với
công ty con. Thí dụ, Luật công ty của Cộng hoà Liên bang Nga qui định nếu công ty mẹ
đưa ra chỉ thị buộc công ty con phải thực hiện theo một cam kết nào đó giữa công ty mẹ
và công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới
Sự khác biệt mô hình công ty mẹ- công ty con với mô hình tổng công ty- đơn vị
thành viên
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ - Công ty con
Nguồn: Định hướng phát triển các Tổng công ty giai đoạn 2008-2011
Mô hình tổng công ty và đơn vị thành viên hiện nay có một số điểm tương đồng

với mô hình công ty mẹ – công ty con là:
(1) tổng công ty là cổ đông
(2) có quyền quyết định đến hoạt động của công ty thành viên bằng nhiều cơ chế
khác nhau.
Tuy nhiên, giữa hai mô hình có những khác biệt quan trọng.
“Thứ nhất, với mô hình tổng công ty thì cơ cấu tổ chức của tổng công ty (một
nhóm các công ty) bị giới hạn có 3 cấp – tổng công ty, công ty và xí nghiệp hạch toán
phụ thuộc (hoặc tương đương). Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì
tầng nấc trong cơ cấu tổ chức, về mặt lý thuyết, là không giới hạn – công ty mẹ, công ty
con, công ty cháu
Thứ hai về nguyên tắc, quan hệ công ty mẹ đối với công ty con là trách nhiệm hữu
hạn, còn quan hệ giữa tổng công ty và đơn vị thành viên là trách nhiệm vô hạn.
Thứ ba về mặt pháp lý, các đơn vị thành viên của tổng công ty và công ty là những
pháp nhân độc lập chưa đầy đủ, vì đối với một số hoạt động của đơn vị thành viên, luật
pháp yêu cầu phải có ủy quyền chính thức của doanh nghiệp chủ quản như lĩnh vực đầu
tư, tài chính, tổ chức cán bộ ; trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ - công ty con, các
doanh nghiệp là những pháp nhân đầy đủ.
Thứ tư, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập trong mô hình tổng công ty không
phải do tổng công ty quyết định thành lập mặc dù về mặt pháp lý tổng công ty là chủ sở
hữu. Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ – công ty con thì công ty mẹ là người sáng
lập (hoặc tham gia sáng lập).
Thứ năm, trong mô hình tổng công ty, phần lớn bộ máy của tổng công ty chỉ thực
hiện chức năng quản lý hành chính, trong khi đó ở mô hình công ty mẹ – công ty con thì
công ty mẹ là một doanh nghiệp có sản phẩm, có khách hàng, có thị trường.
Thứ sáu những qui chế, qui định đối với một số lĩnh vực hoạt động của các thành
viên trong tổng công ty thường có tính pháp qui; trong khi đó, những qui chế, qui định
của các thành viên trong mô hình công ty mẹ – công ty con hoàn toàn mang tính chất
quản lý.
Thứ bảy quá trình hình thành tổng công ty cho thấy, theo mô hình tổng công ty thì
ít nhất phải có hai công ty thành viên tồn tại trước khi có tổng công ty (con đẻ ra bố),

trong khi đó theo mô hình công ty mẹ – công ty con thì công ty mẹ thường phải tồn tại
trước, sáng lập hoặc tham gia sáng lập ra công ty con (trừ trường hợp mua lại).
Thứ tám, trong mô hình hiện hữu, tổng công ty (công ty) là chủ sở hữu của cả sản
nghiệp (cả tài sản có và tài sản nợ) của công ty thành viên, tức vừa sở hữu vốn vừa sở
hữu tài sản (về thực chất) và tài sản (vốn) công ty con là tài sản (vốn) của công ty mẹ;
trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ chỉ sở hữu phần vốn
đầu tư trong công ty con mà thôi, và vốn của công ty con là tài sản của công ty mẹ (đầu
tư dài hạn). ” 3, 4, 13.
Cuối cùng mô hình tổng công ty – công ty thành viên không cho phép huy động
vốn một cách có hiệu quả; không cho phép tổng công ty (công ty) thay đổi cơ cấu vốn
đầu tư trong các doanh nghiệp thành viên một cách linh hoạt.
• QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ CÔNG TY
CON
• Khái niệm quản lý tài chính doanh nghiệp (TCDN)
Theo luật doanh nghiệp: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động kinh
doanh như đầu tư, sản xuất, tiêu thụ hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi. Quản lý tài chính là việc sử dụng các thông tin phản ánh chính xác tình
trạng tài chính của một doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh điểm yếu của doanh
nghiệp đó và lập các kế hoạch kinh doanh.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường đều phải
quan tâm đến vấn đề vốn và sử dụng vốn. Tài chính là từ được dùng để chỉ nguồn tiền
của tổ chức, cá nhân và việc quản lý những nguồn tiền đó. Làm thế nào để đạt hiệu quả
cao trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên đầu tư tiền bạc vào đâu để thu được
lợi nhuận cao, khi mở rộng sản xuất kinh doanh nên dùng vốn vay hay góp thêm vốn.
Đó là những vấn đề thuộc về lĩnh vực của quản lý tài chính doanh nghiệp.
Quản lý tài chính doanh nghiệp: liên quan đến việc giành lấy và phân bổ những nguồn
lực cho doanh nghiệp bằng tiền. Các nguồn lực có thể là tiền mặt, hàng tồn kho, máy
móc thiết bị. Trong các nguồn lực cũng gồm cả nguồn lực con người như nhà quản lý và
cán bộ công nhân viên. Tiền phải bỏ ra để có được các nguồn lực đó nhận được từ dòng
tiền thu được từ hoạt động của doanh nghiệp hay dòng tiền bên ngoài như vay, thuê tài

chính, phát hành cổ phiếu mới. Cũng cần chú ý đến một điểm là: kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài như
tình trạng của nền kinh tế, chính sách thuế, tỉ lệ lãi suất, lạm phát…Từ đó quản lý tài
chính doanh nghiệp lựa chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các
quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là tối
đa hoá giá trị cho chủ doanh nghiệp hay là tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng làm tăng
giá trị doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Mặt khác, quản lý tài chính là những hoạt động tổng hợp, phân tích, đánh giá
thực trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như
dài hạn của công ty. Đây là một trong các chức năng cơ bản của quản lý doanh nghiệp.
Chức năng quản lý tài chính có mối liên hệ mật thiết với các chức năng khác trong
doanh nghiệp như: chức năng quản trị sản xuất, chức năng quản trị marketing, chức năng
quản lý nguồn nhân lực. Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau nhưng theo Giáo trình
Quản trị tài chính- Học viện tài chính: “Quản lý tài chính doanh nghiệp là các hoạt
động nhằm phối hợp và bố trí các dòng tiền tệ trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục
tiêu của doanh nghiệp. Quản lý tài chính bao gồm các hoạt động làm cho luồng tiền tệ
của công ty phù hợp trực tiếp với các kế hoạch” 7, 8, 9.
Quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm các hoạt động liên quan đến đầu tư, tài
trợ và quản trị tài sản theo mục tiêu chung của công ty. Vì vậy, chức năng quyết định
của quản lý tài chính có thể chia thành ba nhóm: quyết định đầu tư, tài trợ và quản trị tài
sản, trong đó quyết định đầu tư là quyết định quan trọng nhất trong ba quyết định căn
bản theo mục tiêu tạo giá trị cho các cổ đông.
Công tác quản lý tài chính được triển khai thành công tác lập kế hoạch tài chính
dài hạn và lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động
thực của công ty. Đây là công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì
nó ảnh hưởng đến cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành
lập, duy trì và mở rộng công việc kinh doanh. Lập kế hoạch tài chính sẽ cho phép qụyết
định lượng nguyên liệu thô doanh nghiệp có thể mua, sản phẩm công ty có thể sản xuất
và khả năng công ty có thể tiếp thị, quảng cáo để bán sản phẩm ra thị trường. Khi có kế
hoạch tài chính, chúng ta có thể xác định được nguồn nhân lực doanh nghiệp cần. Như

vậy việc quản lý tài chính không hiệu quả là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại
của các công ty, không kể công ty vừa và nhỏ hay các tập đoàn, công ty lớn.
• Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp (TCDN)
Khi bắt đầu mở một doanh nghiệp mới, doanh nghiệp sẽ gặp phải những vấn đề cần giải
quyết sau:
- Doanh nghiệp chọn loại hình doanh nghiệp đầu tư dài hạn nào cho phù hợp với khả
năng của mình. Nên sản xuất hay cung ứng dịch vụ, nếu sản xuất thì sản xuất ô tô hay
máy tính, còn nếu chọn dịch vụ thì cung cấp dịch vụ Internet hay dịch vụ du lịch…
- Tìm nguồn vốn để tài trợ cho đầu tư dài hạn như thế nào. Nên đi vay ngân hàng hay
dùng vốn tự có, nên mua tài sản hay thuê?
- Quản lý các hoạt động tài chính hằng ngày như thế nào. Ví dụ: việc thu tiền của khách
hàng, trả tiền mua nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
Hai vấn đề đầu tiên liên quan đến quyết định chiến lược dài hạn còn vấn đề thứ ba liên
quan đến quyết định ngắn hạn. Quản lý tài chính thực chất là việc tìm cách giải quyết ba
vấn đề nêu trên. Sau đây chúng ta xem xét chi tiết từng vấn đề cần giải quyết:
Việc xác định và lựa chọn loại hình đầu tư liên quan đến dự toán vốn. Dự toán
vốn là quá trình hoạch định và quản lý các dự án đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Trong
quá trình dự toán vốn, nhà quản lý tài chính có nhiệm vụ xác định được các cơ hội đầu
tư sao cho giá trị hiện tại của dòng tiền sinh ra từ tài sản đầu tư lớn hơn chi phí phải bỏ
ra cho tài sản đó. Quản lý tài chính không chỉ quan tâm đến việc nhận được bao nhiêu
tiền mà còn phải biết khi nào và bao giờ nhận được tiền. Do đó đánh giá được quy mô,
thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tương lai là điều chính yếu của quá trình dự
toán vốn và các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định đầu tư.
Vấn đề thứ hai tìm nguồn vốn tài trợ cho đầu tư liên quan đến việc xác định được
cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn (hay còn gọi là cơ cấu tài chính) là tỷ lệ giữa khoản nợ của
doanh nghiệp so với vốn chủ sở hữu của nó. Cần phải xác định được nên vay bao nhiêu
tiền và dùng vốn tự có như thế nào. Một điều rất quan trọng là phải lựa chọn được nguồn
vốn vay sao cho có chi phí thấp nhất nghĩa là tìm được nguồn tiền có giá vốn thấp nhất.
Quyết định này còn được gọi là quyết định tài trợ.
Vấn đề thứ ba nhà quản trị tài chính cần giải quyết liên quan đến quản lý vốn lưu

động. Vốn lưu động (hay vốn lưu động ròng) là chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp. Quản lý vốn lưu động phải xác định được nên giữ bao nhiêu
tiền mặt, giữ bao nhiêu hàng trong kho. Nếu bán hàng thì có nên bán trả chậm không và
bán cho ai. Còn mua hàng thì trả ngay bằng tiền mặt hay mua trả chậm.
Các nhà quản trị phải luôn chú ý đến những thay đổi trong vốn lưu động, nguyên
nhân dẫn đến sự thay đổi và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đối với tình hình hoạt động
của công ty. Doanh nghiệp phải xác định được nên giữ bao nhiêu tiền mặt, giữ bao nhiêu
hàng trong kho. Nếu bán hàng thì có nên bán trả chậm không và bán cho ai. Còn mua
hàng thì trả ngay bằng tiền mặt hay mua trả chậm. Chúng ta xem xét các bộ phận cấu
thành cụ thể sau đây:
- Tiền mặt và các khoản tương đương tiền mặt (các loại chứng khoán và tiền gửi ngắn
hạn). Khi lập các kế hoạch tài chính chúng ta phải trả lời được những câu hỏi liên quan
đến tiền mặt như : lượng tiền mặt của công ty có đáp ứng nhu cầu chi phí không? Mối
quan hệ giữa lượng tiền thu được và chi phí như thể nào? Khi nào thì công ty cần đến
các khoản vay ngân hàng?
- Các khoản phải thu: chủ yếu bao gồm các khoản tín dụng mua hàng cho khách hàng.
Nhà quản trị phải quan tâm đến những khách hàng nào thường hay trả chậm và biện
pháp cần thiết để đối phó với họ.
- Tồn kho: khoản tồn kho thường chiếm tới 50% tài sản hiện có của công ty do đó nhà
quản trị phải kiểm soát tồn kho thật cẩn thận thông qua việc xem xét xem lượng tồn kho
có hợp lý với doanh thu, liệu doanh số bán hàng có sụt giảm nếu không có đủ lượng tồn
kho hợp lý cũng như các biện pháp cần thiết để nâng hoặc giảm lượng hàng tồn kho.
- Các khoản phải trả và các tín phiếu đến hạn chủ yếu là các khoản tín dụng mà các nhà
cung cấp cho công ty hưởng.
- Các khoản vay phải trả bao gồm các khoản vay từ ngân hàng và các nhà cho vay khác.
Nhà quản trị phải quan tâm đến các vấn đề như: lượng vốn đi vay có phù hợp với tình
hình phát triển của công ty, khi nào thì lãi suất cho vay đến hạn trả?
- Chi phí và thuế đến hạn trả bao gồm: các khoản trả lương, lãi phải trả đối với các tín
phiếu, phí bảo hiểm…
Tóm lại dự toán vốn, cơ cấu vốn và vốn lưu động là những vấn đề chính, quan trọng

nhất cần giải quyết và ra quyết định trong hoạt động quản lý tài chính của mình. Như
vậy trong quản lý tài chính có 3 quyết định:
- Quyết định đầu tư: Trong quyết định đầu tư nhà quản lý tài chính quan tâm đến:
• Đầu tư tài sản cố định
• Ra quyết định về dự án đầu tư
• Tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán
- Quyết định tài trợ- quyết định về nguồn vốn
Đó là việc các nhà quản trị tài chính phải tìm kiếm các nguồn vốn thích hợp để
tài trợ cho tài sản thông qua quyết định tài trợ. Các nguồn vốn để tài trợ cho tài sản bao
gồm các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, vốn chủ sở hữu Họ có thể nghiên
cứu xem còn hình thức tài trợ nào khác không, một tổ hợp tài trợ nào được xem là tối
ưu. Quyết định về nguồn vốn liên quan đến:
• Cơ cấu vốn
• Xác định chi phí vốn, lựa chọn đầu tư
- Quyết định hoạt động tác nghiệp (thanh toán ngắn hạn)
Đây là quyết định quan trọng trong ngắn hạn, nhà quản lý tài chính cần xác định:
+ Nên dành bao nhiêu cho tiền mặt,
+ Nên dành bao nhiêu cho khoản phải thu
+ Nên dành bao nhiêu cho hàng tồn kho
Bởi mỗi tài sản có đặc trưng riêng, có tốc độ chuyển hoá thành tiền và khả năng
sinh lợi riêng. Do vậy, để duy trì một cơ cấu tài sản hợp lý, các nhà quản trị tài chính
không chỉ ra các quyết định đầu tư mà còn ra các quyết định cắt giảm, loại bỏ hay thay
thế đối với các tài sản không còn giá trị kinh tế. Các quyết định này tác động trực tiếp
lên khả năng sinh lợi và rủi ro của doanh nghiệp.
Quyết định thứ ba đối với nhà quản lý tài chính là quyết định liên quan đến quản
lý tài sản ngắn hạn. Các tài sản khác nhau sẽ yêu cầu cách thức vận hành khác nhau. Do
vậy, nhà quản trị tài chính sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc quản trị các tài sản lưu động
so với tài sản cố định trong khi phần lớn trách nhiệm quản lý tài sản cố định thuộc về các
nhà quản trị sản xuất, những người vận hành trực tiếp tài sản cố định.
1.2.3 Quản lý tài chính theo mô hình công ty mẹ công ty con

Hệ thống quản lý tài chính trong mô hình mẹ- con bao gồm: sự kiểm soát của chủ
sở hữu đối với giám đốc điều hành, kiểm soát của giám đốc điều hành đối với toàn bộ
hoạt động trong phạm vi được quản lý
Họat động tài chính thông thường: Công ty mẹ hay công ty con là những pháp nhân
độc lập hoạt động theo những cách thức riêng và phải chịu áp lực cạnh tranh để tồn tại
hay chiếm lĩnh thị phần như các doanh nghiệp bình thường khác nên công ty mẹ hay
công ty con cũng phải tuân thủ quy trình quản lý TCDN như các doanh nghiệp bình
thường.
Hoạt động đầu tư và sở hữu các công ty con: Ngoài hoạt động kinh doanh thông
thường nêu trên công ty mẹ còn thực hiện họat động đầu tư và sở hữu các công ty con
điều này ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức quản lý tài chính của doanh nghiệp và mang
tính đặc thù so với các doanh nghiệp thông thường khác. Việc thực hiện mô hình mẹ-
con giúp doanh nghiệp hướng tới các mục đích trong dài hạn như :
Thứ nhất, theo mô hình công ty mẹ- công ty con khi kinh doanh đa ngành, nếu nằm
trong một chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và các công ty con khi ấy cần chuyên môn hóa
vào từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh phù hợp với chuỗi liên kết, ngành, nghề của công
ty mẹ. Để có tiếng nói chung hỗ trợ lẫn nhau về chuyên môn, nghiệp vụ, góp phần tăng
cường hiệu quả kinh doanh tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài
với nhau trên cơ sở lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác
thuộc mọi thành phần kinh tế (hạn chế các công ty con cùng lĩnh vực).
Thí dụ đối với lĩnh vực xây dựng điều quan trọng là doanh nghiệp phải có sức
mạnh, tiềm lực để có khả năng tổng thầu EPC (từ giám sát, xây dựng theo một quy
trình khép kín). Chính vì vậy, tổng công ty cần phải nhắm vào các DN nòng cốt, xây
dựng tốt về thương hiệu và làm ăn có hiệu quả giúp doanh nghiệp dễ nội hóa được chi
phí, giúp giảm được chi phí. Từ đó chiếm ưu thế hoàn toàn trên thị trường nhờ định giá
thấp. Xét ở phương diện nào đó, quyền tự chủ của các đơn vị thành viên bị hạn chế do
Công ty mẹ, Công ty con không thể cùng tham gia đấu thầu cùng một công trình hoặc dự
án đầu tư nhưng với những dự án lớn nêu trên chỉ có tập hợp sức mạnh tại công ty mẹ
mới đảm bảo khả năng tổng thầu.
Như vậy việc tập hợp được sức mạnh tổng hợp là vô cùng quan trọng, không nhận được

tổng thầu các dự án lớn đồng nghĩa với việc chúng ta phải làm thuê cho các DN nước
ngoài ngay trên sân nhà. Sức mạnh của các TCty này nếu không được hội tụ lại sẽ khó
có sức mạnh tổng hợp mà sẽ vẫn chỉ manh mún, nhỏ lẻ so với các DN nước ngoài.
Ví dụ Lilama tham gia đấu thầu dự án Vũng Áng 1 công suất 1.200 MW với tổng vốn
đầu tư 1,7 tỷ USD. Như vậy Lilama cần 20% vốn chủ sở hữu, nghĩa là DN này phải có
340 triệu USD làm vốn đối ứng bằng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, từ trước đến nay, dù
Lilama làm rất nhiều dự án lớn nhưng kể cả vốn nhà nước cấp và vốn tụ có bổ sung của
DN này cũng chỉ đến 37 - 40 triệu USD - không đủ làm vốn đối ứng cho dự án này. Tuy
nhiên, nếu tập hợp được sức mạnh theo mô hình mẹ con với sự quan tâm đầu tư của nhà
nước thì vốn chủ sở hữu của DN có thể tính bằng hàng chục tỷ USD, có thể vươn lên
làm tổng thầu các dự án lớn của Việt Nam và quốc tế
Thứ hai, trong nhiều trường hợp, mô hình công ty mẹ- công ty con phát huy được
nguồn lực, tận dụng cơ hội giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và có lợi thế về quy mô,
tài chính nhờ tích tụ và tập trung tư bản có thị phần lớn, và khả năng quyết định giá cả,
thị trường
Có thể khẳng định mô hình công ty mẹ- công ty con, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh
vực là một ý tưởng tốt. Ở Việt Nam, tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty
mẹ - công ty con là hình thức phổ biến và được hình thành từ sự liên kết các doanh
nghiệp (DN) trên cơ sở các quan hệ về đầu tư tài chính, chi phối, gắn kết với nhau về
thương hiệu, thị trường. Các tập đoàn kinh tế Việt Nam chủ yếu là: được hình thành từ
việc chuyển đổi và tổ chức lại các tổng công ty nhà nước theo quyết định của Chính phủ;
hoạt động trong các ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia như: điện lực, dầu khí, bưu
chính viễn thông, than và khoáng sản, xây dựng với quy mô, khả năng tích tụ vốn còn
hạn chế, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp; việc hợp tác, liên kết kinh doanh giữa các đơn vị
trong tập đoàn kinh tế chưa cao, chưa thể hiện được bản chất kinh tế của tập đoàn kinh
tế; chưa thực hiện phân tách rõ ràng giữa quyền sở hữu hoặc đại diện sở hữu và quyền
điều hành DN, do đó chưa có sự chuyên môn hoá và chuyên sâu trong công tác quản lý
Do vậy để Việt Nam tận dụng được những ưu thế của mô hình này các doanh
nghiệp cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh chính, đúng với nhiệm vụ của
nhà nước giao cho để trở thành hạt nhân của doanh nghiệp, tiếp đó mới nhân rộng và

phát huy tốt các lợi thế của mô hình mẹ- con
Trong quá trình lựa chọn các công ty con vào mô hình công cần tránh việc đầu tư
trùng lắp giữa các công ty trực thuộc công ty mẹ . Và khi đã hình thành mô hình thì việc
phân chia lĩnh vực, nhiệm vụ của các công ty con là không tránh khỏi, việc này nhằm
nâng cao tính chuyên môn hóa và nhằm nâng cao tác dụng hỗ trợ lẫn nhau đối với các
doanh nghiệp thuộc mô hình. Do đó, các công ty mẹ cần chú trọng trong kiểm soát tập
trung bởi vì việc đầu tư trùng lặp là nguyên nhân cho các “xung đột quyền lợi” xảy ra
trong nội bộ.
Hiện nay do năng lực quản trị của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói
chung, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nói riêng không theo kịp sự mở rộng kinh
doanh, khiến cho việc kinh doanh đa ngành trở nên rủi ro. Rủi ro càng tăng khi đầu tư
vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản…
Đặc biệt giai đoạn 2005-2008 việc đầu tư kinh doanh đa ngành của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước, với tham vọng trở thành các “cheabol” của Việt Nam, nhiều tập đoàn,
tổng công ty nhà nước đã đẩy mạnh thực hiện đầu tư đa lĩnh vực, ngành nghề, trong đó
các lĩnh vực hấp dẫn nhất giai đoạn này là chứng khoán, bất động sản, đầu tư tài chính…
điển hình như: Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tập đoàn Điện
lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp cao su, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam (PVN)… Chỉ không lâu sau, hàng chục nghìn tỷ đồng của các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước đầu tư ra ngoài ngành quá đà, đã bị cuốn vào vòng xoáy của khủng hoảng
và suy thoái kinh tế, gây thất thoát vốn, tạo gánh nặng nợ xấu cho chính DN và nền kinh
tế.
1.2.3.1 Quản lý tài chính của công ty mẹ
Công ty mẹ có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh như các doanh nghiệp bình thường
khác với vai trò doanh nghiệp tiên phong mũi nhọn trong các ngành nghề cốt lõi, công
ty mẹ còn đóng vai trò là nhà đầu tư tại các công ty con trên nhiều góc độ: thị trường,
thương hiệu, công nghệ, vốn. Vì vậy việc quản lý tài chính cần diễn ra chặt chẽ, minh
bạch và theo đúng quy trình nhưng lại rất phức tạp so với các công ty con bởi nếu không
có cơ chế hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng quản lý chồng chéo, hoặc quản lý quá chặt khi
tham gia vào họat động của công ty con. Một thái cực khác là không biết quản lý tài

chính thế nào nên quản lý rất lỏng lẻo.
Do vậy quản lý tài chính tại công ty mẹ cần phải đặc biệt quan tâm đến công tác
lập kế hoạch tài chính. Lập kế hoạch tài chính bao gồm lập kế hoạch trong ngắn hạn và
lập kế hoạch trong dài hạn.
• Lập kế hoạch tài chính ngắn hạn
Đây là việc lập kế hoạch về lợi nhuận và ngân quỹ công ty, các công cụ dùng trong việc
lập kế hoạch ngắn hạn thường dùng là: báo cáo thu nhập chiếu lệ, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ, phân tích tình hình ngân quỹ và chiến lược giá cả. Kế hoạch tài chính ngắn hạn
nên được lập theo từng tháng để có được cái nhìn sát hơn và đưa ra được biện pháp nâng
cao tình hình tài chính.
• Lập kế hoạch tài chính dài hạn (kế hoạch tài chính chiến lược)
Kế hoạch tài chính dài hạn thường mang tính chiến lược và liên quan đến việc lập các
mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong vòng từ 3 đến 5 năm. Các doanh
nghiệp thường sử dụng báo cáo thu nhập chiếu lệ cho khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm.
Vấn đề khó khăn đặt ra là nhà quản lý tài chính phải làm gì để có thể dự đoán hết được
những biến động sẽ xảy ra với doanh nghiệp trong vòng mấy năm sắp tới. Tiếp đến chúng
ta cần nghiên cứu các vấn đề chính trong quá trình ra quyết định tài chính
Quản lý đầu tư:
Trong hoạt động kinh doanh công ty mẹ không ngừng hỗ trợ công ty con, nhất là
công tác đầu tư: vốn, trang thiết bị, máy móc và công tác quản lý tài chính phải thực
hiện tốt quy trình này

×