Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

HẠ LÃI SUẤT CHO VAY:GIÀ NÉO ĐỨT DÂY pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.13 KB, 5 trang )

HẠ LÃI SUẤT CHO VAY:GIÀ NÉO
ĐỨT DÂY
Băn khoăn lớn nhất hiện nay là mặc dù CPI đã giảm rất mạnh, tốc độ
giảm lãi suất tiền vay rất nhanh và chiếm tới 75% dư nợ tín dụng
nhưng tại sao tín dụng vẫn tăng thấp?

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 16/8, tổng hợp từ 69 tổ
chức tín dụng chiếm 90% thị phần toàn hệ thống thì dư nợ VND của các
khoản vay có mức lãi suất 10%/năm chiếm 4,1%; 10% - 13%/năm chiếm
20%; 13% đến dưới 15%/năm chiếm 51,3%, tổng hợp tỷ trọng tín dụng có
lãi suất dưới 15%/năm chiếm tới 75,4% tổng dư nợ tín dụng.

Băn khoăn lớn nhất hiện nay là mặc dù CPI đã giảm rất mạnh, tốc độ giảm
lãi suất tiền vay rất nhanh và chiếm tới 75% dư nợ tín dụng nhưng tại sao tín
dụng vẫn tăng thấp?

Lý giải điều này, một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, đó
là do “cục máu đông” trong nền kinh tế đã cản trở đến tăng trưởng tín dụng.
Theo ông, một số ý kiến cho rằng, “cục máu đông” chính là nợ xấu, điều đó
không hoàn toàn sai nhưng chính xác hơn là xuất phát từ chỗ hàng tồn kho
cao, khả năng luân chuyển dòng tiền thấp, tình hình tài chính thiếu lành
mạnh của phần lớn doanh nghiệp hiện nay.

Thêm vào đó, ở một bộ phận doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt hơn nhờ
thoát hiểm nạn tồn kho và quản trị doanh nghiệp tốt nhưng lại bị đè nặng bởi
tâm lý ngóng chờ lãi suất vay thấp hơn nữa mới vay tiếp để đầu tư nên dẫn
đến tình trạng trên.

Cũng vì “cục máu đông” đó mà doanh nghiệp chây ỳ trả nợ ngân hàng, dẫn
đến nợ xấu tăng lên. Khi nợ xấu tăng, ngân hàng càng gia cố thêm các rào
cản kỹ thuật để hạn chế tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp. Thậm chí, còn


có tình trạng một số ngân hàng dụ dỗ doanh nghiệp trả bớt nợ rồi đóng sập
cửa tín dụng, khiến cho doanh nghiệp vừa không có tiền để luân chuyển vốn
lưu động, vừa không giải thoát được tài sản đảm bảo để vay mới.

Đã có không ít lời ca thán về cách hành xử này của ngân hàng nhưng ở vào
địa vị của họ, trước áp lực bảo toàn đồng vốn cho cổ đông, các chỉ số an
toàn theo quy định của luật pháp thì mới hiểu vì sao họ muốn rút chân ra
khỏi vùng lầy mà doanh nghiệp đang gặp phải càng nhiều, càng sớm càng
tốt.

Tổng giám đốc một ngân hàng chia sẻ, một thực tế hiện nay là rất nhiều
ngân hàng đã cho vay phổ biến ở mức lãi suất 10% - 12%/năm, thậm chí có
ngân hàng cho vay 9% như ngân hàng của ông nhưng tín dụng vẫn không
tăng được vì nơi “nơi muốn không nên, nơi nên không muốn”.

Theo ông, “nơi muốn” ở đây chính là những doanh nghiệp làm ăn tốt, tình
hình tài chính lành mạnh, đã thoát được hàng tồn và ngân hàng rất muốn cho
họ vay tiếp, kể cả lãi suất 10%/năm nhưng vì họ đang nghe ngóng, thăm dò
sự ổn định của thị trường nên không muốn vay để đầu tư.

Ngược lại, khá nhiều doanh nghiệp muốn vay ngân hàng, bất chấp lãi suất
cao nhưng đó là những trường hợp tình hình tài chính không tốt, họ vay để
đáo hạn ngân hàng, trả nợ “tín dụng đen” nhằm rút tài sản đảm bảo ra bán
bớt để cứu vãn khối tài sản đang đầu tư và/hoặc đầu cơ thì ngân hàng không
thể nào giải ngân cho họ.



“Đặt vào địa vị chúng tôi, thử hỏi ai dám cho vay, kể cả lãi suất cao đến
mấy? Ngân hàng cũng là doanh nghiệp kinh doanh tiền, nếu cụt vốn, sẽ phải

trả lời sao với cổ đông, với thanh tra Ngân hàng Nhà nước?”, vị tổng giám
đốc trên phân trần.

Qua trao đổi, một số đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước giải thích
rằng, hiện nay, số dư nợ trên 15% chỉ tương đương khoảng 29% tổng dư nợ
và đều là nợ cũ.

“Nợ cũ” ở đây, tức là những khoản tín dụng chịu ảnh hưởng bởi những hợp
đồng tiền gửi có lãi suất từ 14%/năm trở lên, trước thời điểm Ngân hàng
Nhà nước ra văn bản hiệu triệu các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi ngắn
hạn ở mức 9%/năm. Về bản chất, chúng là những hợp đồng kinh tế đã được
tổ chức tín dụng ký với doanh nghiệp, trong đó ghi rõ tổng giá trị hợp đồng,
mức lãi suất bao nhiêu, thời gian nào đàm phán lại lãi suất

Vì thế, về mặt tuân thủ luật pháp, Ngân hàng Nhà nước không thể ra văn bản

ép buộc tổ chức tín dụng phải hạ lãi suất đối với những hợp đồng này, còn
nếu cố tình thì chính Ngân hàng Nhà nước đã vi phạm luật pháp.

Thứ hai, ngoại trừ tỷ trọng tín dụng có mức lãi suất trên 15%/năm như nói
trên thì nếu so với mức 25%/năm của 2010, 17% - 19%/năm từ quý 4/2011
và phổ biến là 10% đến dưới 15% như hiện nay, liệu Ngân hàng Nhà nước
có thể điều hành lãi suất giảm sâu hơn với mức này theo đòi hỏi của doanh
nghiệp hiện nay?

Chuyên gia tài chính độc lập Vũ Đình Ánh phân tích, nếu muốn giảm lãi
suất trong lúc này thì phải nới lỏng tiền tệ hơn nữa và như thế, khoảng nửa
năm tới tính từ thời điểm này, nền kinh tế sẽ đón nhận hệ quả lạm phát như
từng xảy ra từ đầu năm 2011, dẫn đến những nỗ lực kiềm chế lạm phát, ổn
định giá trị VND từ đầu 2011 đến nay sẽ vô nghĩa.


Thứ ba, để lãi tiền vay giảm thì lãi tiền gửi phải giảm xuống dưới 9% so với
mức hiện nay. Trong trường hợp đó, theo tính toán của ông Lê Xuân Nghĩa,
thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia thì một trong những
lý do để ngân hàng bảo toàn được nguồn tiền gửi là do chênh lệch lãi suất
“đô - đồng”. Nhưng hiện nay, dư địa của chúng chỉ còn khoảng 2% và nếu
hạ lãi suất tiền gửi thì người dân và tổ chức sẽ dịch chuyển sang USD và gây
áp lực lên tỷ giá.

Thứ tư, có một sự trùng hợp có vẻ như nằm trong tính toán của các doanh
nghiệp “con cưng” của Chính phủ là khi thấy CPI có biểu hiện xuống thấp,
lập tức giá xăng dầu tăng và từ 1/7, giá điện tăng thêm 5%, bất chấp đó là sự
hy sinh của giảm tổng cầu, nỗ lực của chính sách tiền tệ trong việc níu giữ
lạm phát. Thêm một lần nữa, chính sách về giá và tiền tệ lại như trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược!

×