Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phòng bệnh lỵ ở trẻ em potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.28 KB, 5 trang )



Phòng bệnh lỵ ở trẻ em


(SKDS) - Lỵ là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính gây tổn thương ruột già và
đoạn cuối ruột non. Khác với người lớn, lỵ ở trẻ em có diễn biến cấp tính và
thường rất nặng. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường gặp vào mùa hè và
mùa mưa lũ. Bệnh có nguy cơ lây cao ở những vùng không được dùng nguồn
nước sạch và ở trẻ em do chưa có ý thức về vệ sinh.
Tác nhân gây bệnh
Do vi khuẩn shigella, có 4 chủng (Shigella dysenterias - nhóm A, S.flexneri -
nhóm B, S.boydii - nhóm C, S.sonnei-nhóm D), vi khuẩn dài, hình que ngắn
(nên gọi trực trùng), gram (-), không di động. Dễ nuôi trong môi trường thạch
ở nhiệt độ 37 độ. Trực khuẩn lỵ có thể sống ở đất được vài tháng, ở ruồi
nhặng 2 - 3 ngày, ở đồ chơi, đồ dùng, giường chiếu được vài ngày, ở sữa và
chế phẩm của sữa còn có khả năng phát triển mạnh hơn.

Rửa tay trước khi chế biến thức ăn cho trẻ.
Lỵ dễ bị
chết nếu
phơi ở ánh
nắng mặt
trời, nếu
đun sôi sẽ
chết trong 10 phút. Vi khuẩn lỵ có khả năng sinh sôi và gây bệnh rất mạnh.
Chỉ cần 10 - 100 trực khuẩn là có thể gây bệnh ở người.
Dễ lây lan thành dịch
Có 2 phương thức lây truyền trực tiếp và gián tiếp. Lây trực tiếp là lây từ
người bị bệnh sang người lành hoặc do tay bị nhiễm khuẩn. Những người có
nguy cơ lây cao như không rửa tay sau khi đi ngoài, để móng tay dài, không


rửa tay trước khi ăn . Yếu tố lây nhiễm qua trung gian như đồ dùng chung,
thực phẩm, nước uống (hay tắm ao hồ nhiễm trực khuẩn), ruồi nhặng
Trực khuẩn lỵ từ miệng qua dạ dày, tại đây một số bị diệt bởi dịch vị, số còn
lại qua ruột non đến ruột già bám dính vào niêm mạc, xâm nhập qua niêm
mạc và gây bệnh. Tất cả mọi người đều có tính cảm nhiễm với bệnh. Trẻ em
nhất là trẻ suy dinh dưỡng nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.
Những dấu hiệu của bệnh
Thời kỳ ủ bệnh từ 12 đến 96 giờ. Sau đó khởi phát thường đột ngột với các
triệu chứng sau:
Nếu nhẹ, đau bụng từng cơn, buồn đi ngoài (lúc đầu phân lỏng về sau nhớt
nhầy, mủ) 10 - 15 lần/ngày. Nặng thì có biểu hiện đau quặn bụng từng cơn,
mót rặn dữ dội. Trẻ khóc từng cơn khi đi ngoài, phân lỏng, đi nhiều lần, số
Mỗi năm trên thế giới có khoảng 600.000 bệnh nhân tử vong
do lỵ trực khuẩn. 2/3 số trường hợp mắc và tử vong là ở trẻ
em dưới 10 tuổi. Bệnh ít gặp ở trẻ dưới 6 tháng tuổi. Bệnh hay
gặp ở nơi đông người, vệ sinh kém: trung tâm nuôi dưỡng trẻ,
trại mồ côi, vùng lũ lụt.
lượng ít, phân có nhày, có khi phân toàn máu “như nước rửa thịt” hoặc màu
“máu cá”. Có khi phân nhày như mủ và rất tanh.

Trực khuẩn lỵ Shigella.
Có sốt, nhẹ thì 38 - 39
o
C, nặng thì 40 - 41
o
C, có khi sốt cao gây co giật. Biểu
hiện khác: tăng urê huyết, hạ natri và đường huyết, bất thường ở hệ thần kinh
(co giật, rối loạn tri giác, tư thế bất thường ). Ít phổ biến hơn có thể gặp viêm
khớp phản ứng, đau nhức toàn thân, nước tiểu có albumin. Có thể có sốc, hôn
mê (đặc biệt trong thể lỵ nhiễm độc do S. shigae).

Xét nghiệm có giá trị nhất để phát hiện trực khuẩn lỵ là cấy phân để xác định
căn nguyên gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Soi phân tươi tìm hồng cầu và
bạch cầu trong phân, định týp huyết thanh chỉ có giá trị nghiên cứu, đặc biệt
trong mùa dịch. Xét nghiệm công thức máu có bạch cầu tăng cao. Các xét
nghiệm khác đánh giá mức độ rối loạn nội môi: điện giải đồ, protit, ure,
creatinin, khí máu.
Cần chú ý phân biệt với các bệnh tiêu chảy ở trẻ em như tiêu chảy do virut, do
nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn, lỵ amip, E. coli và lồng ruột
Phòng bệnh bằng cách giữ vệ sinh hằng ngày
Phát hiện sớm và điều trị triệt để là biện pháp quan trọng tránh cho bệnh lây
lan thành dịch hoặc trở thành ổ chứa mầm bệnh. Để phòng lỵ ở trẻ em, việc
giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ cần được chú trọng hàng đầu như: rửa tay
trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh; cắt ngắn móng tay, không phóng uế bừa bãi;
vệ sinh thức ăn, nước uống: ăn chín, uống sôi, bảo quản thức ăn tốt; cắt đường
lây truyền trung gian gây bệnh (diệt ruồi, nhặng); nếu bị bệnh, cần được điều
trị theo đúng phác đồ của bác sĩ và cần được cách ly 10 - 15 ngày.
Nếu bệnh có nguy cơ bùng phát thành dịch, cần báo ngay với cơ quan kiểm
dịch tại địa phương.

×