Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu BỆNH SUYỄN Ở TRẺ EM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.37 KB, 8 trang )

BỆNH SUYỄN Ở TRẺ EM
Bệnh suyễn ở trẻ em còn gọi là bệnh hen phế quản hay là viêm phế
quản thể hen, là một bệnh mạn tính ở đường hô hấp. Bệnh biểu hiện
bằng sự co thắt phế quản và làm tăng tiết chất nhầy niêm mạc phế
quản. Hai hiện tượng này làm cản trở sự lưu thông của không khí, vì
vậy trẻ khó thở. Mức độ khó thở nhiều hay ít còn tùy thuộc vào sự
co thắt phế quản và sự bài tiết dịch nhầy nhiều hay ít và tùy thuộc
vào tính chất của bệnh có bị nhiễm do vi sinh vật (vi khuẩn, vi rút,
vi nấm) hay không? nếu có thì bệnh còn phức tạp hơn nhiều.

Ngoài ra còn có nhiều yếu tố gây khởi phát cơn hen, các đường thở
dễ bị kích thích quá mức với một loạt các yếu tố khởi phát cơn hen
như: bụi nhà, mạt, phấn hoa, khói thuốc lá, các chất gây kích thích.
Nhận biết trẻ bị hen phế quản:
Đối với cơn hen phế quản nhẹ: thường xuất hiện khi gắng sức
(khóc, chạy nhảy quá mức,...) biểu hiện là cơn ho như ho gà, nói
được vài câu dài không bị ngắt quãng. Nghe phổi thấy có tiếng ran
rít vào cuối thì thở ra.
Không cho trẻ chơi với chó
khi trẻ có tiền sử bệnh hen
phế quản.Ảnh: Thanh Hoa
Đối với hen phế quản vừa: cơn ho xuất hiện khi trẻ gắng sức, tiếng
nói ngắt quãng, bắt đầu thấy dấu hiệu co kéo lồng ngực, hõm ức, hố
thượng đòn, nghe thấy tiếng ran rít thì thở ra.
Đối với hen phế quản nặng: khó thở, ho khi nghỉ ngơi, cánh mũi
phập phồng, trẻ nhỏ không thể bú được, hiện tượng co kéo lồng
ngực, mũi ức, hố thượng đòn rất rõ, nhìn môi của trẻ thấy tím tái.
Nói hoặc khóc rất khó khăn (chỉ từng từ một). Nghe phổi có ran rít
to cả hai thì thở ra và hít vào.
Đối với hen phế quản rất nặng (ác tính): trẻ khó thở dữ dội, không
thể khóc hoặc nói và lúc này nghe phổi không còn thấy ran. Cơn hen


xảy ra liên tiếp trong nhiều ngày nếu không có biện pháp can thiệp
kịp thời.
Trong hen phế quản nếu có kèm theo sốt thì rất có khả năng trẻ bị
viêm đường hô hấp (có thể hô hấp trên hoặc hô hấp dưới) do vi sinh
vật (vi khuẩn, vi nấm hoặc vi rút). Khi nghi ngờ trẻ bị hen phế quản
cần thiết phải cho trẻ đi khám bệnh, đặc biệt là khám bác sĩ chuyên
khoa nhi, tuyệt đối không nên chữa bệnh theo mách bảo của bạn bè,
người thân không có chuyên môn về y tế. Không nên tự mua thuốc
để điều trị cho trẻ vì không những không khỏi mà nhiều khi còn gây
nguy hiểm cho tính mạng.
Khi trẻ lên cơn hen nặng, hen cấp tính (khó thở gấp, dữ dội, môi tím
tái, không bú được, không khóc được, nói ngắt quãng hoặc không
nói được) cần khẩn trương đưa cháu đến cơ sở y tế gần nhất để cấp
cứu để tránh xảy ra điều đáng tiếc.
Lưu ý:
Đối với trẻ có tiền sử hen phế quản thì bố mẹ và người lớn không
nên hút thuốc trong nhà, không nên nuôi chó mèo trong nhà. Cần đề
phòng có mạt gà chui trong chăn, gối đệm bằng cách phơi nắng
chăn gối, đệm mỗi khi có điều kiện...
Trẻ đã từng bị hen phế quản đã được bác sĩ tư vấn và điều trị cần
điều trị phòng hen theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
Bác sĩ Vũ Thị Thu
Khoẻ 24 - Chất Lượng Cuộc Sống
www.khoe24.vn
Nguồn: SKDS
NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hàng năm trên thế giới có khoảng 12,9
triệu trẻ em tử vong, trong đó có 4,3 triệu trẻ tử vong vì nhiễm
khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) mà 95% là ở các nước đang phát
triển. Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi là nhóm trẻ dễ bị NKHHCT nhất. Ngoài

thể phổ biến hay gặp nhất là viêm mũi họng cấp tính, trẻ nhỏ thường
bị các thể nặng như: viêm nắp thanh quản, viêm thanh quản, viêm
tiểu phế quản và viêm phế quản - phổi.

Viêm mũi họng cấp tính
Đây là thể bệnh thường gặp nhất, chiếm khoảng 50-70% số trẻ bị
bệnh. Vì trẻ nhỏ chỉ thở bằng mũi (trong khi trẻ lớn và người lớn
thở cả qua mũi và miệng) nên chỉ cần nghẹt mũi đã gây triệu chứng
khó thở nặng. Biểu hiện chủ yếu của thể bệnh này là sốt nhẹ hoặc
không, kèm theo viêm long hô hấp (ho, chảy nước mũi), quấy khóc,
khó bú, khó ngủ và thường thở há miệng do tắc đường thở chính là
mũi. Trẻ có thể thở nhanh hơn bình thường, đôi khi co rút lồng
ngực, đầu gật gù theo nhịp thở nhưng ít khi bị tím tái. Khám thường
thấy các khoang mũi hẹp hoặc tắc hẳn do viêm phù nề, niêm mạc
mũi đỏ rực, nhiều dịch xuất tiết trong hoặc đục như mủ, đôi khi
quánh dính hoặc khô cứng thành cục dày bịt kín 1 hoặc cả 2 bên lỗ
mũi. Thành trước, thành sau họng và 2 tuyến hạnh nhân khẩu cái
(amidan) cũng thường bị viêm phù nề đỏ rực, nhưng ít khi có mủ
hoặc giả mạc như viêm họng ở trẻ lớn và người lớn.
Khám hô hấp cho trẻ.
Nguyên nhân chủ yếu gây viêm mũi họng cấp ở trẻ nhỏ là các vi
khuẩn, virus đường hô hấp; hàng đầu là vi khuẩn hợp bào đường hô
hấp (>80%), rồi đến rhinovirus, adenovirus và các virus cúm A và
B. Chính vì vậy, biện pháp điều trị chủ yếu là hỗ trợ, làm thông mũi
họng bằng vệ sinh, rửa sạch đường hô hấp trên bằng cách nhỏ các
dung dịch sát khuẩn như nước muối sinh lý (dạng giọt hay dạng xịt
khác nhau, các thuốc sát khuẩn ít kích thích như argyron 1-2%, ngày
3-4 lần; hút sạch dịch mũi. Có thể dùng thuốc chống phù nề niêm
mạc đường mũi họng loại gây co mạch nhẹ (nồng độ thấp) như
otilin hay otrivin nồng độ 0,05% dành cho trẻ em. Thời gian dùng

thuốc co mạch thường không quá 3-5 ngày. Chú ý không dùng kéo
dài, không dùng loại thuốc co mạch có nồng độ cao của người lớn
để nhỏ mũi cho trẻ em vì có thể gây tai biến nặng như co giật, hoại
tử niêm mạc mũi.
Viêm nắp thanh quản cấp
Đây là thể bệnh ít gặp hơn so với viêm mũi họng cấp tính nhưng rất
nguy hiểm, vì có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không phát hiện
sớm và chữa trị cẩn thận.
Bệnh chủ yếu do một loại vi khuẩn có tên là haemophylus
influenzae gây nên viêm cấp tính phù nề nắp thanh quản, làm lấp
kín lối vào của luồng khí thông thường vào phổi qua thanh quản,
gây ngạt từ vừa đến nặng tùy theo mức độ phù nề của nắp thanh
quản. Trẻ thường không ho nhưng sốt rất cao, vật vã kích thích, bỏ
bú và chảy nhiều đàm nhớt do đau họng không nuốt được. Trẻ
thường không chịu nằm vì khi nằm, nắp thanh thiệt đóng kín đường
thở, nên trẻ thường chỉ ngồi (kể cả khi ngủ) để dễ thở. Hạch dưới
hàm thường sưng to và đau cả 2 bên. Trẻ chống đối khi dùng đè
lưỡi khám họng. Nếu cố tình đè vào vùng sau lưỡi có thể gây ngừng
thở đột ngột do đau và do phản xạ cường phó giao cảm ở những
bệnh nhi này. Bệnh nhi cần được các thầy thuốc có kinh nghiệm
khám và điều trị tại bệnh viện. Thường trẻ phải thở máy và được
tiêm kháng sinh đường tĩnh mạch liều cao từ 5-7 ngày.
Viêm thanh quản cấp
Bệnh gặp khá phổ biến ở trẻ từ 6 tháng đến 5 tuổi, do virus đường
hô hấp gây viêm phù nề cấp tính vùng thanh quản (2 dây thanh đới
và vùng lân cận) làm chít hẹp hoặc tắc hẳn đường ra – vào phổi của
luồng không khí. Bệnh thường xảy ra rất đột ngột về đêm, sau vài
giờ viêm long đường hô hấp trên. Khởi đầu trẻ ho nhiều và tiếng ho
“ông ổng”, khóc khàn. Sau một vài giờ hay ngắn hơn, trẻ đột nhiên
mất tiếng, mất ho, xuất hiện khó thở thanh quản cấp tính (khó thở

chậm, khó thở vào, thở ngửa đầu ra sau, co kéo các cơ hô hấp phụ).
Bệnh cảnh rất nguy kịch và trẻ có thể ngừng thở nhanh chóng sau
một thời gian gắng sức dữ dội để thở nhưng thất bại. Cần đưa ngay
trẻ có ho “ông ổng” và thở co kéo nặng đến bệnh viện để kịp thời
cứu chữa. Chậm trễ trong chốc lát có thể trẻ tử vong ngay trước mắt
người nhà và thầy thuốc. Việc điều trị khi trẻ đến viện sớm có thể
rất đơn giản bằng khí dung các thuốc co mạch mạnh như adrenalin
và các chế phẩm corticoid tiêm tĩnh mạch và khí dung. Khi trẻ đến
muộn, hiện tượng tắt thở đã nặng, việc điều trị trở nên phức tạp, chủ
yếu là mở khí quản cấp cứu, vì thanh quản phù nề nặng, không thể
đưa ống nội khí quản qua để cho trẻ thở máy được nữa.
Các nhiễm khuẩn cấp tính tại phổi
Viêm tiểu phế quản

×