Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sâu răng & các yếu tố nguy cơ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.68 KB, 8 trang )




Sâu răng & các yếu tố
nguy cơ


Bệnh sâu răng là một bệnh của tổ chức cứng, biểu hiện bằng sự hủy khoáng
các thành phần tổ chức và sự phá hủy tổ chức cứng của răng tạo nên lỗ hổng
trên bề mặt răng.
Bệnh thường xuất hiện sớm sau khi mọc răng và tăng dần theo lứa tuổi. Ngày
nay việc vệ sinh răng miệng đã được thực hiện rộng rãi nhưng tỷ lệ bệnh sâu
răng vẫn ngày càng tăng ở các nước phát triển. Ở Việt Nam các nghiên cứu
cho thấy tỷ lệ mắc bệnh sâu răng trong cộng đồng còn khá cao so với các
nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực.
Bệnh sâu răng là một bệnh mạn tính, bệnh tiến triển từ từ qua nhiều giai đoạn.
Giai đoạn sớm có thể chỉ là những đốm trắng hoặc đục xuất hiện trên mặt
nhai hay kẽ giữa hai răng. Thường khó phát hiện do người bệnh không thấy
đau. Chỉ đến khi lỗ sâu lớn ăn vào lớp ngà răng thì mới xuất hiện đau với
cường độ nhẹ, hay cảm giác ê buốt thoáng qua với các kích thích nóng, lạnh
của bệnh lý tủy. Lúc này sâu răng mới được phát hiện và điều trị.

Chế độ ăn nhiều đường dễ khiến răng bị sâu.
Nguyên nhân gây sâu răng
Sâu răng được coi là bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, nguyên nhân chính
bao gồm vi khuẩn: thường xuyên có trong miệng, trong đó Streptococcus
mutans là thủ phạm chính, đồng thời chất bột và đường dính vào răng sau ăn
sẽ lên men và biến thành acide do tác động của vi khuẩn.
Nước bọt cung cấp các yếu tố bảo vệ tự nhiên cho răng. Giảm dòng chảy
nước bọt đến mức tối thiểu sẽ làm tăng nguy cơ sâu răng mặc d
ù quá trình sâu


răng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Vi khuẩn và mảng bám răng: Mảng bám răng là một màng mỏng bám trên bề
mặt răng có chứa nhiều vi khuẩn (trong đó chủng vi khuẩn Streptococcus
mutans chiếm đến 95%). Các acid sinh ra từ các chất có trên mảng bám có vai
trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng.
Trong môi trường miệng răng được bao phủ bởi lớp màng dính glycoprotein
có nguồn gốc từ nước bọt. Sau 2 giờ các cầu khuẩn bắt đầu bám trên màng
dính. Sau 24, có tới 95% các chủng vi khuẩn nuôi cấy được trên mảng bám.
Các vi khuẩn thường xếp song song hoặc theo kiểu hàng rào bắt đầu từ lớp
sâu của mảng bám, bao gồm cầu khuẩn, trực khuẩn, xoắn khuẩn và vi khuẩn
sợi.
Các nghiên cứu thực nghiệm trên động vật cho thấy Streptococcus mutans là
chủng vi khuẩn có khả năng gây sâu răng cao nhất. Các chất đường từ thức ăn
nhanh chóng khuyếch tán vào mảng bám được vi khuẩn chuyển hóa thành
acid (chủ yếu là acid lactic, ngoài ra còn có acid acetic và acid propionic). pH
mảng bám có thể giảm xuống rất thấp sau 10 phút ăn đường, mật độ tập trung
cao của vi khuẩn trên mảng bám có vai trò quan trọng trong hiện tượng giảm
nhanh chóng pH mảng bám.
Sau khoảng 30-60 phút, pH mảng bám quay về pH ban đầu do sự khuyếch tán
của đường và các acid mảng bám ra môi trường miệng và sự khuyếch tán của
các ion đệm từ nước bọt vào mảng bám. Các ion chất đệm này có vai trò hòa
loãng và trung hòa acid trong mảng bám. Nếu pH của mảng bám < 5.5 thì sẽ
gây ra hiện tượng mất khoáng men răng, đây là yếu tố khởi đầu cho sâu răng.
Vai trò của đường
Sự lên men đường có vai trò quan trọng trong việc gây bệnh sâu răng. Các
loại carbohydrate khác nhau có đặc tính gây sâu răng khác nhau. Sucrose
(đường mía) có khả năng gây sâu răng cao hơn các loại đường khác.
Đường trong chế độ ăn được chia làm 2 loại: đường nội sinh (đường trong
hoa quả và rau) và đường ngoại sinh (đường bổ sung, nước quả tổng hợp,
sữa). Đường ngoại sinh có khả năng gây bệnh cao hơn do vậy nên giảm

đường ngoại sinh trong chế độ ăn.
Các nghiên cứu cho thấy sự liên quan trực tiếp giữa chế độ ăn đường và tỷ lệ
bệnh sâu răng phụ thuộc vào cách thức và tần suất ăn đường hơn là tổng
lượng đường tiêu thụ của mỗi cá thể. Nguy cơ sâu răng sẽ cao hơn ở những cá
thể ăn đường giữa các bữa ăn và ở những cá thể hay ăn các loại đường dính
trên bề mặt răng.
Nhóm yếu tố nguy cơ khác
Tình trạng men răng như men răng thiểu sản hay men răng kém khoáng hóa
có thể ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương sâu răng. Do khả năng hòa tan
men tỷ lệ nghịch với nồng độ fluor của men răng vì thế với men răng thiểu
sản hay men kém khoáng hóa thì khả năng tái khoáng kém hơn răng bình
thường.
Hình thể và vị trí răng với những răng có hố rãnh sâu hay răng lệch lạc thì
nguy cơ sâu răng cao hơn do sự tập trung cũng như khả năng lưu giữ mảng
bám.
Sự bất thường của tuyến nước bọt cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc cũng như tốc
độ tiến triển của bệnh sâu răng do khả năng bảo vệ răng khỏi các acid gây sâu
răng.
Tốc độ dòng chảy của nước bọt là yếu tố làm sạch tự nhiên để loại bỏ các
mảnh vụn thức ăn còn sót lại sau ăn và vi khuẩn trên bề mặt răng. Bằng chứng
lâm sàng là chứng khô miệng do tia xạ hoặc do dùng thuốc hay do một số tình
trạng bệnh lý toàn thân thì tỷ lệ sâu răng rất cao và nặng nề.
Nước bọt cung cấp các ion Ca
2
+ , PO4
3-
và fluor để tái khoáng hóa men răng,
các bicarbonate tham gia vào quá trình đệm, đồng thời tạo một lớp màng
mỏng từ nước bọt có vai trò như một hàng rào bảo vệ men răng khỏi pH nguy
cơ. Hàng rào này ngăn cản sự khuyếch tán của các ion acid vào răng và sự di

chuyển của các sản phẩm hòa tan từ apatite ra khỏi mô răng. Nó ức chế sự
khoáng hóa để hình thành cao răng từ các ion calci và phosphate quá bão hòa
trong nước bọt. Ngoài ra, nước bọt còn cung cấp các kháng thể IgM, IgG đề
kháng vi khuẩn.
Nước bọt cung cấp các yếu tố bảo vệ tự nhiên cho răng. Giảm dòng chảy
nước bọt đến mức tối thiểu sẽ làm tăng nguy cơ sâu răng mặc dù quá trình sâu
răng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Hình ảnh giải phẫu răng bị sâu.
Chế độ ăn
Ăn nhiều đường, nhất là ăn vặt thường xuyên giữa các bữa ăn chính làm tăng
nguy cơ sâu răng.
Thói quen ăn uống trước khi đi ngủ, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, việc cho bú bình
kéo dài với sữa và các loại chất ngọt nhất là bú trong khi ngủ làm tăng tỷ lệ
sâu răng gây nên hội chứng bú bình.
Chỉnh nha, sử dụng hàm giả bán phần, trám răng không đúng quy cách làm
tăng khả năng lưu giữ các mảnh thức ăn, mảng bám vi khuẩn do đó làm tăng
nguy cơ gây sâu răng.
Tóm lại, tuy không phải là một bệnh cấp tính nhưng nếu không được điều trị
sớm và kịp thời sâu răng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và công việc. Để
phòng ngừa bệnh sâu răng chúng ta cần có chế độ ăn uống hợp lý cũng như
thói quen vệ sinh răng miệng đúng cách. Kết hợp với khám răng miệng định
kỳ 6 tháng/lần để phát hiện sớm các dấu hiệu sâu răng và có biện pháp điều trị
kịp thời.

×