Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tài liệu ôn thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.4 KB, 39 trang )

Câu 1:Vì sao CN Mac-Lenin khẳng định: chỉ có CNXH mới giải quyết được vấn đề dân
tộc?Trình bày tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc?Vì sao HCM khẳng định CN dân tộc là
động lực lớn ở những nước đang đấu tranh giành chính quyền?
 Dân tộc là một vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ,
pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.Theo quan điểm của
Mac-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử.Trước dân tộc là
những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc,bộ lạc và tiếp đó là sự ra đời và phát
triển của các Nhà nước dân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đọan tự
do cạnh tranh sang giai đọan Đế quốc chủ nghĩa, các nước Đế quốc thực hiện chính sách xâm
lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt từ đó xuất hiện vấn
đề dân tộc thuộc địa. Sau CMT10 Nga, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, hệ thống
thuộc địa của Chủ nghĩa đế quốc tan rã,nhiều Nhà nước thuộc địa trở thành các Quốc gia độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I Lênin cũng đã đề cập 2 xu hướng phát
triển:
+ Xu hướng 1: là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc
sẽ dẫn tới việc thành lập các Quốc gia độc lập
+ Xu hướng 2: việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc dẫn tới việc phá
hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất Quốc tế của Chủ nghĩa tư bản, của đời
sống kinh tế, chính trị khoa học, v v
Xu hướng 1 chiếm ưu thế trong thời kì Tư bản chủ nghĩa mới phát triển, còn xu thế thứ 2 là đặc
trưng của Chủ nghiã tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội XHCN, cả hai đều phát triển trong
điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt. Tuy nhiên CNTB và Chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể
giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
Cách mạng vô sản và CNXH, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp bức dân tộc mới tạo
điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc ngày
càng xích lại gần nhau.
 Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc trong thời đại Cách mạng vô sản được thể hiện trong
mấy luận điểm cơ bản sau:
a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
1
Lịch sử VN là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước


luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam.Đối với một người dân
mất nứơc, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. HCM đã từng nói:
“Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do,Tổ quốc tôi được độc lập…” Trong quá
trình tiếp cận chân lý, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên Ngôn Độc Lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1791 của Pháp. Từ đó Người đã khái quát lên chân lý bất di bất
dịch về quyền cơ bản của dân tộc: Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra được quyền bìng đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
b) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH,Chủ nghĩa yêu nước và
Chủ nghĩa Quốc tế .
Các cuộc vận động yêu nước, chống Pháp cuối thế kỉ 19, đầu 20 đều được dẫn dắt bởi ý
thức hệ phong kiến hoặc tư sản.Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vẫn chủ yếu dừng lại ở Chủ nghĩa
yêu nước truyền thống. Đến Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được tiến hành
dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mac-Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng CNXH, mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp được đặt ra. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa
thực tiễn to lớn trong thời đại Cách mạng vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mac và
Angghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc, Theo Mac và Anghen, trong thời đại hiện
nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của mình mới có thể thực hiện
được điều này. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãng đạo mới thực hiện
sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Bước sang thời đại Lênin, Chủ nghĩa đế quốc trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng
và giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Lênin mới có cơ sở thực
tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận được coi là học thuyết về
cách mạng thuộc địa.Theo Lênin,cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không giành
được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc
địa.Từ đó, Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mac thành: “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức
đòan kết lại”. Tuy nhiên xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của Cách mạng vô sản ở Châu Âu, các
ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích
không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho tòan thể giai cấp vô sản”
2

Nguyễn Ái Quốc_Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đang đi tìm đường cứu nước đến
với Chủ nghĩa Mac-Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường
Cách mạng vô sản tức là tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mac-
Lênin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng theo
con đường Cách mạng vô sản. Nhưng tiếp thu lý luận Mac-Lênin lại phải biết vận dụng sáng tạo
lý luận ấy vào việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù
hợp với đặc điểm lịch sử xã hội. Vấn đề đặt ra phía trước cho các nước thuộc địa phương Đông
không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản mà trước hết là đấu tranh giành lại độc lập
cho dân tộc, có độc lập cho dân tộc,mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng XHCN. Hơn nữa
sự nghiệp đấu tranh không cho phép ỷ lại ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở Châu Âu để
được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa.
Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra luận điểm:các dân tộc thuộc địa phải dựa vào
sức của chính mình đồng thời biết tranh thủ sự đòan kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động thế giới để giành lại độc lập cho dân tộc rồi từ thắng lợi của cách mạng tiến lên làm
cách mạng XHCN và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp Cách mạng vô sản thế giới.
 Qua đó có thề khẳng định: ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện
được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, Chủ nghĩa yêu nước với Chủ nghĩa Quốc tế, độc
lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “Chủ nghĩa dân tộc là một động
lực lớn của đất nước”. Khái niệm Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây, như Mac
nói: “không phải theo cái nghĩa theo tư sản hiểu” Chủ nghĩa dân tộc bản xứ mà Nguyễn Ái Quốc
nói ở đây chính là Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã
được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc
đấu tranh chống ngọai xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, nó khác về bản chất so với Chủ nghĩa dân tộc
vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử phê phán. Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế
còn lạc hậu chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để,cuộc đấu tranh
giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây.Trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ gửi Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây” bởi vì xã hội ở Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu
trúc kinh tế,không giống các xã hội phương Tây thờiTrung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh

giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…” “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng
3
không có vốn liếng gì lớn,nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không
hề biết công cụ bóc lột của họ là máy móc,…Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm
thiểu.Điều đó không thể chối cãi được”. Mặc dù vậy, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn: đều là nô
lệ mất nước.Chính vì thế mà có cuộc nội dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du và có
việc Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917 v.v
Từ sự phân tích đó Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Cũng vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc kiến
nghị về cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản.Qua đó có thể thấy xuất phát từ vị trí của
người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá
cao sức mạnh của Chủ nghĩa dân tộc với nghĩa là Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để
ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp Chủ nghĩa dân tộc với Chủ nghĩa quốc tế.
Câu 2: Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải theo
con đường cách mạng vô sản và phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo ?
Về mặt lý luận Lênin cho rằng: khi Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn Chủ nghĩa đế
quốc tiến hành xâm chiếm thuộc địa thì vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề
dân tộc thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trở thành một
bộ phận của Cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
Tình hình nước ta vào cuối thế kỉ XIX , đầu thế kỉ XX các phong trào yêu nước đều thất bại
là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành hệ
thống Thế Giới. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành nhau trong việc xâu xé thuộc địa vừa liên kết
nhau trong việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trong cuộc
đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung
một kẻ thù vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa
đế quốc, tình cảnh của các nước thuộc địa, các cuộc cách mạng lớn. Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc

đã tiếp cận được với chủ nghĩa Mac-Lênin và rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường Cách mạng vô sản”. Đặt cách mạng giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản là một sự lựa chọn đúng đắn và sáng suốt của Hồ Chí
4
Minh. Từ đầu những năm 20 của thế kỉ của thế kỉ XX Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ Chủ nghĩa đế
quốc là con đỉa 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ
nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả 2 cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như “
Một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
Mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô
sản. Quan trọng hơn người còn cho rằng “ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định muốn giải phóng dân tộc thành công “ Trước hết phải
có Đảng cách mệnh … Đảng có vững cách mệnh mới thành công … Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt … Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng
định : Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai
cấp công nhân. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin ,được
vũ trang bằng chủ nghĩa mac Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò
của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói “ Ngày nay muốn độc lập tự do phải có đoàn
thể, nhưng ông chỉ nói mà chưa kịp làm. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang
Phục hội, sau dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn nhưng
ông cũng chưa kịp thực hiện đã bị bắt và giam lỏng tại Huế .
Dù thành lập hay chưa thì các Đảng kiểu đó không thể lãnh đạo Cách mạng giải phóng dân
tộc đi đến thành công vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt
chẽ lại không có cơ sở rộng rãi trong chúng nên sớm muộn gì cũng rơi vào tan rã.
Câu 3: Dựa trên cơ sở nào HCM cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc phải là sự nghiệp

đúc kết của tòan dân, trên cơ sở liên minh công nông và phải thực hiện bằng con đường bạo
lực cách mạng?
 Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “ là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc một, hai ngừơi, vì vậy phải đòan kết tòan dân sĩ,công,nông, thương
5
đều nhất chí chống lại cường quyền” Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không
được quên cái cốt của nó là công nông. Phải nhớ “ Công nông là người chủ cách mệnh Công
nông là gốc cách mệnh”
Trong phạm vi của cách mảng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đáng đổ trước hết là bọn đế
quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai dành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước
hết là nông dân nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân
dân Việt Nam đang mất nước,đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
nhằm huy động sức mạnh của tòan dân tộc, đấu tranh dành độc lập tự do
Ngay từ đầu năm 1924, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, NAQ đã đề cập khả
năng một cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Đông Dương. Để có cơ hội thắng lợi, theo Người, cuộc khởi
nghĩa vũ trang đó:
+ phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi lọan…phải
được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng Châu Âu
+ phải được nước Nga ủng hộ
+ phải trùng hợp với Cách mạng vô sản Pháp
+ phải gắn mật thiết với sự nghiệp vô sản thế giới
Tháng 5/1941 Hội nghị lần VIII Ban chấp hành TW khóa I do Người chủ trì đã đưa ra nhận định:
Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương…mà mở đường cho một cuộc khởi nghĩa
to lớn.
Câu 4: Dựa trên cơ sở nào Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến
hành chủ động ,sáng tạo và có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc?
← Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động ,sáng tạo:
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc , chủ nghĩa thực dân ,cách mạng thuộc địa
có tầm quan trọng đặc biệt . Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn .Theo

Hồ Chí Minh , phải làm cho các dân tộc thuộc địa hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại tạo một khối
liên minh thuộc địa , là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
6
Vận dụng công thức của C.Mác :”Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân” , Người đi đến luận điểm: “ Công cuộc giải phóng anh em chỉ
có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em “.
Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ
trương phát huy nỗ lực của dân tộc , tránh tư tưởng trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Người nói:”Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh .Trông
vào sức mình…Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng , nhưng không được ỷ lại ,
không được ngồi mong chờ người khác .Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân
tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
← Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc:
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau , tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Nhận thức đúng vai trò , vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc ,
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc .
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn ; một cống hiến rất
quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi
của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 5 : Vì sao trong điều kiện hiện nay để xây dựng và bảo vệ thành công CNXH thì
phải khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc , phải nhận thức và giải
quyết các vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp công nhân .
Trước hết , theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội (CNXH)
bao gồm:

7
Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của
nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
CNXH.
Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè
bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật
chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi.
Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Từ đó , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng : Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân ,
do Đảng lãnh đạo , phải đem tài sức của dân làm lợi cho dân , nghĩa là phải biết phát huy mọi
nguồn lực trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho dân . Trong đó , nguồn lực con
người là quan trọng nhất .
Và biện pháp để phát huy nhân tố con người là : khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc , phải nhận thức và giải quyết các vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp
công nhân .
1) Khơi dậy mạnh mẽ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc .
Chủ nghĩa yêu nước vốn là một tình cảm rất thiêng liêng, nó ăn sâu bám rễ trong lòng dân
tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam tạo thành
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Từ thời xa xưa cho đến hiện đại ,con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước , gắn
kết cộng đồng , có ý chí kiên cường bất khuất , không chịu làm nô lệ , không cam phận hèn …
Trong đấu tranh giải phóng dân tộc , nước ta đã từng đánh bại những thế lực xâm lược vô cùng
hùng mạnh và trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ , tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ , biến thành chủ nghĩa anh hùng cách

8
mạng vô song , đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ và Đại thắng Mùa Xuân 1975, giải
phóng miền nam , thống nhất Tổ quốc , đưa nước ta đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh : “ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước . Đó là truyền
thống quý báu của ta , chúng ta phải ra sức phát triển tinh thần yêu nước ấy , làm cho nó được
thực hành vào công việc kháng chiến.”
Trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay , truyền thống quý báu ấy
cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ , biến nó thành nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi
khó khăn thử thách. Hồ Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây dựng lại
đất nước. Người nhận định, nhân dân lao động là những người yêu nước chân chính, những
người biểu hiện lợi ích dân tộc thật sự. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải chuyển chủ nghĩa
yêu nước từ thời chiến sang chủ nghĩa yêu nước thời bình.
Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
dân giàu, nước mạnh, đạt nhiều thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, về lối sống xã
hội chủ nghĩa, những giá trị đạo đức và những ý tưởng mới. Nó phát sinh hằng ngày, hằng giờ
trong mỗi con người chân chính, trong phong trào thi đua của những người lao động tiên tiến,
trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội, cho sự tổ chức công việc một cách khoa
học. Nó biểu hiện sự không khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót.
Môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá thay đổi theo lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu
nước ở mỗi thời đại khác nhau cũng có nội dung khác nhau, nó được quy định bởi những điều
kiện kinh tế - xã hội. Một dân tộc tràn đầy chủ nghĩa yêu nước là một dân tộc mạnh. Một dân tộc
thiếu chủ nghĩa yêu nước là một dân tộc yếu.
ω Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên yêu nước, nhưng công lao chính
của Người là đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm cao mới khi những vấn đề mới của
thời đại tác động vào dân tộc Việt Nam và những vấn đề mà dân tộc Việt Nam đòi hỏi.
2) Nhận thức và giải quyết các vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp công nhân .
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc , đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
nhưng Người cũng luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc :

9
+ Luôn luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân , vai trò độc quyền lãnh đạo của
Đảng , của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đi tới
chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng giai cấp liên minh
công – nông và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng .
+ Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền cần thiết phải biết sử dụng bạo lực cách mạng của
quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù
+ Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội .
Đó là những quan điểm có tính nguyên tắc , bất biến mà chúng ta cần vận dụng quán triệt trong
bất kỳ tình huống nào
Trong phong trào cách mạng thế giới , có lúc đã từng diễn ra khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một
chiều quan điểm giai cấp , coi nhẹ vấn đề dân tộc . Gần đây lại chuyển sang cực đoan ngược lại ,
từ bỏ đấu tranh cách mạng , từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản . Nhưng dù tình hình thế giới có biến
động tới đâu ,thì vẫn tồn tại nét cơ bản của thời đại : “ Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
vẫn diễn ra với nhiều hình thức ”
Khi xã hội còn đấu tranh giai cấp mà bỏ rơi quan điểm giai cấp , chỉ nhấn mạnh bảo vệ sự
sống , bảo vệ lợi ích toàn nhân loại , kết quả tai hại là đã làm suy yếu phong trào cách mạng thế
giới, dẫn đến sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa đã từng tồn tại hàng ngàn thế kỷ . Khuynh
hướng chỉ nhấn mạnh lợi ích dân tộc , từ bỏ chủ nghĩa quốc tế chân chính đã dẫn đến sự phát
triển của chủ nghĩa dân tộc sôvanh , để cho kẻ thù lợi dụng , kích động , làm cho tình hình một số
khu vực trên thế giới mất ổn định kéo dài ,các cuộc chiến tranh sắc tộc tôn giáo , tranh chấp lãnh
thổ … diễn ra liên miên , gây đau thương tan tóc cho nhân dân, làm giàu túi tiền cho bọn tài phiệt
, lái súng .
Những quan điểm trên ở nước ta cũng được bộc lộ ở nhiều hình thức song tư tưởng Hồ
Chí Minh đã khắc phục quan điểm sơ cứng, giáo điều trong việc nhìn nhận vấn đề giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , thoát ly bối cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc .
Phải thấy chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu “ dân giàu nước mạnh , xã hội
công bằng , dân chủ , văn minh ”, nhân dân ấm no , hạnh phúc …mục tiêu đó không phải chỉ là
vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc . Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng cộng sản và giai

10
cấp công nhân mới là lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc , mới xây dựng được
mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được những mục tiêu trên .
Vì vậy cần làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp , chủ nghĩa
quốc tế và chủ nghĩa yêu nước , độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được quán triệt sâu sắc trong
toàn Đảng , toàn dân , lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân
tộc , thời đại hiện nay .
Câu 6: Vì sao trong điều kiện hiện nay, phải chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam?
1)Chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc trong điều kiện hiện nay
- Khẩu hiệu “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã trở
thành một phương châm của cả Đảng, Nhà nước, nhân dân ta qua biết bao thế hệ. Đòan kết tạo
thành sức mạnh vô biên.Trong cuộc chiến lâu dài không kém phần oanh liệt chống lại những thứ
hư hỏng,lạc hậu để xây dựng xã hội mới tốt đẹp càng cần tới sự đồng tâm hiệp lực của khối đại
đòan kết tòan dân.Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng,thời kì nào dân tộc không
đòan kết thì thời kì đó không phát triển lên được thậm chí còn mất nước bởi các thế lực ngoại
bang xâm chiếm. Trong tác phẩm Nên học sử ta, viết vào đầu năm 1942, Bác đã viết: “Sử ta dạy
cho ta bài học này: lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự
do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết
đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi ”. Bài học lớn của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 70 năm qua là Khi nào Đảng nắm
vững và giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất thì phát huy được sức mạnh của dân tộc, khó khăn mấy cũng vượt qua và cách mạng đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngược lại, khi nào buông lỏng ngọn cờ dân tộc, coi nhẹ vấn đề đại đoàn kết dân tộc, thậm chí sai
lầm về chính sách dân tộc thì cách mạng gặp khó khăn.
Điều kỳ diệu của cách mạng Việt Nam là ở chỗ: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất đã thấm nhuần một
cách tự nhiên và sâu sắc trong tư tưởng, tình cảm, biến thành hành động tự giác của hàng triệu,
hàng triệu con người Việt Nam và trở thành một yếu tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt

Nam.
11
- Xây dựng khối đại đòan kết dân tộc để tòan thể các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam cùng
thực hiện thắng lợi sự nghiệp trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa
- Xây dựng khối đại đòan kết dân tộc để khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân
tộc Xây dựng khối đại đòan kết dân tộc để lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước lên hàng đầu từ đó xây
dựng được chủ trương, chính sách kinh tế xã hội trong khi đó nền kinh tế thị trường và sự phân
hóa giàu nghèo đang ảnh hưởng sâu sắc đến sự đòan kết ấy. Chính sức mạnh đại đòan kết dân tộc
giúp nhân dân ta vượt qua kẻ thù gây cản trở con đường hội nhập kinh tế thế giới của chúng ta đó
là sự nghèo nàn lạc hậu.
- Âm mưu và hành động chống phá kẻ thù của những thế lực phản cách mạng đối với khối đại
đòan kết dân tộc ngày càng tinh vi quyết liệt vì vậy khối đại đoàn kết phải thật sự vững mạnh.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao nội lực, tạo nên sức đề kháng trước
mọi âm mưu thủ đọan của kẻ thù. Xây dựng khối đại đòan kết dân tộc phải dựa trên nền tảng khối
liên minh công -nông- trí dưới sự lãnh đạo của Đảng.Thực hiện đại đòan kết phải rộng rãi lâu dài.
- Các hình thức, biện pháp xã hội hóa các hoạt động và chính sách xã hội như: xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, cứu giúp đồng bào những vùng bị bão lụt, thiên tai
v.v đã góp phần củng cố niềm tin của đại bộ phận nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
- Khối đại đòan kết dân tộc giúp dân tộc Việt Nam có đầy đủ thế và lực trên trường thế giới, giúp
dân tộc ta ngày càng thắt chặt tình cảm vượt qua những cơn nguy khó và sức mạnh đã được mở
rộng, đã huy động được sức người của đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngòai đóng góp
vào thành tựu và công cuộc đổi mới. Tiếp tục đường lối đổi mới, nhờ đoàn kết một lòng, kiên
cường phấn đấu, nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tiếp tục giành được những
thành tựu quan trọng: kinh tế tiếp tục phát triển nhanh; văn hóa-xã hội có những tiến bộ mới; đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh quốc gia
được giữ vững; quan hệ đối ngoại được mở rộng thêm; việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
đạt kết quả tốt.Những thành tựu nêu trên là điều kiện hết sức quan trọng để tăng cường và tiếp tục
mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân và tạo điều kiện thuận lợi để chủ trương đại đoàn kết

dân tộc của Đảng tiếp tục đi vào cuộc sống và đã thu được những kết quả tốt đẹp. Đó là: sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân tăng lên, trở thành một nhân tố căn bản đảm bảo sự ổn
định chính trị-xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển và tiếp tục nâng cao đời sống của đại bộ
12
phận nhân dân; liên minh công-nông-trí được mở rộng và mang nội dung mới là chủ động, tích
cực hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển. Sự hợp tác giữa lao động trí óc và lao động chân
tay chặt chẽ để cùng sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều với chất lượng cao hơn cho xã
hội. Lợi ích căn bản và thiết thân của mỗi thành viên và của cộng đồng xã hội - động lực mạnh
mẽ nhất thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, được đáp ứng tốt hơn nữa.
 Đại đòan kết là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước “ Vấn đề dân
tộc và đòan kết dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”1
2) Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
¬ Nước ta là một nước đa dân tộc, nhờ sức mạnh của các dân tộc anh em mà nước ta mới có
thể giành được độc lập, do đó cần phải đền ơn đáp nghĩa cho đồng bào miền núi mau chóng
đuồi kịp miền xuôi. Đa phần đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội của đồng bào miền núi vẫn còn
trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu: thiếu đất canh tác, mù chữ, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan…
So với đồng bằng và vùng đã phát triển tương đối thì miền núi và vùng dân tộc thiểu số còn là
vùng khó khăn nhất, hãy còn nhiều kẽ hở để bọn phản động dễ lợi dụng, khoảng cách còn khá
xa, tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; đã xuất hiện những hiện tượng
chệch hướng, nếu trong thời gian tới không có những giải pháp hữu hiệu có thể khoảng cách đó
còn xa hơn nữa sẽ không có lợi cho sự ổn định phát triển bền vững của đất nước. Chính sách
của Đảng và Nhà nước hiện nay là: xóa được đói, giảm được nghèo xuống, ổn định và cải thiện
đời sống một cách rõ rệt, nhiều dịch bệnh như sốt rét, bướu cổ đã giảm xuống mức đáng kể,
sức khỏe được chăm sóc tốt hơn, phổ cập giáo dục tiểu học, xóa được mù chữ, nâng cao dân
trí; bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được giữ gìn và phát huy tốt hơn; xây dựng được cơ
sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc, ở các vùng, các cấp trong sạch và
vững mạnh; quốc phòng và an ninh được đảm bảo về khoảng cách giữa các vùng và các dân
tộc được thu hẹp.
¬ Để lọai trừ những nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân
tộc có thể bị kẻ thù lợi dụng chống lại chính quyền,chống lại cách mạng.Thủ đọan lợi dụng các

vấn đề dân tộc đề chống phá cách mạng Việt Nam của những thế lực thù địch rất thâm độc,tinh
vi, xảo trá dễ làm người ta tin và làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”,
“dân chủ”, “tự do” và đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, những vấn đề lịch sử để
1 Đảng cộng sãn Việt Nam: Văn kiện Đại Hội đại biểu tòan quốc lần IX.Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội 2001 tr127
13
lại, những đặc điểm văn hóa,những vấn đề tâm lý của những đồng bào dân tộc, những khó
khăn trong đời sống đồng bào các dân tộc, những thiếu sót trong thực hiện chính sách kinh tế-
xã hội,chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước để chống phá cách mạng Việt Nam.
¬ Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá của tất cả các dân tộc anh em, ngày nay cần giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Văn hóa dân tộc có được bảo tồn và phát
huy thì dân tộc mới phát triển. Giữ gìn và làm giầu tiếng nói của mỗi dân tộc là cốt lõi của văn
hóa, phát triển văn học nghệ thuật của các dân tộc . đóng góp vào nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
¬ Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc, củng cố tăng cường đoàn kết các dân
tộc xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, thi đua giúp đỡ nhau cùng phát triển, chống tư tưởng
ỷ lại, nơi nào, bộ phận nào, dân tộc nào trong cộng đồng mà ỷ lại thì sẽ tụt hậu vì không thể sử
dụng có hiệu quả sự đầu tưu hỗ trợ của Nhà nước và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em.
¬ Phải phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong việc thực hiện các chương trình phát
triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để nhân dân biết, giám sát chặt chẽ việc thực hiện
các chủ trương chính sách đó thì chắc chắn sẽ phát huy được hiệu quả đầu tư của các chương
trình dự án.
Nếu giải quyết tốt các vấn đề dân tộc thì sự đòan kết sẽ không bị phá vỡ và làm khơi dậy được
tìm năng cách mạng của tòan dân tộc, đồng bào sẽ đòan kết, tin tường vào Đảng vào Nhà nước,
thực hiện tốt nghĩa vụ công dân đưa đến thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
 Văn kiện Đại Hội X chỉ rõ quan điểm,chính sách dân tộc của Đảng,Nhà nước ta hiện nay là:
“Vấn đề dân tộc và đòan kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước
ta.Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng đòan kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí,giữ gìnvà phát huy bản sắc văn

hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.Thực hiện tốt chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội tốt công tác định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới.Quy hoạch,
phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh,quốc phòng, củng cố và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính
sách ưu tiên trong đào tạo,bồi dưỡng cán bộ, trí thức người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở
14
vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi,hiểu phong tục,tập quán,tiếng nói của đồng bào
dân tộc,làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kì thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc” 2
Câu 7: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh : đạo đức là gốc của người cách mạng và
phân tích những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
← Đạo đức là gốc của người cách mạng .
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống , Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là
nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người .Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân , phải có đạo đức mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang .Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người ,mỗi thế hệ ,hơn nữa còn của nhiều
thế hệ nối tiếp nhau.
Đạo đức là gốc , là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền , nếu cán bộ , đảng viên của
Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì có thể làm tha hóa con người . Vì vậy , Hồ Chí
Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh “ . Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin :
Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ , danh dự , lương tâm của dân tộc mình và của thời đại.
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao thượng của con
người . Theo quan điểm của Hồ Chí Minh , mỗi người có công việc , tài năng, vị trí khác nhau
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng .
Đạo đức không chỉ phụ thuộc vào xã hội , những điều kiện vật chất kinh tế , nó có khả
năng tác động tích cực trở lại , cải biến xã hội . Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp
nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì khi khó khăn , thất bại cũng không lùi bước , chán nản ; khi
gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn . Chính vì vậy , cùng với việc giáo
dục nâng cao trình độ hiểu biết của cán bộ , đảng viên và các tầng lớp nhân dân , Hồ Chí Minh đã
thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người .

Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức ,
coi nhẹ mặt tài . Đức là gốc , nhưng đức và tài , hồng và chuyên phải kết hợp , phẩm chất và năng
lực phải đi đôi , không thể có mặt này , thiếu mặt kia . Có đức phải có tài , nếu không sẽ không
2 Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại Hội đại biểu tòan quốc lần X, Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội 2006,tr121
15
mang lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân . Mặt khác , phải thấy trong đức có tài .Tài càng lớn thì
đức phải càng cao , vì đức – tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi.
←Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới :
a)
Trung với nước , hiếu với dân:
Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước , hiểu với dân là phẩm chất quan trọng nhất ,
bao trùm nhất . Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu .
Từ chỗ trung với vua , hiếu với cha mẹ đến trung với nước , hiếu với dân là một cuộc
cách mạng trong quan niệm về đạo đức , Hồ Chí Minh không những thừa kế giá trị của chủ nghĩa
yêu nước truyền thống của dân tộc , mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó , điều
này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước .
Theo quan điểm Hồ Chí Minh , nước là nước của dân và dân là người chủ của nước . Vì
vậy , “ trung với nước , hiếu với dân” là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước , với con đường đi lên và phát triển của đất nước .
Đối với cán bộ Đảng viên phải:

Tuyệt đối trung thành với Đảng , với nhân dân , biết đặt lợi ích của Đảng ,
của Tố Quốc , của cách mạng lên trên hết , trước hết.



Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
Thực hiện tốt mọi chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước .
Phải biết thương dân , phục vụ hết lòng , phải gần dân , gắn bó với dân,
kính trọng và học tập dân , lấy dân làm gốc .


Phải nắm vững dân tình , hiểu rõ dân tâm , cải thiện dân sinh , nâng cao
dân trí .
Có được cái đức ấy thì người cách mạng , người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu , quý mến ,
kính trọng , nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng .
b)
Cần kiệm , liêm, chính , chí công vô tư:
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người , là yêu cầu về
đạo đức và yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
16
Theo Hồ Chí Minh thì :
Cần là lao động cần cù , siêng năng ; có kế hoạch , sáng tạo , có năng suất cao với
tinh thần tự lực cánh sinh , không lười biếng , không ỷ lại .
Kiệm là tiết kiệm sức lao động , thì giờ , tiền của của dân , của nước , của bản
thân mình ; không xa xỉ , không hoang phí , không bừa bãi , không phô trương , không chè chén
lu bù .
Liêm là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân ; phải trong sạch , không tham
lam , không tham địa vị ,không tham tiền tài , không tham sung sướng ; chỉ ham học , ham làm ,
ham tiến bộ.
Chính nghĩa là không tà , thẳng thắn , đứng đắn.
Đối với mình : không tự cao, tự đại , luôn chịu khó học tập , tự kiểm điểm.
Đối với người: không nịnh hót người trên , không xem khinh người dưới ;
luôn giữ thái độ chân thành , khiêm tốn.
Đối với việc : để công việc công lên trên , đã phụ trách việc gì thì làm cho
kỳ được , đến nơi đến chốn , không sợ khó khăn , nguy hiểm , cố làm lợi cho nước cho dân .
Cần , kiệm , liêm , chính cần thiết đối với tất cả mọi người . Hồ Chí Minh viết :
“Trời có bốn mùa : Xuân , Hạ , Thu , Đông
Đất có bốn phương : Đông, Tây , Nam ,Bắc
Người có bốn đức : Cần , Kiệm , Liêm , Chính
Thiếu một mùa , thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức , thì không thành người”
Về Chí công vô tư là công bằng , công tâm , không thiên tư, thiên vị ; làm việc gì
cũng không nghĩ đến mình trước , chỉ biết vì Đảng , vì dân tộc , “lo trước thiên hạ , vui sau thiên
hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể ,nâng cao đạo đức cách mạng , trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân.
17
Chí công vô tư , về thực chất là nối tiếp Cần , Kiệm , Liêm , Chính. Cần kiệm liêm
chính , chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau . Cần , kiệm ,liêm , chính sẽ dẫn đến chí
công vô tư , vì nước , vì dân , vì Đảng thì sẽ thực hiện được cần , kiệm , liêm , chính và nhiều đức
tính tốt khác.
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính , chí công vô tư sẽ làm cho con người
vững vàng trước mọi thử thách . Nhưng lại là vấn đề phức tạp , nói dễ làm khó . Vì nó đụng chạm
lợi ích cá nhân ,theo Hồ Chí Minh , chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “ mọi người vì mình “. Nó là
bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc là thứ vi trùng rất độc , đẻ ra bệnh quan lieu , mệnh lệnh,
bè phái , chủ quan , tham ô ,….,là mối nguy hại cho cá nhân con người , cho một đảng và cả dân
tộc ., là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nếu không vượt qua được chủ
nghĩa cá nhân thì ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức .
c)
Yêu thương con người:
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc , bao la , gần gũi thân
thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là
một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương trước hết dành cho những người cùng khổ , những người lao động bị áp
bức bóc lột .
Tình yêu thương còn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè , đồng chí , với mọi người ,
đòi hỏi mọi người phải luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình , rộng rãi , độ lượng với người
khác , thái độ tôn trọng con người . Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người ở cương vị
lãnh đạo , bất cứ ở cấp nào .
Tình yêu thương con người còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết

điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa .Trong Di chúc , Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau . Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ
thể , phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc , tự do hạnh phúc cho con người .
d)
Tinh thần quốc tế trong sáng :
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản , đoàn kết với các dân tộc bị áp bức , với nhân
dân lao động các nước , đoàn kết của nhân dân Việt Nam với những người tiến bộ trên thế giới vì
hòa bình , công lý và tiến bộ xã hội , nhằm mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình , độc lập dân
18
tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội , là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , là hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước , các dân tộc , chống lại sự chia rẽ , hằn thù , bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc
.
Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn , có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế , tạo ra một
kiểu quan hệ quốc tế mới : đối thoại thay cho đối đầu , kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên thế
giới .
Câu 8: Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.Phân
tích tác hại khi cán bộ Nhà nước không thực hiện đúng nguyên tắc “nói phải đi đôi với
làm,phải nêu tấm gương đạo đức”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo , bồi dưỡng nhằm hình thành
một đội ngũ cán bộ , viên chức nhà nước có trình độ văn hóa , am hiểu pháp luật thành thạo
nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu
chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Trong việc dùng cán bộ, Người nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái . Khác với những cán
bộ của các cơ quan dân cử, làm việc theo nhiệm kì bầu cử, công chức theo chế độ chức nghiệp, vì
vậy cần phải qua một kì thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển
yêu cầu khá toàn diện , bao gồm 6 môn thi:chính trị , kinh tế , pháp luật , địa lí , lịch sử và ngoại
ngữ.Điều đó thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ,… của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
Nhưng trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lí nhà nước, điều quan tâm thường
xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục

vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều cơ bản này thì dù có năng lực mấy cũng không dùng được. Nói
chuyện trước cuộc mittinh của hơn hai vạn cử tri Hà Nội ủng hộ cuộc bầu cử Quốc hội (ngày 5-1-
1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:”Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng
mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu”.
Người hiểu rõ khó tránh khỏi xu hướng quan liêu hóa của cán bộ quản lí Nhà nước, nên
luôn nhắc nhở họ phải thân dân , gần dân , trọng dân, không dược lên mặt “quan cách mạng” với
dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân. Chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể
làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt.
19
Về vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch , vững mạnh, hiệu quả, Người nhấn mạnh hai
nội dung cơ bản sau:
*Một là, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức:
Phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp
luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân, song không nên vì thế mà đề cao một
chiều vai trò của pháp luật, coi pháp luật là tối thượng, bỏ qua vai trò hỗ trợ của các nhân tố khác,
trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thức ý thức xã hội,
thuộc hai lĩnh vực khác nhau nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước; và
những nhà chính trị sáng suốt thường không bao giờ tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố
riêng lẻ nào.Trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước Bác Hồ là một mẫu mực của sự
kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng
nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật.Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức , và
đạo đức cao nhất , theo Người là “ Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Người thường xuyên nhắc nhở :”Nước lấy dân làm
gốc”. Suốt đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẩu chấp hành kỉ cương , phép nước , đồng
thời cũng suốt đời kiên trì giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức,
có quyền. Nếu chỉ kêu gọi đạo đức thôi thì không bao giờ giải quyết được vấn đề, phải kết hợp
giáo dục đạo đức với trừng trị bằng pháp luật. Vì vậy ta thấy Bác Hồ nêu khẩu hiệu cần , Kiệm đi
liền với Liêm, Chính. Như Người giải thích : “Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng,
giữ gìn của công và của nhân dân. Chính tức là việc phải dù nhỏ cũng làm việc trái thì dù nhỏ
cũng tránh”. Ngày 27 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh ấn định hình phạt

tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi sồ tiền nhận
hối lộ. Ngày 26 tháng 1 năm 194, Người kí “quốc lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp của công vào
tôi tử hình.
*Hai là, kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu:
Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành
pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Vì
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho
dân”. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nôi xâm, như
thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”. Về tác hại nghiêm trọng của bệnh quan liêu, Mác và
Angghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các Đảng Cộng
20
sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”, “đi vào con đường
tiêu vong như đã từng xảy ra đối với mọi loại hình Nhà nước từng xuất hiện từ trước đến nay”. Vì
vậy, không thể nói đến một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả nếu như không kiên
quyết, thường xuyên đấu tranh để chặn đứng , tiến tới tiêu diệt tận gốc những nguyên nhân đã
gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
Câu 9: Hãy phân tích hậu quả xấu khi mỗi người không thực hiện đúng nguyên tắc “phải
tu dưỡng đạo đức suốt đời”.Theo nhận thức của anh,chị trong điều kiện hiện nay việc thực
hiện nguyên tắc “xây và chống”, “phải tu dưỡng đạo đức suốt đời” có những khó khăn và
thuận lời gì?
Bác Hồ rất đề cao phép nước , “nhân trị” đi đôi với “pháp trị”. Tình trạng tiêu cực trong
đời sống pháp luật ở nước ta hiện nay có một phần là do hệ thống pháp luật của ta thiếu đồng bộ,
một phần nữa là do thi hành không nghiêm. Nhưng dù sau này hệ thống pháp luật có hoàn chỉnh
đến đâu, việc thi hành vẫn không thể tốt nếu tăng cường pháp luật không đi liền với thường
xuyên giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ Nhà nước, trước hết là những người giữ chức năng
bảo vệ pháp luật . Ngày nay, trong một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường tất yếu đẻ ra những tên gian manh, bịp bợm. Do sự quản lí và giáo dục yếu kém
của Nhà nước, chúng đã móc nối được với những phần tử thoái hóa trong bộ máy Nhà nước, ra
sức tung hoành, ăn cướp, lừa đảo, chiếm đoạt hàng nghìn tỷ đồng của nhân dân, dẫn đến những
vụ án tày đình, làm xôn xao dư luận xã hội, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân về sự trong

sạch, vững mạnh của bộ máy Nhà nước ta. Công luận đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
kiên quyết phanh phui, vạch tội, xét xử chúng một cách văn minh cà trừng trị thật đích đáng để
đem lại niềm tin cho nhân dân vào sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước ta.
Vì sao nạn tham nhũng, hối lộ không giảm mà có chiều hướng gia tăng? Vì sao có hiện
tượng “nhờn” pháp luật? Có nguyên nhân do cơ chế quản lí kinh tế, do sơ hở về chính sách, pháp
luật, do thiếu nghiêm minh trong xét xử và thi hành án, do công tác quản lí, giáo dục còn yếu
kém, vân vân, …Cũng có nguyên nhân về nạn phe phái, ô dù bao che cho nhau. Nhưng có một
nguyên nhân quan trọng nữa không thể bỏ qua đó là bệnh quan liêu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần
chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu
vấn đề. Chỉ biết khai hội, biết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến
21
chốn… Thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không
giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở
cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch
bệnh quan liêu”.
V.I.Lenin cũng viết:”…chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng
sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái
đó”(tức chủ nghĩa quan liêu). Sự tiên liệu của các bậc thầy vĩ đại đã không được những người kế
tục sau này cảnh giác, đề phòng , khắc phục. Sự sụp đổ của Nhà nước Xô viết có những nguyên
nhân sâu xa của nó, song có một nguyên nhân mà ai cũng thấy, đó là bộ tham mưu của nó đã
quan liêu hóa, ngày càng xa rời nhân dân, nên đã rơi vào thoái hóa, biến chất.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức chưa
từng có. Xu thế toàn cầu hóa đang phát triển sâu rộng với tốc độ nhanh, mở ra cơ hội cho các
nước chậm phát triển có thể đuổi kịp các nước phát triển, dồng thời cũng gia tăng nguy cơ bành
trướng của chủ nghĩa thực dân mới. Trong tình hình đó, nếu không có một nhà nước thực sự
trong sạch, vững mạnh , hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa đất nước
vượt qua nguy cơ , thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ không có mà độc lập dân tộc cũng khó bảo
vệ được.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh , liên hệ với tình hình hiện nay, có thể thấy nổi lên mấy
vấn đề cấp bách sau đây, cần tập trung đột phá nhằm tạo ra những chuyển biến rõ rệt:
1)
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân:
Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát
triển giữa nước ta và nhiều nước trên thế giới , phải “phát huy cao độ nội lực của dân tộc”, mà
một trong những nhân tố cơ bản làm nên nội lực đó là phát huy dân chủ. Bởi như Bác Hồ đã
nói:”Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tư do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Trong cuộc chiến đấu khẩn trương và quyết liệt chống kẻ thù xâm lược, nhiều công việc
cấp bách phải được giải quyết kịp thời và tập trung ở cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước. Khi chuyển sang hòa bình, xây dựng trong điều kiện khó khăn, phức tạp của tình hình đất
22
nước hiện nay thì mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác được sức
mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa , hội nhập với thế giới.
Có thể thấy dân chủ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, thực
hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Mọi chủ trương,
đường lối, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… đều được Người xem xét
và giải quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tạo điều kiện vật chất và văn hóa để người dân nâng cao năng
lực làm chủ : nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hóa chính trị, phát triển tính tích cực công dân, mở
mang kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, khuyến khích nhân dân tham
gia giám sát công việc của các cơ quan nhà nước từ dưới lên trên.
2) Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.
Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, pháp luật của Nhà nước tạo điều kiện tiên
quyết, song nếu không có một nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách, luật pháp dù
đúng cũng không thể đi vào cuộc sống.
Hiện nay, nền hành chính của ta còn có nhiều yếu kém:quan liêu, xa dân, xa cơ sở; phân

tán, thiếu trật tự kỉ cương; nạn tham nhũng và lãng phí của công; bộ máy cồng kềnh, nặng nề,
kém hiệu lực; đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu về kiến thức, năng lực, một bộ phận không nhỏ
kém phẩm chất thậm chí hư hỏng.
Cải cách hành chính để có một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực nhân
dân, giữ vững trật tự, kỉ cương xã hội theo pháp luật. Nó phải phục vụ tận tụy, công tâm, đáp ứng
yêu cầu hằng ngày về quyền lợi hợp pháp của nhân dân, phải phấn đấu để xóa bỏ ấn tượng hiện
nay trong nhân dân: hành chính là hành dân là chính!
Cái cách và kiện toàn bộ máy hành chính là một quá trình phải tiến hành đồng bộ trên
nhiều mặt. Căn bệnh này nặng nề, phức tạp, có căn nguyên xã hội-lịch sử, nên không thể chữa trị
trong một thời gian ngắn.
Những vấn đề bức xúc nổi lên hiện nay thường biểu hiện tập trung ở các cơ quan hành
chính hàng ngày có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhân dân.
Để nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, cần thiết phải:
23
Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và hoàn thiện chế độ công vụ.
Đề cao trách nhiệm giải quyết khiếu kiện của nhân dân.
Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ , công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn, thực hiện tinh
giản biên chế; xử lí nghiêm minh, kịp thời những người vi phạm pháp luật.
3) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước;gắn liền xây dựng, chỉnh
đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Những năm gần đây, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường bộ máy
nhà nước, đấu tranh chống các tệ nạn làm suy giảm uy tín và hiệu lực của Nhà nước.
Cuộc đấu tranh để khắc phục những khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể tách rời
cuộc vận động xây ựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì Nhà nước mạnh. Không thể có một
Đảng mạnh mà Nhà nước và hệ thống hành chính của nó lại yếu kém. Để chỉnh đốn lại bộ máy
nhà nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt
trong sạch, vũng mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng
trong sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.

Câu 10: Trình bày tư tưởng yêu thương con người,yêu thương nhân dân của Hồ Chí
Minh.Tại sao Hồ Chí Minh có lòng khoan dung độ lượng,lòng tin vào sức mạnh và tinh
thần sáng tạo của con người?
1)Tư tưởng yêu thương con người, yêu thương nhân dân của Hồ Chí Minh
¬ Hồ Chí Minh yêu thương con người với một tình cảm sâu sắc vừa bao la rộng lớn vừa gần
gũi thân thương với từng số phận của con người. Người yêu thương đồng bào, đồng chí, không
không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là già hay trẻ, là gái hay trai…không phân biệt
một ai, không trừ một ai. Hồ Chí Minh yêu thương những người nô lệ mất nước, những người
cùng khổ, giai cấp bị bóc lột, những người chết vô ích ở Việt Nam dù họ là người Mỹ hay Pháp,
họ là da trắng hay da màu. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng đoàn kết nhân dân, trong xã hội không có
gì vẻ vang tốt đẹp bằng phục vụ nhân dân. Tư tưởng yêu thương con người của Bác rất rộng
lớn, chẳng những yêu thương nòi giống mà còn quan tâm đến giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên thế giới, Bác nói "Quan san muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh
em". Quan điểm của Hồ Chí Minh là phải tất cả vì con người. Chúng ta không có mục đích nào
khác là chăm lo cho con người, giải phóng con người, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân (Đức + Trí + Thể + Mỹ), nghĩa là xây dựng con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa. Hồ Chí
Minh coi đây là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Do đó, Bác Hồ căn dặn: Phải luôn luôn làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, từ đó nhân rộng gương tốt, việc tốt
ra thành nhiều vườn hoa khác đẹp hơn, tốt hơn, toàn diện hơn.
24
¬ Hồ Chí Minh yêu thương những người sống thực ở trên đời. Tư tưởng yêu thương con
người của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng chung chung. Đó là yêu người lao
động, cần lao, cùng khổ, người bị bóc lột, những người bị đàn áp. Chống ai? Chống kẻ đàn áp
người lao động, kẻ bóc lột người lao động, người độc ác, bọn xấu, kẻ sâu mọt dân, đè đầu cưỡi
cổ nhân dân.
¬ Người chỉ ra nguồn gốc của niềm đau, nỗi khổ của những con người nô lệ bị mất nước và
của những con người lao động làm thuê đó là chủ nghĩa thực dân,đế quốc tàn bạo; là ách áp bức
bóc lột mà giai cấp công nhân, nông dân phải chịu đựng. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí
Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng

chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng
kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa,
chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người
mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, những
người thuộc các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con
đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Từ đó Người chỉ ra con
đường cách mạng, con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Vì
lòng yêu thương con người, Hồ Chí Minh coi hòa bình tự do là nguyện vọng sâu xa còn chiến
tranh là bắt buộc.Người luôn khát khao dân tộc được độc lập tự do. Trong kháng chiến người
luôn có thái độ nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển
hòa bình để hạn chế đổ máu cho nhân dân ta. Theo Người “không có một trận đánh đổ máu nào
là “đẹp” cả mặc dù thắng lớn. Người quý trọng sức dân, của dân,trọng người tài,đức, trân trọng
người tốt việc tốt dù rất nhỏ. Người luôn tôn trọng ý kiến nhân dân, luôn lắng nghe học hỏi, bàn
bạc tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến nhân dân. Tình yêu con người cao đẹp đó được thể hiện
rõ trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
 Hồ Chí Minh gắn bó với dân tộc, với nhân dân và với con người từ con tim đến khối óc, trọn
vẹn suốt cả cuộc đời. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nói rõ: "Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Cuối
cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các
cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các
cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế."
2)Hồ Chí Minh có lòng khoan dung, độ lượng, lòng tin vào sức mạnh và tinh thần sáng tạo của
con người
¬ Lòng khoan dung của Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống “Người trong một nước phải
thương nhau cùng”, tất cả đều là “Con rồng cháu tiên”
¬ Mỗi người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng, ta phải làm sao cho lòng tốt nảy nở.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là thần thánh,

có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm,
đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.
¬ Người khẳng định: “lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ
thay đổi”. Tình cảm đó thể hiện sâu sắc phong phú trong suốt cuộc đời của Người. Trong việc
giải phóng con người, Người chú ý kết hợp hài hòa giữa cá nhân với tập thể, cộng đồng. Người
25

×