Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.4 KB, 40 trang )

Chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu
hoá
Theo www.tapchicongsan.org.vn - 1 năm trước
TCCS - Chủ nghĩa tư bản thực hiện được một bước phát triển thì cũng tạo ra
những gì không dung được với chính nó. Từ góc nhìn này, chủ nghĩa tư bản toàn
cầu hoá thực sự là "chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản", là "chủ nghĩa tư bản
hướng tới hậu tư bản, phi tư bản".
Chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế
Từ đầu thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của xu thế toàn
cầu hoá thúc đẩy chủ nghĩa tư bản hiện đại chuyển sang giai đoạn độc quyền quốc tế (độc
quyền xuyên quốc gia). Nó triệt để tận dụng ưu thế về thực lực mọi mặt nhằm bành
trướng thế lực trên quy mô toàn cầu với mục đích cố hữu là thu lợi nhuận độc quyền cao.
Thực tế cho thấy, bình quân tỷ suất chiếm đoạt lợi nhuận trong các nước tư bản phát triển
là 300%, cá biệt có những nơi lên tới 700% - 800%. Do đó về thực chất, "nhà nước phúc
lợi", "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "chủ nghĩa tư bản xã hội" không phải là biện pháp
đổi mới triệt để chất lượng cuộc sống người lao động, xoá bỏ nghèo khổ, mà là để duy trì
sự nghèo khổ trong trật tự. Xã hội tư bản hiện đại luôn có từ 15% - 20% dân cư nghèo
khổ, cho dù chính phủ luôn tuyên bố "tấn công" vào nghèo đói. Đây là một mô hình cơ
cấu tự nhiên của xã hội tư bản chứ không phải là điều nhất thời. Chương trình phúc lợi
không phải để giảm nghèo túng mà để chịu được cảnh nghèo túng
(1)
.
Trào lưu chủ nghĩa tự do mới ra đời (các đại diện tiêu biểu là R. Ri-gân và M. Thát-chơ),
trở thành căn cứ lý luận để chủ nghĩa tư bản (CNTB) lũng đoạn quốc tế bành trướng ra
toàn cầu. Sự bùng nổ mạng lưới các công ty xuyên quốc gia và internet làm cho thị
trường toàn cầu trở thành công xưởng toàn cầu, tạo cơ sở vật chất to lớn để CNTB thực
hiện tham vọng lũng đoạn, khống chế toàn cầu. Chủ trương cơ bản của chủ nghĩa tự do
mới là tư nhân hoá mạnh mẽ tất cả những gì tư nhân làm có lợi hơn là chính phủ làm;
giảm thuế, tài trợ kích thích tư nhân đầu tư; giảm mạnh chi tiêu phúc lợi xã hội, tạo điều
kiện tăng lợi nhuận cho giới tư nhân kinh doanh. Qua đó, đẩy nhanh việc ứng dụng công
nghệ mới, tạo ra sự nhảy vọt của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế


tri thức ở các nước tư bản phát triển. Sự bành trướng của CNTB độc quyền quốc tế ra
phạm vi toàn cầu càng được đẩy mạnh sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan vỡ. Khái
niệm chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá xuất hiện để chỉ sự phát triển CNTB trong điều kiện
toàn cầu hoá và nó được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, làn sóng tư bản hoá lan khắp toàn cầu, đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh
sang giai đoạn lũng đoạn quốc tế và toàn cầu.
Thứ hai, kinh tế thị trường hoá lan ra toàn cầu, các nước phương Tây ra sức hoàn thiện
cơ chế kinh tế thị trường, các nước khác đua nhau xác lập nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, trong tiến trình tự do hoá kinh tế thì tự do hoá tài chính được chú ý nhất, trở
thành đòn bẩy để tư bản lũng đoạn quốc tế khống chế kinh tế toàn cầu. Tự do hoá về tài
chính bao gồm những vấn đề như: thực hiện tự do hoá hoàn toàn về lãi suất, đa nguyên
hoá nghiệp vụ ngân hàng, mở cửa thị trường tài chính đối ngoại, tự do hoá giao dịch
ngoại hối
Thứ tư, nhất thể hoá toàn cầu nhằm thống nhất toàn cầu của tư bản về thể chế kinh tế,
chính trị và văn hoá, mà thực chất có người coi đó là Mỹ hoá và phương Tây hoá.
Các chủ trương của chủ nghĩa tự do mới được thực hiện mạnh mẽ đem lại một bước phát
triển mới trong CNTB, song những mâu thuẫn vốn có của nó lại bộc lộ trầm trọng thêm.
Chẳng hạn, chi phí của Chính phủ Mỹ không giảm mà tăng lên nhiều, R. Ri-gân chưa lên
cầm quyền thì Nhà nước Mỹ nợ mấy trăm tỉ USD, nhưng kết thúc nhiệm kỳ thì nợ hơn 4
nghìn tỉ. Ngân sách quân sự từ 192 tỉ năm 1981 tăng lên 370 tỉ năm 1988, đến thời G.W
Bu-sơ (con) tăng lên gần 600 tỉ USD năm 2008, cùng với việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến
ở I-rắc, Áp-ga-ni-xtan Điều này đã làm "méo mó" nền kinh tế và đời sống xã hội Mỹ.
Giảm phúc lợi công cộng đi đôi với tăng đóng góp của người lao động, gây ra bất bình
lớn trong xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng bắt đầu từ nước Mỹ (từ
tháng 8-2007) lan rộng ra toàn cầu trong mấy năm qua làm nổi rõ những bất ổn trong cấu
trúc kinh tế tư bản và những nan giải mà các định chế kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt.
Nó cho thấy sự phá sản của chủ nghĩa tự do mới, khi quá nhấn mạnh "bàn tay vô hình,
vạn năng" điều tiết của thị trường tự do, đồng thời phản ánh sự bất cập không chỉ trong
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, mà cả lĩnh vực sản xuất của CNTB. Hầu như tất cả các nước
tư bản phát triển từ năm 2008 đến nay đều quay trở lại nhấn mạnh vai trò điều tiết của

nhà nước, tung ra hàng loạt gói kích cầu rất lớn để giải cứu, vực dậy nền kinh tế. Điều đó
thực chất không thể nào khác là cứu nguy cho giới chủ tư bản, bằng cách chủ yếu dùng
ngân sách từ nguồn thu thuế của người dân lao động. Đây là điểm thuộc bản chất
không thay đổi của nhà nước trong CNTB nói chung, CNTB toàn cầu hoá nói riêng.
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá được coi là giai đoạn mới của CNTB độc quyền quốc tế,
nó có những cách thức tồn tại và hình thức thống trị mới nhưng không thay đổi về bản
chất. Tính chất phức tạp và gay gắt của đấu tranh giai cấp trong xã hội tư bản đương đại
có nhiều nét mới, nhưng trọng tâm vẫn xoay quanh mối quan hệ giữa lao động làm thuê
và giới chủ tư bản. Đối diện với khối nhân dân lao động trí óc và chân tay đông đảo là
giai cấp các nhà tư bản. Giai cấp này vẫn là giai cấp thống trị, là giới chủ trong xã hội, có
vai trò chi phối nhà nước, nhưng nó cũng có sự phân tầng theo một cách mới, không hoàn
toàn giống với nửa đầu thế kỷ XX. Mối quan hệ giữa lao động và tư bản về bản chất
mang tính chất đối kháng. Giai cấp tư sản cầm quyền hiểu rất rõ điều này và luôn tìm
cách điều chỉnh, hướng chủ yếu là "xả van an toàn", ngăn chặn khả năng bùng nổ các đối
kháng, tạo ra một sự ổn định xã hội tương đối cho trật tự tư bản chủ nghĩa. Tận dụng
được cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và do những nguyên nhân khác nữa, CNTB
toàn cầu hoá giải quyết được một số vấn đề nhất định về việc làm và thu nhập cho người
lao động. Thế nhưng, cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu hiện nay cho thấy rõ:
việc bảo đảm cho người lao động có công ăn việc làm ổn định, yên tâm đối với cuộc sống
tương lai theo thân phận người lao động của mình thì CNTB toàn cầu hoá không thể làm
được. Nỗi lo lắng cho ngày mai trở thành nỗi lo lắng thường trực hơn, không chỉ đối với
người lao động chân tay, mà cả đối với người lao động trí óc. Điều đó có liên quan đến
đặc điểm của khủng hoảng kinh tế, cái tất yếu kinh tế của CNTB.
Vẫn diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ
Trong CNTB toàn cầu hoá, các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ vẫn diễn ra tuy không
kéo dài như trước nhưng diễn biến lại phức tạp hơn, ranh giới giữa giai đoạn tiêu điều và
phục hồi không thật rõ rệt. Vật giá leo thang ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tiêu
điều, còn trong giai đoạn phục hồi thì mức tăng của sản xuất cũng rất thấp, tình trạng
ngưng trệ hầu như diễn ra dài hơn Với chu kỳ tái sản xuất ngắn hơn nên nạn thất nghiệp
trở nên thường xuyên hơn, sự bần cùng hoá tuyệt đối luôn diễn ra với một bộ phận không

nhỏ công nhân và lao động làm thuê. Ngoài khủng hoảng kinh tế chu kỳ, trong CNTB
hiện còn song hành khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng thể chế quản trị - điều tiết kinh
tế. Những hình thức của khủng hoảng cơ cấu là sự mất cân đối nghiêm trọng nền kinh tế
do các nhân tố không có tính chất chu kỳ tạo ra như: khủng hoảng năng lượng, nguyên
liệu (giá tăng vọt), khủng hoảng tài chính - tiền tệ thế giới, khủng hoảng tín dụng, nợ nần
quốc tế, lạm phát mang tính thế giới Trong hầu như tất cả các nước tư bản hàng đầu
hiện nay đều lâm vào tình trạng nợ và lạm phát nghiêm trọng. Từ thực tế này, tạp chí
BusinessWeek vừa đưa ra danh sách những nước có tỷ lệ nợ so với GDP và thâm hụt
ngân sách dự kiến ở mức nguy hiểm trong năm 2010, trong đó, Nhật Bản có tỷ lệ nợ so
với GDP (năm 2009) là 227%, thâm hụt ngân sách 2010 (dự kiến): -10,2%; các tỷ lệ
tương ứng được dự kiến của Mỹ là: 93,6% và -9,9%, của Đức là: 84,5% và -4,6%, của
Pháp là: 82,6% và -7,1%, của I-ta-li-a là: 120,1% và -5,6%, v.v
(2)
Mặt khác, trong điều
kiện cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hoá, không chỉ những công nhân lớn
tuổi mới bị đẩy vào đội ngũ thất nghiệp thường xuyên, mà ngay cả những công nhân,
những người lao động trí óc trung niên, có bằng cấp, còn sức khoẻ vẫn có nguy cơ thất
nghiệp hoặc khó kiếm việc làm mới. Đây là tình trạng lao động bị tha hoá và cũng chính
là một nguồn gốc lớn của mâu thuẫn trong xã hội tư bản đương đại.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay thêm một lần nữa cho thấy rõ, khủng hoảng
vẫn luôn là bạn đồng hành của kinh tế tư bản chủ nghĩa với biên độ ngày càng dầy hơn.
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về CNTB, chủ nghĩa đế quốc vẫn giữ nguyên giá trị và là
cơ sở khoa học để phân tích làm rõ nhiều vấn đề mang tính bản chất của cuộc khủng
hoảng kinh tế - tài chính hiện nay. Toàn cầu hoá ngày càng phát triển thì càng đẩy nó
mâu thuẫn với các thể chế quản trị - điều tiết kinh tế quốc gia hiện hành. Cuộc khủng
hoảng hiện nay đặt ra đòi hỏi phải có những luật chơi và thể chế quản trị toàn cầu tương
ứng, không bị trói buộc bởi những thể chế quản trị quốc gia vốn rất khác biệt, thậm chí
trái ngược và xung đột nhau. Khủng hoảng thể chế quản trị nền kinh tế toàn cầu cũng có
thể xem là một nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu
(3)

.
CNTB toàn cầu hoá vì mục đích lợi nhuận đã khách quan thúc đẩy, phát triển nền văn
minh, song đồng thời cũng đẩy tới sự tiêu dùng vật chất đến mức đe doạ ngay chính sự
tồn tại hợp lý của con người. Đã có những nhà tư tưởng phương Tây nhận thức ra sự tha
hoá lối sống trong xã hội tư bản đương đại và đề xướng trào lưu "Hãy sống đơn giản
hơn". CNTB trong kỷ nguyên toàn cầu hoá cũng đang làm nảy sinh tâm trạng bi quan về
khoa học ngày càng tăng, bởi mỗi bước tiến của khoa học đều đặt các nhà khoa học trước
trách nhiệm đối với cuộc sống con người. Đó là sự tha hoá của khoa học, sự tha hoá ấy
không phải lỗi từ khoa học, mà từ việc sử dụng khoa học của CNTB toàn cầu hoá.
Mối quan hệ với các nước đang phát triển
Khi xem xét CNTB toàn cầu hoá, người ta quan tâm nhiều tới mối quan hệ của nó đối với
các nước đang phát triển. Ngày nay, hầu như không còn sự độc chiếm và bóc lột siêu
kinh tế ở thuộc địa kiểu như trước đây. Mặc dù CNTB toàn cầu hoá không có hệ thống
thuộc địa, nhưng vẫn có chủ nghĩa thực dân của nó. Cuộc đấu tranh của các dân tộc đang
phát triển chống lại ách áp bức bóc lột ngoại bang trong điều kiện toàn cầu hoá đã không
"tắt dần" để nhường chỗ cho một quan hệ bình đẳng hợp tác và phát triển, mà vẫn tồn tại,
thậm chí có mặt còn sâu sắc hơn. Cuộc đấu tranh cho những lợi ích sống còn của các dân
tộc đang phát triển chỉ di chuyển nội dung, thay đổi hình thức chứ không mất đi. Trước
đây, nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh là chính trị và quân sự để giành độc lập dân
tộc, thì ngày nay là kinh tế, chính trị, văn hoá để đi tới chấm dứt sự áp bức bóc lột về
kinh tế, để giữ vững nền độc lập trong xu thế toàn cầu hoá, đấu tranh vì một sự bình
đẳng, hợp tác phát triển lâu dài và bền vững, vì một toàn cầu hoá nhân bản hơn và cho đại
đa số nhân dân lao động. CNTB toàn cầu hoá đem đến cho các nước đang phát triển
nhiều thách thức. Khu vực Mỹ La-tinh, cái "sân sau" của Mỹ, do thực hiện mô hình "chủ
nghĩa tự do mới" với việc tư nhân hoá tràn lan và tự do hoá kinh tế một cách thái quá, nên
có đến 44% dân số sống dưới mức nghèo khổ, số người thất nghiệp tăng gấp hai lần trong
thập niên 90 thế kỷ XX. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến bùng nổ
trào lưu cánh tả tại khu vực này trong giai đoạn hiện nay.
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá không cần đến những hình thức bóc lột siêu kinh tế như
thời áp đặt chế độ thuộc địa trước đây, mà bằng những hình thức mới, chỉ bằng những

quan hệ ràng buộc về kinh tế vẫn bảo đảm cho nó những lợi nhuận siêu ngạch. Đó cũng
chính là lý do làm xuất hiện một phong trào đấu tranh rộng lớn trên thế giới đương đại
chống lại mặt trái của toàn cầu hoá. Nhưng không chỉ có vậy, trong quan hệ với các nước
đang phát triển, khi không đạt được lợi ích bằng con đường ràng buộc kinh tế và khi có
điều kiện, thì các thế lực đế quốc hiếu chiến không từ bỏ hình thức áp đặt bằng bạo lực.
Với cuộc chiến ở áp-ga-ni-xtan và I-rắc, chủ nghĩa đế quốc đã làm tái hiện trở lại không
chỉ những quan hệ của chủ nghĩa thực dân mới, mà còn cả của chủ nghĩa thực dân cũ: đó
là chiến tranh xâm lược, sự chiếm đóng của quân đội viễn chinh, bình định lãnh thổ mới
bị chiếm, thiết lập bộ máy cai trị do viên toàn quyền nước ngoài đứng đầu, độc chiếm và
khai thác tài nguyên thuộc địa Tình hình đó tất yếu sẽ làm cho vấn đề dân tộc, độc lập
dân tộc và giải phóng dân tộc trong thế giới hiện đại trở nên phức tạp, quyết liệt hơn.
Trong mối quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với nhau, những mâu thuẫn nổi lên
cũng không kém phần phức tạp, gay gắt sau khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt. Tuy
nhiên, hình thức đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn đã có nhiều thay đổi, chủ yếu diễn ra
trong lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ, thương mại và đầu tư Điều này làm xuất
hiện ảo tưởng về một CNTB hoà bình, có thể đem lại cho nhân loại ổn định, hợp tác và
phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá. Thế nhưng, liệu điều đó có thể xảy ra khi vẫn hiện
hữu, thậm chí gia tăng khuynh hướng cường quyền, áp đặt với nhiều biến thái mới của
các thế lực đế quốc, khi mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực của CNTB vẫn tiếp tục
gay gắt, quyết liệt như hiện nay?
Bước vào thế kỷ XXI, bên cạnh vấn đề chiến tranh và hoà bình, thì vấn đề môi trường
cũng là vấn đề toàn cầu bức xúc hàng đầu của sự sống trên hành tinh. Xoay quanh vấn đề
này diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt, mà nguyên nhân của nó cũng chủ yếu liên quan đến
CNTB toàn cầu hoá. Kết quả rất hạn chế của Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về
biến đối khí hậu cuối năm 2009 vừa qua tại Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) cho thấy rõ các
nước tư bản phát triển vẫn chưa sẵn sàng gánh vác những trách nhiệm tương xứng trước
vấn nạn khủng hoảng môi trường, trước hết là sự biến đổi khí hậu toàn cầu đã trở nên gay
gắt nhất.
Từ sự biến đổi về chính trị và kinh tế của CNTB toàn cầu hoá, có thể rút ra vài nhận xét
sau:

Một là, CNTB trong xu thế toàn cầu hoá còn khả năng phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
chuyển sản xuất sang chiều sâu như hiện nay. Sở hữu tư nhân, lợi ích tư nhân vẫn còn là
động lực lâu dài của phát triển kinh tế nói chung trong CNTB.
Hai là, sự thích ứng của CNTB thông qua những điều chỉnh về nhiều mặt, không vượt
được giới hạn lợi ích tư sản. Kinh tế - xã hội phát triển được một bước thì mâu thuẫn tư
bản và lao động lại bộc lộ ra có quy mô rộng lớn hơn và đi vào chiều sâu hơn, không thể
có cách giải quyết triệt để trong khuôn khổ CNTB.
Ba là, CNTB toàn cầu hoá tạo ra được nền kinh tế tri thức, chuyển mạnh được sản xuất ở
trình độ cơ khí sang tin học hoá và từ đây quá trình toàn cầu hoá kinh tế ngày càng phát
triển. Nhưng toàn cầu hoá, bên cạnh mặt tích cực, thì do sự gia tăng khống chế của
CNTB lũng đoạn toàn cầu với mạng lưới đồ sộ vươn rộng khắp hành tinh của các tổ chức
tư bản độc quyền xuyên quốc gia, thực sự là một quá trình đầy mâu thuẫn, hàm chứa sự
bất bình đẳng mà phần bất lợi đang thuộc về các nước đang phát triển với nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa.
Bốn là, CNTB thực hiện được một bước phát triển thì cũng tạo ra những gì không dung
được với chính nó. Từ góc nhìn này, CNTB toàn cầu hoá thực sự là "chủ nghĩa tư bản
chống chủ nghĩa tư bản", là "chủ nghĩa tư bản hướng tới hậu tư bản, phi tư bản". Chiến
tranh, môi sinh, bất bình đẳng, phát triển vì con người biết bao nhiêu vấn đề có tính
sống còn phải khắc phục trong các lĩnh vực trên, và sự khắc phục này về cơ bản là khắc
phục chính CNTB toàn cầu hoá.
Như vậy, những biện pháp điều chỉnh của CNTB không làm thay đổi bản chất của nó.
Tuy nhiên, xu hướng vận động khách quan của CNTB trong xu thế toàn cầu hoá tiếp tục
chuẩn bị tiền đề không chỉ vật chất - kỹ thuật, mà cả những nhân tố hợp lý trong thiết chế
chính trị, nhà nước cho chủ nghĩa xã hội. Trên góc nhìn này, xây dựng chủ nghĩa xã hội
cũng chính là sự hiện thực hoá cái lô-gic phát triển của lực lượng sản xuất và nền văn
minh mà nhân loại đạt được trong CNTB. Toàn bộ tình hình như đã nêu làm cho việc
thay thế chế độ tư bản để mở đường cho sự phát triển xã hội trở thành vấn đề thời sự của
lịch sử đương đại. Bước đi tuỳ thuộc hoàn cảnh cụ thể, nhưng đó là xu thế lịch sử không
thể đảo ngược./.
Về một chủ nghĩa tư bản mới 10:29' 7/2/2011

Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn với các chu trình kinh doanh hết
thịnh đến suy trải dài hàng mấy trăm năm. Chỉ tính riêng thời kỳ 1970 - 2007, đã
có ít nhất 124 cuộc khủng hoảng ngân hàng, 208 cuộc khủng hoảng tỷ giá hối đoái
và 63 cuộc khủng hoảng nợ nhà nước hay còn gọi là nợ quốc chủ. Mặc dù đa số các
cuộc khủng hoảng đó diễn ra ở các nước ngoại vi, nhưng dẫu sao đó cũng là những
hiện tượng có ý nghĩa báo động (1) .
Những con số đó cho thấy quan điểm để cho “thị trường tự hàn gắn” không đứng vững được. Tuy nhiên,
vẫn có một thực tế khác là dù đã bao lần “thừa sống thiếu chết” mà chủ nghĩa tư bản vẫn thoát hiểm, vẫn
gượng dậy được để phát triển, chứng tỏ chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng thích nghi và “sức đàn hồi”
mạnh mẽ với kinh nghiệm thống trị cộng với nhiều “van” an toàn. Từ cuối năm 2007, một lần nữa, chủ
nghĩa tư bản lại đang vượt qua khủng hoảng, nhưng lần này không chỉ các nước lớn tư bản chủ nghĩa thực
thụ, mà cả các nước lớn khác hoặc đang phát triển chủ nghĩa tư bản, đang tiệm cận chủ nghĩa tư bản, hoặc
đang hội nhập các thị trường tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện tập trung nhất là những nước trong nhóm G20,
được thành lập năm 1999 thay cho nhóm G7 của các nước lớn phương Tây giàu có nhất.
1 - G20 là một tổ chức quy tụ những nước lớn để bàn thảo các vấn đề quốc tế. Bao gồm 19 quốc gia công
nghiệp hùng mạnh nhất và các nước mới nổi lớn nhất cộng với Liên minh châu Âu coi là một thành viên,
chiếm 90% GDP và 80% mậu dịch quốc tế (bao gồm thương mại nội khối EU) và hai phần ba dân số thế
giới. So với nhóm G7 và G8 khuynh hướng Đại Tây Dương, G20 đại diện rộng rãi hơn nhiều cho một thế
giới tư bản chủ nghĩa đang ngụp lặn trong cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá trầm trọng không kém
cuộc Đại suy thoái 1929 - 1939.
G20 ra đời năm 1999 để đáp lại cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bộc phát năm 1997 và sâu xa hơn,
“như một sự thừa nhận ngày càng rộng rãi hơn các nước kinh tế thị trường mới nổi chưa được bao gồm
thỏa đáng vào các cuộc thảo luận và cai quản nền kinh tế toàn cầu” (theo tư liệu G20). Chẳng qua đó là một
cách nói về các nước mới nổi, các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chưa hội nhập một cách đầy đủ vào hệ
thống tư bản chủ nghĩa.
2 - Vào những năm 70 thế kỷ XX, một nhóm bảy nước công nghiệp lớn gọi là G7 tổ chức các cuộc trao đổi
ở cấp bộ trưởng tài chính và thủ tướng để thảo luận về những vấn đề kinh tế. Đến năm 1997, tại Hội nghị
Na-plơ (Naples), G7 lôi kéo Nga tham gia. Nhưng chỉ đến cuối năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997 mà Nga cũng bị ảnh hưởng, Nga mới chính thức làm thành viên của G7 nay trở thành G8
tại Hội nghị Bớc-kinh-ham (Burkingham).

Để đối phó với những bất trắc của kinh tế thế giới cuối những năm 90, Tổng thống Mỹ B. Clin-tơn và các
lãnh đạo APEC công bố sự ra đời của G22 mang tính chất lâm thời, với sự tham gia của bộ trưởng tài chính
và thống đốc ngân hàng của 22 nước bao gồm G7 và 15 quốc gia (và vùng lãnh thổ) khác là Ác-hen-ti-na,
Ô-xtrây-li-a, Bra-xin, Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô,
Ba Lan, Nga, Xin-ga-po, Nam Phi và Thái Lan.
Tiếp đó là G33 thay cho G22 nhưng cũng chỉ mang tính chất lâm thời để cho các nước lớn đánh giá quốc
gia nào thực sự đáng được đưa vào ngôi thứ lãnh đạo nền kinh tế thế giới và để gạt bỏ những nước không
đủ tiêu chuẩn. G33 bao gồm các nước G22 cộng thêm 11 nước khác là Bỉ, Chi-lê, Cốt Đi-voa (Bờ biển
Ngà), Ai Cập, Hà Lan, A-rập Xê-út, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ma-rốc.
Các nước lớn G7 sớm nhận ra một số nước trong G33 và G22 không đủ tiêu chuẩn nên đã sàng lọc lại lập
nên G20, được coi như một tổ chức kinh tế quốc tế mang tính chất thường trực hơn thay thế cho G7, bao
gồm cả đại diện của các nước mới nổi. Các thành viên còn lại sau hai lần sàng lọc là Ác-hen-ti-na, Ô-xtrây-
li-a, Bra-xin, Anh, Ca-na-đa, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, I-ta-li-a, Nhật Bản, Mê-hi-cô,
Nga, A-rập Xê-út, Nam Phi, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ. Liên minh châu Âu cũng là một thành
viên được đại diện theo chế độ chủ tịch luân lưu EU và Ngân hàng Trung ương châu Âu. Thành viên của
G20 không thay đổi kể từ khi thành lập. Tổ chức này tuyên bố “không có tiêu chí chính thức cho chế độ
thành viên G20”. Trừ ba nước Ác-hen-ti-na, A-rập Xê-út và Nam Phi, tất cả các thành viên còn lại nằm
trong danh sách 20 quốc gia có GDP cao nhất thế giới (theo bảng xếp hạng năm 2007 của CIA, IMF và
WB).
Thông thường, những hội nghị hằng năm có sự tham dự của các bộ trưởng tài chính và các thống đốc ngân
hàng cùng với lãnh đạo của IMF và WB. Tháng 11-2008, các lãnh đạo chính phủ cũng tham dự phiên họp
khẩn cấp của G20 ở Oa-sinh-tơn để bàn thảo đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đang lan rộng
thành một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Hội nghị Oa-sinh-tơn được nhiều nhà nghiên cứu coi như màn dạo đầu của một kiểu Brét-tơn út II (Bretton
Woods)(2), mang ý nghĩa một sự kiện đánh dấu sự bắt đầu của một khung khổ tài chính quốc tế mới thay
cho hệ thống Brét-tơn út I sụp đổ vào những năm 70. Hội nghị thượng đỉnh được triệu tập ở thành phố gang
thép cũ Pi-xbớc (Pittsburgh) ngày 24-9-2009, năm tháng sau cuộc họp ở Luân-đôn bàn về giải cứu các
nước đang phát triển, vực dậy thương mại thế giới và điều tiết tài chính chặt chẽ hơn.
Tại Pi-xbớc, các lãnh đạo thế giới đồng ý thay câu lạc bộ những nước công nghiệp giàu được biết dưới tên
G7 bằng G20, một diễn đàn toàn cầu thường trực về chính sách kinh tế bao gồm cả các nước lớn đang phát

triển nhanh như Trung Quốc, Bra-xin, Ấn Độ và một số nước đang phát triển mới nổi khác. Các nước này,
đặc biệt là Trung Quốc, cũng “tương kế, tựu kế” gia nhập G20 để có tiếng nói, để không bị chủ nghĩa tư
bản chi phối. Như vậy, phải chăng chủ nghĩa tư bản trong khủng hoảng đã tìm lối thoát bằng toàn cầu hóa?
3 - Điều đáng chú ý là Mỹ và G7 không muốn một G20 thuần túy kinh tế mà muốn nó thay chức năng của
G7 trong cai quản thế giới. Trong ngày thứ hai của Hội nghị Pít-bớc, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma và các
nguyên thủ đến từ Anh, Pháp nhất tề buộc tội I-ran xây dựng nhà máy ngầm sản xuất nhiên liệu hạt nhân.
Họ muốn lôi kéo các nước G20 vào những vấn đề chiến lược khác không liên quan gì đến cuộc chiến
chống khủng hoảng toàn cầu.
Thực tế, G20 là một G7 mở rộng, một kiểu liên minh phát triển chủ nghĩa tư bản với cấp độ khác nhau, một
kiểu liên minh địa chính trị - địa chiến lược có trung tâm và ngoại vi, có ngôi thứ, có thống trị và bị trị dưới
nhiều hình thức, một kiểu Phòng Xanh ở WTO (3), buộc ta phải xem lại định nghĩa về thời đại, về giai cấp
trung tâm và các mâu thuẫn lớn của chủ nghĩa tư bản. Nhưng về một phía khác, cũng cần suy nghĩ về ý
kiến của J. V. Xta-lin năm 1952 khi ông cho rằng các nước Đức và Nhật Bản không thể cam chịu mãi thân
phận kẻ chiến bại. Thủ tướng Y. Ha-tô-y-a-ma đã từng nói bóng gió về một vai trò bình đẳng hơn với Mỹ
và mở rộng quan hệ với Đại Đông Á. Còn ở Đức, các chính đảng nối tiếp nhau cầm quyền, nhưng tất cả
đều kiên trì con đường “thị trường xã hội” và mục tiêu giữ vị trí số một về xuất khẩu trên thế giới đang bị
Trung Quốc thách thức.
4 - G20 ra đời, nhưng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vẫn còn đó và sẽ ngày càng gay gắt hơn trong một
thế giới môi trường xuống cấp, tài nguyên cạn kiệt, khí hậu biến đổi và cả nguy cơ “nhân mãn”. Có thêm
nhiều thành viên cũng có nghĩa là có thêm sức mạnh nhưng cũng phát sinh thêm nhiều mâu thuẫn. Những
thành viên nhóm G7 cũ có bao giờ từ bỏ tham vọng siêu cường duy nhất hoặc tam đầu chế? Nhưng chủ
nghĩa dân tộc dễ gì chịu khuất lấp bởi chủ nghĩa tư bản. Một liên minh, dù là nước lớn, cũng khó lòng vượt
qua được sự cố kết của dân tộc, sự quật cường của giai cấp, của khối đoàn kết Nam - Nam và của phương
Nam toàn cầu.
Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn có sức sống mãnh liệt, vẫn không ngừng phát triển. Cả Tổng
thống Pháp N. Xác-cô-di, Thủ tướng Đức A. Méc-ken, cựu Thủ tướng Anh T. Ble và đương nhiên cả Tổng
thống Mỹ B. Ô-ba-ma đều đặt niềm tin vào chủ nghĩa tư bản mới trong một thế giới mới. Nhưng mỗi người
đều có cách tiếp cận riêng. N. Xác-cô-di muốn tìm lại những giá trị tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Ông cho
rằng “đây không phải là cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản”, nhưng lại thừa nhận đây là cuộc khủng
hoảng của một hệ thống trôi dạt ra khỏi những giá trị căn bản nhất của chủ nghĩa tư bản(4). Tờ Washington

Times cũng cho biết ngày 7-4-2010, Tổng thống Pháp đã ca ngợi chương trình y tế vừa được hai viện Hoa
Kỳ thông qua, hứa sẽ cùng Tổng thống Hoa Kỳ “tiến xa hơn trong điều tiết chủ nghĩa tư bản thế giới". Đại
diện Pháp, Bộ trưởng Tài chính Crít-xtin La-gác-đê, sẽ nhân cơ hội đảm nhận chức chủ tịch G20 của Pháp
để cùng với Bộ trưởng Tài chính Mỹ Tim Gây-nơ thúc đẩy một chế độ điều tiết kinh tế mới. Tổng thống B.
Ô-ba-ma cũng khẳng định “sẽ cùng Tổng thống N. Xác-cô-di và những nhà lãnh đạo khác của thế giới phối
hợp các nỗ lực bởi chúng tôi muốn bất cứ biện pháp nào được đưa ra cũng phải là của cả hai bờ Đại Tây
Dương”. Chủ nghĩa tư bản mới, trên ý nghĩa đó, là chủ nghĩa tư bản của Mỹ và đa số các đồng minh G20.
5 - Trong bối cảnh này, tương lai của chủ nghĩa xã hội sẽ thế nào? Trong nhiều văn kiện, Đảng ta luôn xác
định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cũng nói rõ nền kinh tế Việt Nam
nay chịu tác động của cả quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa và quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cũng có
thể hiểu nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế hỗn hợp. Thực vậy, chúng ta đang ở thời kỳ quá độ cải
biến cách mạng, cái cũ song song tồn tại với cái mới, đấu tranh và hợp tác giữa cũ và mới quyết định tương
lai của xã hội. Chúng ta là thành viên của ba thiết chế tư bản chủ nghĩa IMF, WB và WTO, là thành viên
của ASEAN, APEC chủ yếu gồm các nước tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đang bị chi phối bởi các quy luật thị
trường tư bản chủ nghĩa, từ quy luật giá trị đến các luật lệ thương mại của WTO. Chúng ta có thị trường
chứng khoán, thị trường lao động, thị trường tiền tệ (neo đồng USD). Chúng ta yêu cầu và cũng có hàng
chục nước thừa nhận ta có “nền kinh tế thị trường”. Chúng ta nhận đầu tư nước ngoài (FDI), nhưng chủ yếu
đó là những đầu tư vào lĩnh vực du lịch, khách sạn, giải trí, sân gôn, đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp còn ít
và chỉ là những công nghiệp tốn nhiều nhân công, gây nhiều ô nhiễm, những công nghiệp của thế kỷ trước.
Đã đến lúc phải cân nhắc từng hạng mục đầu tư, coi trọng “tấc đất tấc vàng”, công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đồng thời với xây dựng một nền nông nghiệp tiên tiến, nông thôn theo kịp thành thị, nông dân sát cánh
với công nhân.
Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng cần có đầu óc thực tế. Chúng ta phải qua một thời kỳ quá độ
với kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân cũng phát triển như các thành phần kinh tế khác. Để
tiếp tục định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải coi trọng nhà nước hơn thị trường; công nghiệp và dịch
vụ công hơn tư; có chính sách xã hội vì người nghèo chứ không vì người giàu như chủ nghĩa tự do mới; lấy
công bằng làm trọng chứ không phải cạnh tranh bất bình đẳng của chủ nghĩa tư bản trong hình thái tự do
mới. Thông báo Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) tiếp tục khẳng định: “Kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

Chủ nghĩa tư bản thời G. M. Kên cũng cho chúng ta nhiều bài học về vai trò của nhà nước phúc lợi, nhà
nước can thiệp vào kinh tế, về toàn dụng lao động, chính sách tài khóa, thuế lũy tiến v.v Một nền kinh tế
hỗn hợp (kinh tế nhiều thành phần) thực tế đã hình thành. Chống tư nhân hóa dịch vụ công chứ không
chống sự tham gia của thành phần tư nhân trong lĩnh vực này, tăng sức mạnh công hữu nhưng vẫn tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế tư hữu có vị trí thích đáng trong xã hội. Nền kinh tế hỗn hợp phải biết phát
huy những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của mỗi thành phần kinh tế. Nhà nước chứ không phải
thị trường quyết định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nếu để cho thị trường quyết định thì đã có bài học
nhãn tiền của chủ nghĩa tự do mới, làm giàu cho số ít, làm nghèo toàn xã hội.
Các cuộc khủng hoảng ngày một trầm trọng hơn, chiến tranh nóng và lạnh, môi trường xuống cấp, khí hậu
biến đổi, chủ nghĩa tư bản không còn đóng vai trò tiến bộ trong sự phát triển lịch sử nhân loại. Nếu nói như
Ph. Phu-ku-y-a-ma, lịch sử tận cùng với chủ nghĩa tư bản thì nên sửa lại chủ nghĩa tư bản tự đặt một dấu
chấm hết trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong lời kêu gọi ngày 11-3-2009, tờ báo Mỹ Bảo vệ chủ
nghĩa Mác cho rằng “Chủ nghĩa tư bản đã phục vụ những mục đích mang ý nghĩa lịch sử: xây dựng những
nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Chúng ta sẽ xây dựng một xã hội mới trên công nghệ và hiệu suất
lao động tạo nên bởi nhân loại dưới chủ nghĩa tư bản, không có bóc lột và dựa trên quyền lợi chung của
giai cấp lao động chiếm đại đa số. Tuy nhiên, giai cấp tư sản không chịu từ bỏ quyền lực và đặc quyền của
nó mà không chiến đấu. Một nhóm cá nhân đó sẽ quyết tâm thống trị và bóc lột hàng tỉ người trên thế giới.
Hệ thống của chúng ngày càng tỏ rõ không tương thích với sự tiếp tục tồn tại của nhân loại. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, theo lời của Oa-ren Bu-fít, một siêu tỉ phú, là một cuộc chiến tranh giai cấp toàn
cầu. Năm 2006, ông ta nói “những gì đang diễn tiến là một hình thái chiến tranh giai cấp” và rằng đó là giai
cấp của tôi, giai cấp giàu đang tiến hành chiến tranh, và chúng ta đang chiến thắng” (5) .
Chủ nghĩa tư bản có thể được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội trên quy mô thế giới, hoặc toàn bộ “thử
nghiệm” của văn minh nhân loại có thể sẽ bị vứt bỏ và đảo ngược bằng bạo lực tàn khốc, như lời Rô-da
Lúc-xăm-bua. Tổng thống Giôn Ken-nơ-đy từng khẳng định: “Những ai làm cho cách mạng hòa bình
không thể thực hiện được sẽ làm cho cách mạng bạo lực không tránh khỏi”(6) . Một người có quan điểm
như vậy khó mà tồn tại trong xã hội tư bản!
Chủ nghĩa xã hội vẫn được nhân dân các nước kể cả các nước tư bản chủ nghĩa giàu mạnh nhất tán thành.
Tại Mỹ, ngày 6 và 7-4-2009, Rasmussen Reports công bố một thăm dò 1.000 người trưởng thành có sai số
3 phần trăm về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Kết qua tổng hợp cho thấy, những người từ 40 tuổi
trở lên tán thành chủ nghĩa tư bản hơn, những người 30 tuổi trở xuống có đánh giá ngang bằng giữa chủ

nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Ngay cả đối với những người dân chủ, nếu 39% tán thành chủ nghĩa tư bản, thì 30% ủng hộ chủ nghĩa xã
hội.
Đối với mỗi người cách mạng, công bằng và dân chủ là những khẩu hiệu thiêng liêng nhất. Định hướng xã
hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó mỗi người đều được hưởng những quyền lợi vật chất và tinh
thần xứng đáng với sự cống hiến của mình./.

Nguyễn Văn Thanh
Chủ nghĩa tư bản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết (hoặc đoạn) này hiện gây tranh cãi về tính trung lập.
Đề nghị: Người gắn tiêu bản nêu lý do tại trang thảo luận. Nếu không có lý do
tại trang thảo luận, tiêu bản có thể bị tháo bỏ.
Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề
này.
Tập tin:Cme.jpg
Thị trường chứng khoán Chicago
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội phát triển cao của xã hội loài người,
xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến
châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ
thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ
nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của
chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ
nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách
một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng.
Tuy nhiên A.Smith là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận
tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản
không đồng nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ
nghĩa tư bản là một trong các hình thái kinh tế của sản xuất tư hữu, và đối lập với chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công cộng. Các chính sách an sinh xã hội trong nền

kinh tế tư bản không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một biểu hiện của một nền kinh tế
được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân và
quyền tự do sản xuất và kinh doanh được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp và được coi như
một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số
nước tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay
còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư
bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư
hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền
sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa
cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu tập thể và
nhà nước đối với phương tiện sản xuất.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh
doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong
các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua
bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành
thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do,
cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định
hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Các đặc điểm của kinh tế tư bản chủ nghĩa
• 2 Đặc điểm chính trị xã hội
• 3 Các hình thái của chủ nghĩa tư bản
• 4 Các đánh giá trái chiều về chủ nghĩa tư bản hiện đại
• 5 Liên kết ngoài

• 6 Đọc thêm
• 7 Xem thêm
[sửa] Các đặc điểm của kinh tế tư bản chủ nghĩa
"Chủ nghĩa tư bản" hay các định nghĩa, lý thuyết liên quan đến "chủ nghĩa tư bản"
(CNTB) có thể được hiểu là một hệ thống các quan điểm, các định nghĩa được những
người cộng sản, những chính khách theo phe cộng sản và các chính khách cánh tả khác
đưa ra để xác định một chế độ xã hội trong đó có sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
gắn với nền công nghiệp có năng suất lao động cao làm bộc lộ bản chất "bóc lột" lao
động làm thuê của các "nhà tư bản". Do ảnh hưởng lý luận theo quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, nhiều lý thuyết gia khái quát "chế độ chính trị tư bản chủ
nghĩa". Trong khi đó nhiều học giả khác không coi chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh
tế xã hội hay gắn nó với chế độ chính trị. Quan niệm của họ chủ nghĩa tư bản chỉ phản
ánh một quan hệ sản xuất trên nền tảng chế độ tư hữu. Ở các nước mà những người cộng
sản gọi là theo chế độ chính trị "tư bản chủ nghĩa" (đối lập với xã hội chủ nghĩa) thì
không có định nghĩa rõ ràng thế nào là CNTB trong các văn kiện pháp luật hay các văn
kiện mang tầm cỡ quốc gia
[cần dẫn nguồn]
. . Về mặt chính trị, ở những "quốc gia tư bản" quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt không hề bị nghi ngờ, họ không đưa ra khái
niệm thế nào là CNTB
[cần dẫn nguồn]
mà chỉ định nghĩa các chế độ chính trị như thế nào thì
được gọi là một nhà nước quân chủ lập hiến, quân chủ hợp hiến, nhà nước dân chủ, quân
phiệt, chế độ độc tài, chế độ cộng hòa.v.v
Do nhận thức khác nhau trên cơ sở kinh tế hay chính trị, "các nước tư bản" thường tự gọi
họ là các nước thuộc "Thế giới tự do", trong khi gọi các nước đảng cộng sản lãnh đạo là
"các nước cộng sản"; trong khi đó các nước đảng cộng sản lãnh đạo gọi nước họ là "các
nước xã hội chủ nghĩa", và các nước kinh tế tư bản chủ đạo là "các nước tư bản", và
không gọi các nước tuyên bố "xã hội chủ nghĩa" (trong Hiến pháp,v.v.) nhưng không do
đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước xã hội chủ nghĩa".

Có thể nói rằng hình thái kinh tế xã hội mà những người cộng sản gọi là "CNTB" tồn tại
dựa trên quan hệ cho vay lãi và cho thuê, điều này hoàn toàn đối lập với quy luật bảo toàn
và chuyển hóa của thế giới vật chất (một trong ba "chân vạc" trong hệ thống lý luận của
những người cộng sản): vật chất không thể tự sinh ra vật chất, tiền không thể đẻ ra tiền.
Các đề mục, định nghĩa và cách phân loại dưới đây dựa trên cơ sở lý luận của những
người cộng sản, những người theo chủ nghĩa Mác-Lê.
[cần dẫn nguồn]
.
Các hệ thống kinh tế
Kinh tế tư bản chủ nghĩa
Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường
Kinh tế kế hoạch
Kinh tế hỗn hợp
Chủ nghĩa xã hội thị trường
Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Kinh tế thị trường xã hội
Kinh tế chuyển đổi
Kinh tế mở
Kinh tế khép kín
Kinh tế tự cung tự cấp
Kinh tế hàng hóa
Kinh tế tiền tệ
• Thành phần kinh tế tư nhân: Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh
tranh của chủ nghĩa tư bản thành phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế.
Sau này cùng với mô hình kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều
phối của nhà nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có
giảm xuống nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm tỷ
trọng là thành phần lớn nhất trong nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đóng

vai trò năng động, lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn
thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo
công ăn việc làm cho lực lượng lao động tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để
kinh doanh trong các ngành cần thiết nhưng khó sinh lời. Theo thời gian giữa hai
thành phần này thỉnh thoảng lại có sự hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân hoá
hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp thông qua việc bán và mua các cổ phần của
doanh nghiệp.
• Nền sản xuất lớn và động lực lợi nhuận: Khác với nền sản xuất phong kiến là
nền sản xuất lấy ruộng đất làm phương tiện sản xuất cơ bản và sở hữu ruộng đất là
đặc quyền của vua, quý tộc và lãnh chúa, ngành kinh tế chính là nông nghiệp và
thương mại. Kinh tế tư bản chủ nghĩa bác bỏ đặc quyền về ruộng đất hoặc bất cứ
độc quyền của tầng lớp quý tộc, thượng lưu nào. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là
tự do kinh doanh lấy công nghệ, máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất
chính và là nền kinh tế định hướng sang công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Sự
định hướng này hoàn toàn do yếu tố lợi nhuận và thị trường điều phối. Do phương
tiện sản xuất là công nghệ, tri thức nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi
nhuận tối đa luôn có xu hướng hướng đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở
rộng và gắn liền với cách mạng khoa học-công nghệ. Việc nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh doanh là lợi ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp
trong cạnh tranh giành lợi nhuận.
• Mua bán sức lao động (thị trường lao động): đây là đặc điểm rất nổi bật của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế phong kiến và các nền kinh tế cấp
thấp lực lượng nhân công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ,
lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý chí của
chủ đất và quý tộc. Còn nhân công (người lao động) trong kinh tế tư bản chủ
nghĩa về mặt pháp lý là hoàn toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp (người
thuê lao động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc kinh tế với
nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp mua bán sức
lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể thanh lý hợp đồng lao
động với người thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê lao động khác

và nếu muốn cùng với có khả năng hoặc may mắn thì cũng có thể trở thành chủ
doanh nghiệp.
Cả xã hội là một thị trường lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều
hơn yêu cầu lao động do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất
nghiệp. Do vậy, người lao động thường bị "mua rẻ" sức lao động của mình, xuất
hiện giá trị thặng dư, dẫn đến tình trạng công nhân bị "bóc lột" trong xã hội tư
bản, điều này những nước xã hội chủ nghĩa đã ra sức loại bỏ. Tuy nhiên nguy cơ
của nạn thất nghiệp đóng vai trò kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và
kỷ luật lao động trong cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc.
• Kinh tế thị trường và cạnh tranh: Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá nhân và
các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong
kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự phát theo
quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh tế thị
trường
[sửa] Đặc điểm chính trị xã hội
Chính vì đặc điểm kinh tế cơ bản là quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất và kinh tế
thị trường tự do kinh doanh nên đã kéo theo các đặc điểm khác về mặt luật pháp, triết học
và tâm lý của xã hội tư bản chủ nghĩa:
• Tính năng động thị trường: Mọi giá trị kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội đều có
thể và phải được lượng giá bằng tiền tệ trong các mối quan hệ xã hội, dựa trên sự
lượng giá đó để đánh giá giá trị đối với xã hội, do đó sự lượng giá các giá trị này
hoàn toàn mang tính thị trường và thay đổi rất nhanh theo thời gian, xã hội rất
năng động như một thị trường các giá trị lên giá và xuống giá rất nhanh.
• Nhân quyền: Đối với xã hội tư bản chủ nghĩa cá nhân là chủ thể trung tâm của xã
hội: là người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần và là người thụ hưởng các
thành quả đó. Cá nhân có trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội và có các quyền bất
khả xâm phạm đó là nhân quyền. Quyền lợi của cá nhân trong xã hội tư bản chủ
nghĩa là tối cao nếu nó không phủ định quyền của cá nhân khác. Ở đây khái niệm
cá nhân là rất cụ thể.
• Đa đảng và đa nguyên chính trị: Vì nền tảng kinh tế tư bản chủ nghĩa khước từ

mô hình chỉ huy tập trung, kinh tế tư bản đề cao sự hành động sáng tạo của cá
nhân nên tâm lý xã hội cũng xa lạ với những giáo điều là "chân lý" không cần bàn
cãi. Các quốc gia tư bản chủ nghĩa không có giáo lý chung cho "chủ nghĩa" của hệ
thống này. Xã hội tư bản chủ nghĩa không bắt buộc công nhận bất cứ "chủ nghĩa",
học thuyết hoặc nhân vật thần thánh nào. Thượng đế cũng bị phán xét, mọi lý
thuyết xã hội, chính trị hoặc lý luận của các tổ chức và cá nhân đều phải qua thực
tế kiểm nghiệm và phán xét công khai và được chấp nhận hoặc loại bỏ thông qua
bầu cử của hệ thống chính trị. Do đó chế độ chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa
thường dựa trên chế độ đa đảng cạnh tranh và đa nguyên chính trị. Đây là đặc
điểm tư tưởng chính trị khác nhau cơ bản của một nhà nước tư bản chủ nghĩa với
một nhà nước xã hội chủ nghĩa, cộng sản hoặc một nhà nước thần quyền.
[sửa] Các hình thái của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản phát triển trong lòng chủ nghĩa phong kiến tại châu Âu đến nay đã có
sự đa dạng về các hình thức quản lý và sở hữu, nhưng về cơ bản vẫn trên nền tảng chế độ
tư hữu và lao động làm thuê. Các hình thái: chủ nghĩa tư bản độc quyền, rồi "chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước", chủ nghĩa tư bản nhà nước.v.v cùng với nhiều hình thái khác
phát sinh sau này phản ánh sự thích ứng chủ nghĩa tư bản trong xã hội hiện đại. Trong khi
đó sự xuất hiện của các hình thức "sở hữu Nhà nước" hay "sở hữu toàn dân" thông qua
quốc hữu hóa thường được xem như là một biểu hiện của "chủ nghĩa xã hội" - theo lý
thuyết của những người xét lại chủ nghĩa Marx.
[sửa] Các đánh giá trái chiều về chủ nghĩa tư bản hiện đại
Adam Smith: cha đẻ kinh tế học tư bản chủ nghĩa - tác phẩm: Sự giàu có của quốc gia
Ngay từ khi xuất hiện cho đến ngày nay chủ nghĩa tư bản luôn là đối tượng nghiên cứu và
đánh giá của môn xã hội học của thế giới và đến tận hôm nay vẫn chưa thể có đánh giá
nhất quán về vai trò và tương lai của chủ nghĩa tư bản. Trong thế kỷ 20 đã xuất hiện
phong trào cộng sản mà mục tiêu cơ bản là để loại bỏ bất công của chủ nghĩa tư bản. Với
thất bại của những nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản cổ điển, với độ lùi nhất định về thời
gian sự đánh giá về chủ nghĩa tư bản đã có một nội dung mới khách quan hơn và toàn
diện hơn:
Những người phản đối chủ nghĩa tư bản cho rằng:

• Tính chất ích kỷ của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi và gây nên những bất ổn
trên thế giới. Kể từ thời Karl Marx và khởi nguồn của chủ nghĩa cộng sản, bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi: Ngày nay trong quá trình
toàn cầu hoá, chủ nghĩa tư bản trên thế giới lại gây nên khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn giữa các dân tộc, và giữa các giai tầng xã hội bên trong các quốc
gia, dân tộc, gây ra một chế độ áp bức kinh tế (chủ nghĩa đế quốc kinh tế) còn
nặng nề hơn chế độ thuộc địa thực dân ngày xưa, gây bất ổn trên thế giới. Việc
các công ty tư bản bơm vốn sang các nước nghèo để tránh thuế, tránh các chi phí
đắt đỏ tại chính quốc, chiếm hữu các nguồn tài nguyên, khai thác các nguồn nhân
lực một cách bất công, tối đa hoá lợi nhuận chứng tỏ bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản chưa hề thay đổi Và các thách thức của thế giới như sự nghèo nàn,
nạn đói, nạn khủng bố, phong trào chống toàn cầu hoá là thể hiện của các mâu
thuẫn này do chủ nghĩa đế quốc kinh tế gây ra. Đây là tâm lý chung của dư luận
các nước chậm phát triển lên án sự bất bình đẳng kinh tế giữa các dân tộc.
[cần dẫn nguồn]
• Xã hội công dân của xã hội tư bản không thể giải quyết các mâu thuẫn đối kháng.
Các nhà nước tư bản chủ nghĩa không thể làm tốt công tác điều tiết xã hội mà nó
luôn có xu hướng bảo vệ giai cấp tư sản, bóc lột các tầng lớp lao động làm cho
mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc hơn. Sự giàu mạnh của một số nước tư bản
chỉ là kết quả của việc khuyến khích người ta đặt lợi nhuận lên hàng đầu mà
không cần quan tâm đến vấn đề đạo dức hay xã hội. Hậu quả là một bộ phận nhỏ
của xã hội trở nên giàu có dựa trên sức lao động và sự nghèo khổ của đa số mọi
người.
• Xã hội tư bản là xã hội đặt sự ích kỷ thành triết lý cuộc sống, đặt lợi nhuận lên
trên hết, làm xói mòn đạo đức xã hội và cuối cùng sẽ làm băng hoại xã hội. Sự tự
do quá trớn của cá nhân trong xã hội tư bản làm nảy sinh các nhu cầu quái dị, các
loại tệ nạn xã hội Cuối cùng sẽ tước đoạt hạnh phúc của con người. Đây là luận
điểm của phái lý luận muốn kết hợp kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có điều
tiết với định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước xã hội chủ nghĩa để hạn chế
các tiêu cực của chủ nghĩa tư bản.

[cần dẫn nguồn]
• Kinh tế tư bản đặt lợi nhuận làm nền tảng, do đó thường gây ra các vấn nạn ô
nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, bất chấp hậu quả đối với sức khỏe cộng
đồng
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cho rằng:
• Hình thức kinh tế thị trường tự do không bị nhà nước can thiệp của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa là bộ điều tiết kinh tế tổng hợp vạn năng cho kinh tế thế giới và
cùng với các kinh nghiệm phòng tránh khủng hoảng mà kinh tế tư bản chủ nghĩa
thu nhận được nó sẽ mang một sức sống mới cho tương lai kinh tế nhân loại. Đây
là luận điểm của một số nhà kinh tế học hàng đầu của châu Âu và Mỹ ngày nay
đứng đầu là Alan Greenspan là đại điện cổ vũ cho một nền kinh tế thị trường tự
do toàn phần không bị nhà nước can thiệp.
• Trong quá trình tự tổ chức và cạnh tranh vì lợi nhuận của các doanh nghiệp tư
bản, xã hội sẽ được lợi hơn và xã hội sẽ tiến nhanh về phía trước hơn là hình thái
đặt mục tiêu trực tiếp thoả mãn các quyền lợi của xã hội lên trên quyền lợi của các
doanh nghiệp tư bản tư nhân. Đây là luận điểm mà đại diện là Adam Smith ông tổ
của kinh tế học tư bản chủ nghĩa và đã phần nào được chứng thực bằng thực tế
tranh đua của hai nền kinh tế cộng sản – tư bản trong thế kỷ 20.
• Chủ nghĩa tư bản là tương lai của nhân loại vì nó phát triển tính năng động của
nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.
• Chủ nghĩa tư bản sẽ mất dần tính ích kỷ và dần sẽ biến đổi thành chủ nghĩa tư bản
nhà nước với sở hữu dần tập trung vào tay nhà nước hoặc chủ nghĩa tư bản toàn
dân với hình thức các công ty cổ phần. Đây là phái lý luận ủng hộ sự can thiệp
của nhà nước vào kinh tế tư bản chủ nghĩa mà đại diện là John Maynard Keynes
và cũng là lý luận của chủ nghĩa cộng sản châu Âu (Eurocommunism).
• Xã hội công dân của chủ nghĩa tư bản có khả năng điều tiết các bất bình đẳng để
hướng đến một xã hội ngày càng công bằng hơn mà vẫn giữ được tính năng động
tư bản chủ nghĩa (chủ nghĩa cộng sản châu Âu,v.v)
• Chủ nghĩa tư bản trên cơ sở cạnh tranh để tồn tại và tối đa hóa lợi nhuận, do đó
chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, sáng tạo, tôn trọng người tài năng, có trí

thức.
• Chủ nghĩa tư bản trên cơ sở tư hữu, do đó hạn chế tha hóa nhà nước.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản bao gồm những người theo các học thuyết chủ
nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, dân chủ Thiên Chúa giáo, đôi khi cả dân chủ xã hội.
Những người phản đối chủ nghĩa tư bản là những người theo đuổi chủ nghĩa xã hội (cả
chủ nghĩa xã hội dân chủ), chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và cả một số người chủ
nghĩa vô chính phủ.
Mở tầm nhìn
Giải thiêng chủ nghĩa tư bản kiểu "rừng trúc" của Trung Quốc
Tác giả: Thu Lượng (theo Economist)
Bài đã được xuất bản.: 16/03/2011 06:00 GMT+7
• Recomend
• 0
Red
• In
• Email
• Thảo luận
TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)
• 10 công ty Mỹ đắt giá nhất
• Lãnh đạo châu Á nào sáng giá trước thế giới?
• TTCK thế giới trước nguy cơ phá sản?
• Năm 2011: Kịch bản khủng hoảng có lặp lại?



Thành công của Trung Quốc ngày nay nhờ vào giới doanh nghiệp nhiều hơn là từ
khối hành chính. Đã tới lúc mọi người phải được biết về họ.
Rất hiếm người dám phủ nhận việc Trung Quốc đang trở thành siêu sao kinh tế trong
những năm gần đây. Nhờ tăng trưởng hàng năm luôn đạt mức hai con số, Trung Quốc đã
trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và trong nhiều phương diện thì họ là nền kinh tế

năng động nhất. Điều mà mọi người ít nhìn thấy rõ hơn chính là bí mật tạo nên thành công
này. Nhiều người lờ mờ cho rằng đó là một dạng "chủ nghĩa tư bản mang đặc trưng của
Trung Quốc" - chủ yếu nhằm giải thích cho bộ máy hành chính với bàn tay "rắn chắc và
vô hình" đã tạo nên điều kỳ diệu này. Theo lẽ tự nhiên, quan điểm trên cho rằng chính phủ
Trung Quốc rất vui vẻ khuyến khích.
Nhưng có thật sự như vậy không? Tất nhiên, nhà nước có rất nhiều hoạt động mạnh mẽ và
có vai trò quan trọng. Họ đã rất hiệu quả trong việc tiễu trừ các trở ngại về mặt vật chất
cũng như về kỹ thuật: về vật chất, đó là thông qua việc xây dựng các con đường, các nhà
máy điện và các cây cầu; về kỹ thuật, bằng cách tạo điều kiện (bằng mọi cách khác nhau)
cho việc chuyển hóa sở hữu trí tuệ nước ngoài.
Tuy nhiên, sự hưng thịnh của Trung Quốc lại phần lớn nhờ vào những gì vẫn đang xảy ra
từ dưới lên trên cũng như từ trên xuống dưới. Cũng như nước Đức có vô vàn các
Mittelstand (từ chỉ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức, thường do tư nhân và các hộ gia đình
sở hữu và điều hành) đóng vai trò xương sống của nền kinh tế, Trung Quốc cũng có hằng
hà sa số các doanh nghiệp tư nhân vô cùng mạnh mẽ: đó là một nền tư bản phát triển
nhanh, mạnh như những rừng trúc đại ngàn.
Những doanh nghiệp này không chỉ hoạt động bên ngoài các công ty quốc doanh đầy
quyền uy của nhà nước, mà còn bên ngoài vòng pháp luật. Hệ quả là, các dữ liệu thống kê
của nhà nước không thể nắm bắt được vai trò lớn lao của các doanh nghiệp này đối với
nền kinh tế của Trung Quốc. Nhưng như tờ báo đã đưa tin, họ quả là một thế lực vô cùng
kinh ngạc.
Ảnh minh họa.
Một thế giới kỳ lạ
Trước tiên, đó là quy mô hoạt động của họ. Ba thập kỷ trước, hầu như toàn bộ doanh
nghiệp tại Trung Quốc đều do một cấp nào đó trong chính quyền quản lý. Giờ thì một ước
tính - và nó có thể sẽ là một cú sốc nặng - cho rằng đóng góp vào GDP của các doanh
nghiệp không do chính quyền nắm phần lớn quyền điều hành chiếm vào khoảng 70%.
Zheng Yumin - Bí thư Đảng Cộng sản trong bộ phận thương mại của tỉnh Chiết Giang
phát biểu trong cuộc họp báo năm ngoái rằng, trong tổng số 43 triệu công ty của Trung
Quốc thì có đến hơn 90% là công ty tư nhân. Trung tâm của các cụm doanh nghiệp đó

nằm ở các khu vực, chẳng hạn như Chiết Giang, thường không nhận được nhiều sự quan
tâm từ phía khối hành chính của Bắc Kinh, nhưng những mô hình kinh doanh này đang
vươn xa và nở rộ trên khắp đất nước này.
Thứ hai, đó là động lực của họ. Qiao Liu và Alan Siu thuộc Đại học Hong Kong tính toán
rằng lợi nhuận trung bình sau thuế của các doanh nghiệp tư nhân không nằm trong danh
sách thống kê cao hơn 10% so với con số khiêm tốn 4% mà toàn bộ hoặc một phần doanh
nghiệp quốc doanh đạt được. Số doanh nghiệp tư nhân có đăng ký đã tăng trung bình
khoảng 30%/năm trong giai đoạn 2000-2009. Các nhà máy mọc lên dọc tuyến đường bộ
và đường sắt mới xây dựng hoạt động liên tục suốt ngày đêm để sản xuất bất kể là đai ốc
hay bu-lông mà mọi nơi trên thế giới đang cần đến.
Những con người đằng sau những doanh nghiệp này luôn luôn điều chỉnh sản phẩm và
cách thức sản xuất của mình sao cho phù hợp với tính chất cạnh tranh khốc liệt (thường ở
địa phương) và nhu cầu thay đổi bất thường. Con đường hoạn lộ và thăng tiến của các
chính trị gia cấp tỉnh không phải quá rộng mở, nên họ thường để cho các đơn vị này hoạt
động tự do - nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp của chính quyền cũng như rất nhiều luật
liên quan tới việc sở hữu đất, quan hệ lao động, các loại thuế má và giấy phép. Cứ như
vậy, chủ nghĩa tư bản kiểu "rừng trúc"mặc sức phát triển tự do.
Nhưng đặc điểm thứ ba của loại hình kinh doanh này lại đáng lo ngại hơn cả, đó là tính
chất dễ bị tổn thương. Cách thức điều chỉnh của Trung Quốc đối với khu vực tư nhân của
họ thường theo kiểu "mắt nhắm, mắt mở". Hệ thống này vô cùng linh hoạt, nhưng lại
không phù hợp với luật pháp, các công ty trở thành đích nhắm của giới chức quan liêu.
Việc đàn áp không nương tay có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cũng rất khó cho họ để có thể
trưởng thành trong một kết cấu vững chãi hơn.
Đừng chặt bỏ, hãy vun trồng!
Tất cả những điều này đều liên quan tới bản thân Trung Quốc và rộng hơn là cả thế giới.
Việc lách luật đã tạo ra vô vàn cơ hội để lạm dụng: hạn chế liên quan tới luật lao động,
chẳng hạn như khuyến khích việc khai thác công nhân. Các doanh nghiệp phát triển tràn
lan cũng không thể sống yên ổn trong ý thức hệ của các quan chức nhà nước. Cho tới giờ,
Trung Quốc đã quản lý việc này tương đối tốt. Nhưng qua thời gian, những mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa cơ hội vô chính phủ và sự điều hành của nhà nước - vốn đều có tầm quan

trọng sống còn với sự trỗi dậy của Trung Quốc - chắc chắn sẽ gây ra va chạm lớn hơn.
Những người bảo thủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể sẽ nghĩ tới việc trốc tận rễ
thứ chủ nghĩa tư bản tre trúc này.
Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu như thay vào đó, họ cố gắng mang lại cho các doanh nghiệp một
khuôn khổ pháp lý phù hợp. Có thể hiểu, rất nhiều doanh nghiệp e sợ sự kiểm soát chặt
chẽ: họ sợ bị chú ý nhiều vì rằng các hoạt động của họ sẽ trở thành mối quan tâm của cơ
quan điều tra. Nhưng thiếu một nền tảng pháp lý vững chãi (bao gồm cả các luật sở hữu
trí tuệ), rất khó để có thể tạo nên các doanh nghiệp và thương hiệu lớn.
Sự mơ hồ về mặt pháp lý cũng khiến cho hoạt động gây vốn trở thành lén lút. Hệ quả là
nó sản sinh ra một hệ thống tài chính linh hoạt tới mức kinh ngạc, nhưng phải trả giá rất
cao. Hoạt động thế chấp cũng bị nghi ngờ và hệ thống tài chính do nhà nước điều hành
không thưởng cho các nhân viên tín dụng vì đã thừa nhận các rủi ro mà các công ty ngoài
quốc doanh mang lại. Thay vào đó, tiền thường được cung cấp từ các nguồn không chính
thống, với mức giá rất đắt. Tỉ lệ cho vay nặng lãi ở Ôn Châu (sau một thành phố nổi tiếng
nhất về kiểu hoạt động tài chính này) được cho là bắt đầu từ mức 18%, thậm chí còn có
thể tăng 200%. Một khoản cho vay hiếm khi được kéo dài quá hai năm. Những người bên
ngoài thường tự hỏi về việc lên kế hoạch dài hạn gắn với nền kinh tế Trung Quốc, nhưng
rất nhiều xưởng chế biến năng động nhất của Trung Quốc vẫn chật vật trong việc gieo hạt
và thu hoạch trong một mùa vụ nông nghiệp.
Do vậy, chủ nghĩa tư bản kiểu "rừng trúc" này sẽ phải thay đổi. Nhưng nó cũng khiến cho
Trung Quốc thay đổi. Sức cạnh tranh từ các công ty tư nhân đã đẩy mức lương và lợi
nhuận lên cao hơn bất kỳ một bộ luật mới nào - nhằm giúp tạo thêm người tiêu dùng mà
Trung Quốc (và các doanh nghiệp của họ) cần tới. Và đằng sau hàng loạt các doanh
nghiệp mới được thành lập với số vốn hạn hẹp là những người từng làm công nhân cho
các nhà máy, họ đã chứng kiến thành quả thu được từ việc kinh doanh theo "phường, hội"
hơn là đứng ở thế "đơn thương độc mã". Trong tất cả mọi phương diện thì lĩnh vực tư
nhân đóng một vai trò có tính chất sống còn trong việc nâng cao mức sống - và thúc đẩy
nền kinh tế Trung Quốc theo hướng tiêu dùng nội địa hơn là chỉ xuất khẩu ra bên ngoài.
Phương Tây nên biết ơn Trung Quốc vì điều này. Và họ cũng nên chào đón chủ nghĩa tư
bản kiểu "rừng trúc" này rộng rãi hơn. Có rất nhiều người - không chỉ ở các quốc gia

thuộc thế giới thứ ba, mà cả các nhà tài phiệt phương Tây - đã từng bái phục cái được gọi
là "Đồng thuận Bắc Kinh". Đây là một ý tưởng về chủ nghĩa tư bản do nhà nước nắm
quyền điều hành và kiểm soát chính trị chặt chẽ được coi như "tiên dược" cho sức tăng
trưởng. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc lại trỗi dậy chủ yếu ở những nơi mà nhà nước lui
bước. Và như vậy, "chủ nghĩa tư bản với đặc trưng của Trung Quốc" mang lại hiệu quả
bởi vì bản chất của nó là tư bản, chứ không vì các đặc trưng nào cả.
Đặc trưng mô hình kinh tế tự do mới của Mỹ và bài học kinh nghiệp cho Việt Nam
ThS.Cao Minh Nghĩa &
ThS.Nguyễn Thị Hoàng Mỹ
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay dẫn đến việc mô hình kinh tế tư bản tự do bị
lên án mạnh mẽ tại Mỹ và khắp nơi trên thế giới, kể cả những người từng ủng hộ mạnh
mẽ nhất. Chuyên gia kinh tế Francis Fykuyama giảng dạy tại đại học John Hopkins, xem
đây là “sự sụp đổ của mô hình kinh tế Mỹ” và “sự cáo chung của các học thuyết Reagan
và Thatcher” (theo: Asiaweek, 13/10/2008).
Một số nhà phân tích và dư luận Mỹ đang nói đến việc Mỹ quay trở lại học thuyết
Keynes và mô hình kinh tế “tân chính sách” dưới thời Tổng thống F.D.Roosvelt thời kỳ
1933-1939, hoặc theo mô hình dân chủ xã hội giống như các nước Đức, Pháp hoặc tìm
mô hình khác với tên gọi mới như “chủ nghĩa tư bản có kiểm soát”, hay “chủ nghĩa tư
bản có phòng vệ”, hay “chủ nghĩa tư bản sáng tạo”. Theo George Soros “… đặc điểm nổi
bật của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là nó không xuất phát từ cú sốc bên ngoài
nào đó…. Chính hệ thống hiện thời tự thân nó tạo ra cuộc khủng hoảng này”.
Tờ nhật báo Pháp Le Monde, đã trích dẫn quan điểm của nhà trí thức, triết gia người
Slovania Slavoj Zizek, một người thường xuyên thuyết trình tại các đại học Mỹ về cuộc
khủng hoảng hiện nay “chủ nghĩa tư bản cần được xét lại một cách triệt để” vì “người ta
từng lên án sự can thiệp của Nhà nước, xem đó là trở ngại cho sự vận hành của một nền
kinh tế thị trường, trừ phi sự can thiệp đó là để phục vụ cho hệ thống tư bản”.
1. Đặc trưng của mô hình:
Chỉ tính từ đầu thế kỷ XX đến nay, trên nền tảng của cùng một phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, thế giới đã trải qua 3 giai đoạn: chủ nghĩa tự do cổ điển trước đại khủng
hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933, chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai; chủ nghĩa tư

bản "nhân dân" của học thuyết Keynes từ năm 1950 đến 1975 và chủ nghĩa tự do mới từ
cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 cho đến nay. Tương ứng với ba hình thái đó
là ba hình thức Nhà nước: Nhà nước mạnh; Nhà nước phúc lợi can thiệp và Nhà nước tối
thiểu thu hẹp cả chức năng kinh tế lẫn chức năng xã hội.
Mặc dù, cuộc khủng hoảng năm 1974 do tăng trưởng thấp, lạm phát cao làm tiền đề cho
thời cơ của chủ nghĩa tự do mới nhưng bước ngoặt chỉ đến từ năm 1979 khi ở Anh, bà
Margaret Thatcher lên nắm quyền. Đây là chính phủ tư bản phát triển đầu tiên công khai
cam kết áp dụng chủ nghĩa tự do mới trong hoạt động thực tiễn. Một năm sau (năm
1980), Ronald Reagan được bầu làm Tổng thống Mỹ thì thập kỷ tự do mới bắt đầu hình
thành ở Mỹ. Kinh tế Mỹ đã trải qua một cuộc tái cơ cấu sâu sắc ảnh hưởng đến mọi mặt
của đời sống xã hội. Tái cơ cấu tự do mới đó tập trung vào biến đổi vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế, kéo theo việc hạn chế sử dụng chi tiêu của Chính phủ và đánh thuế để
điều hòa chu kỳ kinh doanh, nới lỏng hoặc hủy bỏ điều tiết của Chính phủ đối với hành vi
của tư bản trong các lĩnh vực trong nước và quốc tế, tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà
nước và tiện ích công, cắt giảm mạnh ngân sách cho các chương trình xã hội. Sự tái cơ
cấu đó được gọi là “tự do mới” bởi nó là một hình thái được cập nhật và cực đoan hơn
của lý thuyết kinh tế “tự do cổ điển” do Adam Smith và David Ricardo phát triển trong
thế kỷ XVIII và XIX, với lập luận rằng nền kinh tế tư bản chủ yếu tự điều tiết thông qua
hoạt động của các lực lượng thị trường.
Chủ nghĩa tự do mới ngày nay có quy mô rộng lớn hơn do sự tiến bộ của khoa học - công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin, đã làm cho các dân tộc gần với nhau hơn và do toàn
cầu hóa cùng với hội nhập quốc tế đang diễn ra trên một phạm vi rộng hơn với cường độ
mạnh mẽ hơn.
2. Những ưu điểm và nhược điểm của mô hình:
2.1. Ưu điểm:
Sự thắng lợi của nền kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới được minh chứng bằng sự thăng
hoa của kinh tế Mỹ nửa sau thập kỷ 90 với tăng trưởng kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp khá thấp
và ít lạm phát, sản lượng và năng suất cao hơn.
Mô hình kinh tế tự do mới đề cao vai trò cá nhân. Thật vậy, một xã hội muốn phát triển
thịnh vượng trước hết phải phát huy tính độc lập, sáng tạo của mọi cá nhân và muốn làm

được như vậy phải có một môi trường xã hội tự do, thông thoáng. Sự can thiệp quá sâu
của Nhà nước có thể dẫn đến tình trạng mất đi tự do và khả năng tự chủ, sáng tạo của cá
nhân. Chính sách kinh tế dựa trên tư tưởng thị trường tự do với yếu tố chủ đạo của tư
tưởng này là cần hạn chế vai trò của Chính phủ và thay thế bằng các lực lượng thị trường.
Mô hình kinh tế tự do mới giúp tăng tính cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp dẫn đến
nền sản xuất sẽ hiệu quả hơn, hàng hóa sẽ đa dạng và phong phú hơn.
Mô hình kinh tế tự do mới giúp cho đồng vốn lưu thông dễ dàng hơn. Điều đó giúp cho
các nước đang phát triển thu hút được nhiều vốn đầu tư từ đó hấp thu, tiếp cận nhanh hơn
với khoa học - công nghệ cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân bản xứ đồng thời
nâng cao thu nhập, mức sống người dân.
2.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, mô hình kinh tế tự do mới không thể tránh
khỏi những hạn chế nghiêm trọng. Mô hình kinh tế tự do mới làm cho các nước dễ tổn
thương trước việc đồng vốn bỏ đi nơi khác, đồng tiền không ổn định và do đó làm cho cả
nền kinh tế cũng trở nên bấp bênh, nếu không có sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
Mô hình kinh tế tự do mới dẫn đến nền tài chính mong manh và khủng hoảng bằng cách
tạo nên đầu cơ thay vì một nền kinh tế hướng mạnh vào sản xuất, làm cho kinh tế đình
đốn và bất bình đẳng thêm trầm trọng.
Chủ nghĩa tự do mới tạo nên một tầng lớp tư sản rất giàu - một tầng lớp mại bản - có thu
nhập, tài sản và quyền lực chính trị tại các nước đang phát triển. Chủ nghĩa tự do mới làm
tăng vị thế mặc cả của tư bản đối với lao động. Cải cách tài chính tự do mới ngăn cản các
chính sách tiến bộ. Các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc thi hành những
chính sách kinh tế và xã hội độc lập.
Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới áp dụng ở các nước châu Mỹ Latinh đã gây ra những hậu
quả tiêu cực rõ rệt, như cắt giảm chi phí của Nhà nước cho phúc lợi xã hội, giảm thu nhập
của công nhân; tư nhân hóa hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước; làm hàng chục nghìn
doanh nghiệp nhỏ phá sản; tài nguyên quốc gia lọt vào tay tư bản nước ngoài.
3. Bài học kinh nghiệm cho sự điều hành của Chính phủ đối với nền kinh tế Việt
Nam:
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn với

tất cả các nước và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền, bình đẳng
và cùng có lợi”. Là nước đi sau do những hoàn cảnh lịch sử, chúng ta rất xem trọng học
tập và tiếp thu những thành tựu của các quốc gia đi trước một cách có chọn lọc và vận
dụng thích hợp với tình hình thực tế của nước ta. Vì vậy, trước những luận thuyết kinh tế
mới chúng ta phải thận trọng cân nhắc, biết chọn lọc cái đúng, gạt bỏ cái sai, không phủ
định hết cũng không học tập một cách giáo điều.
Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa, Nhà nước Việt Nam chủ trương sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam vừa
hợp tác vừa cạnh tranh với các doanh nghiệp tư bản nước ngoài nên cần giảm mạnh
những doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và tập trung hơn vào các ngành và lĩnh vực then chốt.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vai trò nồng cốt trong toàn bộ nền kinh tế đất nước,
đáp ứng cơ bản những yêu cầu về quốc phòng và an ninh, về những dịch vụ công ích
hướng về người nghèo. Nhà nước giữ cổ phần chi phối trong những doanh nghiệp quan
trọng với quốc kế dân sinh. Chúng ta cổ phần hóa chứ không tư hữu hóa, kiên quyết
chống lại những khuynh hướng lệch lạc nhằm biến cổ phần hóa thành tư hữu hóa. Chủ
nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, chứ không dựa trên
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Khi chủ nghĩa tự do mới ráo riết đòi “người sử dụng phải trả tiền” hoặc chính sách “thu
hồi chi phí”, Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và
rất xem trọng chính sách đối với người nghèo. Hàng loạt các chương trình đã ra đời và đi
vào cuộc sống như xây dựng nhà tình thương cho người nghèo không đủ tiền để xây nhà;
xây dựng nhà tình nghĩa cho người thân của các liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc; khám chữa bệnh miễn phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi; giảm 50% học phí và các
khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật; miễn 100% học
phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với những học sinh bị khuyết tật thuộc
diện hộ nghèo; học sinh dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo; học sinh mồ côi cha mẹ, mồ
côi cha hoặc mẹ mà người còn lại không đủ khả năng nuôi dưỡng; học sinh bị bỏ rơi, bị
mất nguồn nuôi dưỡng. Đó là những cố gắng hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học
cơ sở cho những học sinh nghèo trong hoàn cảnh một nước nghèo như Việt Nam mà
chuẩn nghèo mới đối với khu vực thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới

260.000 đồng/người/tháng (trước đây là 150.000 đồng/người/tháng); đối với khu vực
nông thôn là dưới 200.000 đồng/người/tháng (trước đây là 80.000 - 100.000
đồng/người/tháng).
Khi chủ nghĩa tự do mới muốn lôi cuốn Việt Nam vào nền kinh tế thị trường không hạn
chế, tất cả để cho “bàn tay vô hình của thị trường” xếp đặt, Nhà nước ta chủ trương một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Khi chủ
nghĩa tự do mới lấy cạnh tranh làm động lực duy nhất, Nhà nước ta chủ trương nâng cao
sức cạnh tranh đi đôi với đoàn kết và thi đua xã hội chủ nghĩa, không phải là cạnh tranh
bóp chết đối thủ để tìm kiếm siêu lợi nhuận. Khi chủ nghĩa tự do mới hối thúc tư hữu hóa
dịch vụ xã hội, Nhà nước ta khuyến khích tăng cường các dịch vụ cho người nghèo thông
qua đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong hai lĩnh vực y tế và giáo dục đào tạo.
Khi chủ nghĩa tự do mới đòi hỏi “lao động linh hoạt” buộc công nhân làm thêm 400 - 500
giờ một năm, Nhà nước ta nhận thấy làm thêm cũng là cần thiết trong sản xuất thời vụ
hoặc khi đến thời điểm giao hàng… nhưng khống chế trong phạm vi 200 giờ một năm đi
kèm trả công làm thêm và các chế độ khác. Người lao động trong các doanh nghiệp bị
phá sản mà có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo mức lương cũ và được điều chỉnh
tăng thêm 10%.
Khi chủ nghĩa tự do mới yêu cầu tự do hóa lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Nhà nước ta
rất thận trọng bởi đây là vấn đề sinh tử của quốc gia. Ngân hàng Sài Gòn thương tín
(SACOMBANK) đang đàm phán với Ngân hàng ANZ về các khoản chi tiết trước khi ký
hợp đồng chính thức sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận cho
SACOMBANK bán 10% cổ phần cho ANZ. Ngân hàng này sẽ là cổ đông nước ngoài thứ
ba sở hữu cổ phần của SACOMBANK sau Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và Công ty
quản lý quỹ DRAGON CAPITAL. Những trường hợp bán cổ phần của Ngân hàng Ngoại
thương (VIETCOMBANK) và Ngân hàng đồng bằng sông Cửu Long đã được nghiên
cứu rất kỹ trước khi có quyết định.
4. Nhận xét chung:
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hình thành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương này dựa
trên quan điểm “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục tiêu

của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước vì dân, một nền kinh tế công bằng,
một xã hội không còn đói nghèo, dốt nát và kém văn hóa. Đây là mục tiêu quan trọng mà
Việt Nam hướng tới chứ không phải một kiểu tự do hại người lợi mình, cạnh tranh không
lành mạnh, lấy bất bình đẳng làm động lực của phát triển, lấy thị trường làm thống soái,
đặt cá nhân quyền thế và giàu sang lên trên hết.
Tải liệu tham khảo
1. TS.Đinh Sơn Hùng - Sách tham khảo ”Những vấn đề cơ bản của các lý thuyết kinh tế”
- Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh - năm 1993.
2. Nguyễn Văn Thanh - Sách tham khảo ”Nhận diện chủ nghĩa tự do mới” - Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội - năm 2005.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
4. Thời báo Kinh tế Việt Nam.
5. Các tin tức trên TuanVietnam – Vietnamweek – Asiaweek.
Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc
quyền
Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a) Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ
chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp, nhưng chiếm hơn 3,4 tổng số máy hơi nước và điện
lực gần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Sự tích
tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thoả
thuận với nhau; mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất
gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thoả hiệp với
nhau để nắm độc quyền.
Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong
tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu
được lợi nhuận độc quyền cao.

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên
kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về
sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc,
mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten,xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom,
cônggơlômêrát.
- Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với
nhau về giá cả, quy mô, sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán, v.v Các nhà tư
bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng
hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cácten là liên
minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào
vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.
- Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp
tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc
mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là
thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
- Tơrớt là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc
sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia tơrớt
trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
- Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình
thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cá
các xanhđica, tơrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ
thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy một côngxoócxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp
liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.
b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình
tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong
ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công
nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình

thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao,
thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của
các xí nghiệp công nghiệp lớn.
Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các ngân hàng lớn hơn, thích hợp với các điều kiện
tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sát nhập
vào các ngân hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc
liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan
hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò
mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm
được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt
động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền
ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để
theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống
chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở
lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền
công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của
ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ
cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với
nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.
V.I.Lênin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của
một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các
nhà công nghiệp”.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền, chi
phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài
chính.
Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất
của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ
phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là
“công ty mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty

khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu”
cũng bằng cách như thế Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo
kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài
chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài “Chế độ tham dự”, bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như: lập công
ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch,
đầu cơ ruộng đất để thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt
khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn
tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa
phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các
nước đang phát triển và chậm phát triển.
c) Xuất khẩu tư bản
V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm
mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu

×