Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Công tác huy động nguồn vốn có chi thấp hơn là biện pháp cơ bản nhằm hạ thấp lãi suất cho vay tại Vietinbank Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.43 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh
nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, không có vốn thì
không hoạt động kinh doanh được, khi có vốn rồi thì điều đầu tiên mà doanh
nghiệp phải đối phó là làm thế nào để có được lợi nhuận, sử dụng như thế
nào để đồng vốn có hiệu quả, đây mới là sự quan tâm lớn nhất của các doanh
nghiệp.
Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, việc sử
dụng vốn là mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và của các doanh nghiệp. Do
đó, đi tìm lời giải về việc sử dụng vốn hay nói cách khác là các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời
sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại vận tải,
Công ty Thương mại vận tải Trường Giang đương nhiên không nằm ngoài
xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty Thương mại vân tải Trường
Giang, được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giao hướng dẫn
cũng như các cán bộ trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực
tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng
lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được
nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề
tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại vận tải
Trường Giang” – một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực
1
tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị
trường quốc tế.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty thương mại


vận tải Trường Giang.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
thương mại vận tải Trường Giang.
Bằng những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập ở trường
và những kiến thức có được qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các cán bộ phòng
Kế toán Tài chính thuộc Công ty Thương mại vận tải Trường Giang, đặc biệt
là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS.Lê Đức Lữ - em đã hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong Công ty, các
thầy cô giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp của mình.
2
CHƯƠNG I: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.Vốn của doanh nghiệp
1.1.1.Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
a. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản
xuất kinh doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để trao
đổi với các đơn vị kinh tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng
để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần thiết phải có vốn. Vậy vốn là gì ?
Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm
đều có những ưu điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà
người ta có thể tiếp cận vốn dưới góc độ nào.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật,
vốn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là cách hiểu
phù hợp với trình độ quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng
chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt tài chính của vốn.
Theo quan điểm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn (tư
bản) là giá mang lại từ giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản

xuất. Định nghĩa của Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh lúc
đó khi mà nền kinh tế chưa phát triển, Mác quan niệm chỉ có khu vực sản
xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Và tiền chỉ được gọi là vốn
khi được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục
đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản trị và sử dụng
vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế ý nghĩa
nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản trị và sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
3
Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển
đã kế thừa quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra làm ba loại :đất đai, lao động và
vốn. Theo ông, vốn là hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình
sản xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các
giấy tờ có giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó cũng
không phản ánh đầy đủ mặt tài chính của vốn.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có
cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chi cho các
chững khoán của công ty. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của
vốn, khuyến khích các nhà đầu tư tăng cường đầu tư, mở rộng và phát triển
sản xuất. Song nó có hạn chế là không nói rõ nội dung và trạng thái của vốn
trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng vốn bao gồm
toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài
sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh
nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản trị và tác nghiệp của cán
bộ điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp,
các lợi thế về cạnh tranh như vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương
trường... Quan điểm này có ý nghĩa rộng trong việc khai thác đầy đủ mọi

hình thức của vốn trong nền kinh tế thị trường nhưng việc xác đình và quản
trị vốn theo quan điểm này rất khó khăn, phức tạp nhất là khi trình độ quản
trị chưa cao và hệ thống pháp luật chưa thực sự hợp lý và hoàn thiện như
nước ta hiện nay.
Cũng có quan điểm lại cho rằng: Vốn kinh doanh là giá trị của các tài
sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tìên, nhưng quan điểm
4
này mới dừng lại ở mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái,
mục đích của vốn nên cũng không thuận lợi cho phân tích kinh tế .
Như vậy , các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai
trò của vốn trong những điều kiện cụ thể với những yêu cầu, mục đích
nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng
trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan điểm đó còn gây khó khăn, chưa
đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả.
Có thể nói, vốn sản xuất kinh doanh là tiền đề cho mọi quá trình đầu
tư và sản xuất kinh doanh ; là quỹ tiền tệ đặc biệt, là tiềm lực tài chính của
doanh nghiệp. Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ,
khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau :
-Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của
thu nhập quốc dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực ).
-Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản
vật chất ( tài sản cố định, tài sản dự trữ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền
gửi ngân hàng, các chứng khoán, tín phiếu...) là cơ sở đề ra biện pháp quản
trị vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách hiệu quả .
-Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ( đất đai, lao động).Điều
này đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết kiệm , hợp lý và hiệu qủa vốn.
-Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm
kiếm lợi nhuận. Vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh
doanh nói chung và quản trị vốn nói riêng.

Từ các vấn đề trên, có thể định nghĩa: Vốn là một phần thu nhập quốc
dân dưới dạng tài sản vật chất hay tài sản tài chính được các cá nhân, tổ
chức, các doanh nghiệp bỏ ra, đẩu tư phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tối
đa hoá lợi nhuận.
5
b. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh với bất kỳ quy mô nào
cũng cần có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời
và phát triển của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên doanh
nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng
lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng
loại doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập.
Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thành lập được. Trường
hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt
điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt
động như phá sản, giải thể, sát nhập… Như vậy vốn có thể được xem là một
trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân
của một doanh nghiệp trước pháp luật.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vón không những
đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để
phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất diễn
ra thường xuyên liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và xác lập vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Điều
này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không ngừng phải cải thiện máy móc
thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ… tất cả những yếu tố này muốn đạt
được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.

6
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp. Để tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh
doanh, vốn của doanh nghiệp phải được sinh lời tức là hoạt động kinh doanh
phải có lãi, đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó
là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm
nhập vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ nâng cao uy
tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp
mới có thể sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.2.Các loại vốn trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Phân loại vốn theo nguồn gốc
a. Vốn chủ sở hữu
Là vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp mà doanh nghiệp
không phải cam kết thanh toán. Vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và
các nhà đầu tư tự góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó
vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ.
Tuỳ loại hình doanh nghiệp mà một doanh nghiệp có thể có một hoặc
nhiều chủ sở hữu vốn:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước nguồn vốn hoạt động do Nhà nươc
cấp hoặc đầu tư lên Nhà nước là chủ sở hữu vốn.
- Đối với các doanh nghiệp liên doanh, liên kết chủ sở hữu vốn là
các thành viên tham ga góp vốn hoặc các cá nhân tham gia hùn
vốn.
- Đối với các công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông.
7
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu vốn là các cá nhân
hoặc một hộ gia đình.
Vốn chủ sở hữu bao gồm

- Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc
mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số
vốn này có thể được bổ sung, tăng thêm hoặc rút bớt trong quá
trình kinh doanh.
- Lợi nhuận chưa phân phối (lãi lưu giữ): đây là kết quả của toàn bộ
hoạt động kinh doanh. Số lợi nhuận này trong khi chưa phân phối
được sử dụng cho kinh doanh và coi như một nguồn vốn chủ sở
hữu.
- Vốn chủ sở hữu khác: là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi
nhuận để lại ( các quỹ doanh nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ,
dự trữ theo luật định…) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản,
chênh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối đoái, nguồn
kinh phí…)
b. Vốn nợ
Vốn nợ là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành
từ nguồn vốn đi vay, đi chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị tổ chức
trong và ngoài nước và sau một thời gian nhất định,doanh nghiệp phải trả
cho người cho vay cả gốc lẫn lãi.Phần vốn này,doanh nghiệp được sử
dụng với những điều kiện nhất định(Như thời hạn sử dụng,lãi suất,thế
chấp,..)nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn nợ luôn
được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hưũ trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc
8
biệt doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp càng sử dụng vốn
vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh
doanh thì đây là nguồn vốn rất lớn tùy thuộc vào khả năng thế chấp, tình
hình sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp.
Vốn nợ của doanh nghiệp gồm hai loại:
Nợ ngắn hạn: là khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong
vòng một chu kì hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một
năm. Các khoản nợ này được trang trải bằng tài sản lưu động hoặc bằng

các khoản nợ ngắn hạn phát sinh. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn,
thương phiếu phải trả, tiền phải trả cho người bán, người nhận thầu, thuế
và các khoản phải nộp ngân sách, lương, phụ cấp phải trả cho công nhân
viên, các khoản nhận kí quỹ, kí cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn
hạn khác.
Nợ dài hạn: là các khoản nợ mà thời gian trả nợ trên một năm, bao
gồm: Vay dài hạn cho đầu tư phá triển, nợ thế chấp phải trả, thương
phiếu dài hạn, trái phiếu phải trả, các khoản nhận kí cược, kí quỹ dài hạn,
các khoản phải trả dài hạn khác.
Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn
trên để đảm bảo nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm
nguyên tắc phân tán rủi ro trong đầu tư. Kết cấu hợp lý của hai nguồn
vốn này tuỳ thuộc đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt động, quyết
định của nhà quản trị doanh nghiệp trên cơ sở xem xét tình hình tài chính
của doanh nghiệp và tình hình chung của nền kinh tế đất nước.
1.1.2.2. Phân loại vốn theo đặc điểm luân chuyển vốn
a. Vốn cố định
9
VCĐ của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về
TSCĐ, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều
chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời
gian sử dụng.
Quy mô của VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc
điểm của TSCĐ lại ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản trị
VCĐ. Vì vậy, muốn quản trị VCĐ hiệu quả thì phải quản trị , sử dụng
hiệu quả. TSCĐ. Từ mối quan hệ này, ta có thể khái quát những nét đặc
thù của VCĐ như sau:
-VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh do TSCĐ có
thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên VCĐ-hình thái
biểu hiện của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh

doanh tương ứng.
-VCĐ được luân chuyển dần từng phần khi tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh. TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu
nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị tài
sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó, VCĐ cũng được tách làm hai phần:
+Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình
thức khấu hao TSCĐ. Tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ
bị hao mòn. Bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà
nó được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản phẩm, gọi là khấu hao
TSCĐ.
+ Phần còn lại của VCĐ được “cố định” trong TSCĐ. Việc quản
trị VCĐ và TSCĐ trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ
khối lượng quản trị, về kế toán tài chính người ta có những quy định
thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian sử dụng một
TSCĐ. Hiện nay, ở nước ta một tư liệu lao động là TSCĐ phải đồng thời
10
thoả mãn hai điều kiện: Giá trị tối thiểu từ 10 triệu đồng Việt nam và thời
hạn sử dụng ít nhất là 1 năm.
Để quản trị VCĐ hiệu quả, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VCĐ.
* Cơ cấu của vốn cố định
Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ
cấu vốn là một chỉ tiêu động mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều
nhân tố như: khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút
vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang
bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý
nghĩa quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu
vốn cố định phải nghiên cứu trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và
quan hệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được
một cơ cấu hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh

nghiệp và với trình độ phát triển khoa học-kỹ thuật.
* Phân loại vốn cố định
Có nhiều cách phân loại TSCĐ:
+ Căn cứ và hình thái bíểu hiện
- TSCĐ hữu hình: Là TSCĐ có hình thái vật chất.
- TSCĐ vô hình:Là TSCĐ không có hình thái vật chất.
+ Căn cứ theo tình hình sử dụng:
- TSCĐ đang sử dụng
- TSCĐ chưa sử dụng
- TSCĐ không cần dùng
- TSCĐ chờ thanh lý
+ Căn cứ theo công dụng kinh tế
11
- TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh
- TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh
+ Căn cứ theo quyền sở hữu
- TSCĐ doanh nghiệp tự có
- TSCĐ doanh nghiệp thuê ngoài
- TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác
b. Vốn lưu động:
VLĐ của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ và vốn lưu
thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp
tiến hành thường xuyên, liên tục.
Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi
chu kỳ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân
chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. VLĐ chu
chuyển nhanh hơn VCĐ. Trong mỗi giai đoạn đó VLĐ được biểu hiện dưới
nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị.
Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng

vốn sẽ gặp nhiểu khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay
gián đoạn. Để quản trị VLĐ tốt, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VLĐ.
* Cơ cấu vốn lưu động
Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số
VLĐ. ở những doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống
nhau. Xác định được cơ cấu VLĐ hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả VLĐ.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ thì cần thiết phảI tiến hành phân
loại vốn khác nhau.
12
*Phân loại VLĐ
+Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người
ta chia vốn là ba loại:
- Vốn dự trữ: Là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng
thay thế.... dự trữ và đưa vào sản xuất.
- Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai
đoạn sản xuất.
- Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai
đoạn lưu thông như thành phẩm, vốn tiền mặt...
+ Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn thành:
- VLĐ định mưc: là số VLĐ cần thiết tối thiểu thường xuyên trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: vốn dự trữ,
vốn trong sản xuất và thành phẩm, hàng hoá mua ngoài dùng cho
tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến.
- VLĐ không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định
mức được.
+ Căn cứ và nguồn hình thành:
- VLĐ tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, VLĐ từ
bổ sung lợi nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn...

- VLĐ đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể
sử dụng để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong
kinh doanh. Có thể vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc
có thể vay vốn của các đơn vị, tổ chức và các cá nhân khác trong
và ngoài nước.
Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý.
13
Sự khác nhau cơ bản giữa VCĐ và VLĐ là : nếu như VCĐ tham gia
vào quá trình sản xuất như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động.
Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương
thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt khác nếu như VLĐ
được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu hồi được
ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn VCĐ tham gia nhiều
vào quá trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển và giá trị sản phẩm hàng
hoá dưới hình thức khấu hao.
1.2.Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.2.1.Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả
song có thể khẳng định trong nền kinh tế thị trường hiệu quả là công cụ để
đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả lĩnh vực
kinh tế xã hội và kỹ thuật . Song ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế
hoạt động sản xuất kinh doanh ( hiệu quả kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh
là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực(lao động, thíêt bị, máy
móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa
hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối
quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định
có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức:
+ Hiệu quả kinh doanh: H = K/C

Trong đó : K:Là kết quả đạt được
C:hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.
14
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng
của hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động
không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào
qui mô, tốc độ biến động của từng nhân tố.
Hiệu quả kinh doanh cũng là một phạm trù phức tạp, và khó xác định
tính toán bởi cả phạm trù kết qủa và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ
cụ thể đều khó xác định một cách chính xác.
Từ các vấn đề trên suy ra hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của
hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn của doanh
nghiệp nhằm mục tiêu xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh
mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được với số vốn bình quân đầu tư cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất
đinh.
Và hai loại chỉ tiêu trên được xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố
định và vốn lưu động.
* Bản chất hiệu quả sử dụng vốn
Để hiểu rõ bản chất của hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và
hiệu quả sử dụng vốn.
Kết quả sử dụng vốn bao giờ cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp
hướng tới, có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật cụ thể như m, lít, kg....hay
đơn vị giá trị như triệu đồng, ngoại tệ....Kết quả sử dụng vốn cũng có thể
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn định
tính của doanh nghiệp như uy tín, danh tiếng, chất lượng sản phẩm....Nhưng
không chỉ có kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh

15
doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không
chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm ,.... Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở
một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu
thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ và thu được tiền về... nên nó cũng lại
tách rời quá trình tiêu thụ.
Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực vốn. Trình độ lợi dụng nguồn lực vốn không thể đo bằng
các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối, chỉ có thể được
phản ánh bằng số tương đối: tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực vốn tạo
ra kết quả đó. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả với phạm trù
mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và vốn. Chênh lệch giữa kết quả và vốn
luôn là số tuyệt đối, phạm trù này phản ánh mức độ đạt được của vốn nên
cũng mang bản chất kết quả của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất
kinh doanh và không bao giờ phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn. Nếu
kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng
vốn là phương tiện để doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu đó.
Mặt khác, hao phí nguồn lực vốn của một thời kỳ trước hết là hao phí
về mặt hiện vật, cũng có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị
giá trị. Tuy nhiên, thông thường người ta hay xác định bằng đơn vị giá trị vì
nó mang tính so sánh cao hơn. Việc xác định hao phí nguồn lực trong một
thời kỳ là một vấn đề không đơn giản, không đơn giản ngay ở sự nhận thức
về vấn đề này: Hao phí nguồn lức vốn này được đánh gía thông qua phạm
trù chi phí kế toán hay chi phí sản xuất kinh doanh? Chỉ có phạm trù chi phí
sản xuất kinh doanh mới phản ánh tương đối đầy đủ chi phí thực tế mà
doanh nghiệp đã bỏ ra. Nhưng việc có tính toán được chi phí kinh doanh
16
trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay không cũng như có tính toán được

chi phí kinh doanh tới từng bộ phận hay không còn phụ thuộc vào trình độ
phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh.
Cũng cần chú ý rằng hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ lợi dụng
nguồn lực vốn trong một thời kỳ kinh doanh nào đó cũng hoàn toàn khác với
việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu
tố đầu vào.
Vậy, bản chất của pham trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn là hoàn
toàn khác nhau. Kết quả là mục tiêu còn hiệu quả sử dụng vốn là phương
tiện để doanh nghiệp đạt mục tiêu đó trong một thời kỳ nhất đinh.

*Mục đích phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích
thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn,
kịp thời .
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn
đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả cụ thể đến từng
bộ phận và xem xét, phát hiện ra những nguyên nhân để tìm ra
những biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên để phân tích hiệu quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát
huy được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau:
+Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ cả hai nguồn; từ bên
trong như các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế hoạch, tài liệu về định
mức...của doanh nghiệp và nguồn thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như
17
báo cáo về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng
ngành, tài liệu thống kê các vấn đề có liên quan của ngành.
+Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.
+Sử dụng các phương pháp đánh giá kết hợp với các chỉ tiêu đã xây

dựng.
+Lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thích hợp
+Cung cấp thông tin đánh giá đến cán bộ quản trị doanh nghiệp.
1.2.2.Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn
1.2.2.1.Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng tổng vốn
* Hệ số doanh lợi của tổng vốn = (lợi nhuận thuần + lãI trả vốn vay)/tổng tài
sản
+ Ý nghĩa:hệ số doanh lợi của vốn cho biết cứ đầu tư một đồng
vốn vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận( gồm cả lãi trả vốn vay). Chỉ tiêu này càng cao thì có thể
khẳng định hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp càng cao.
Nhưng nếu lãi trả vốn vay là quá lớn thì cũng cần xem xét lại bởi thực
chất, lãi trả vốn vay cũng là chi phí kinh doanh.
* Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh = doanh thu/tổng tài sản
+ Ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, tổng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn càng quay được nhiều vòng trong kỳ
và hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
1.2.2.2.Các chỉ thiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn cố định
Các chỉ tiể đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ thường sử dụng là:
18
Sức sản xuất của VCĐ = Doanh thu thuần/ VCĐ bình quân
+ Ý nghĩa: Sức sản xuất của VCĐ cho biết cứ một đồng VCĐ
đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu
thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sức sản xuất của VCĐ càng cao và
hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
h Hệ số đảm nhiệm của VCĐ =VCĐ bình quân /Doanh thu thuần
+ Ý nghĩa: Hệ số đảm nhiệm cho biết để tạo được một đồng
doanh thu thuần thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VCĐ để đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh

nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ và hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
n Hiệu suất sử dụng VCĐ = Lợi nhuận thuần/VCĐ bình quân
+ Ý nghĩa: Hiệu suất sử dụng VCĐ cho biết cứ đầu tư một đồng
VCĐ vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận
thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
t Suất hao phí của VCĐ =VCĐ bình quân/ lợi nhuận thuần
+ Ý nghĩa: Suất hao phí cho biết để tạo được một đồng lợi
nhuận thuần thì doanh nghiệp phảI bỏ ra bao nhiêu đồng đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết
kiệm được VCĐ nên hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
1.2.2.3.Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Các chỉ tiêu đánh gía hiệu sử dụng VLĐ thường được sử dụng là:
C Số vòng quay của VLĐ =doanh thu thuần/VLĐ bình quân
+ Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết VLĐ của doanh nghiệp quay
được bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng
19
cao, chứng tỏ VLĐ trong kỳ càng quay vòng nhanh nên hiệu quả sử dụng
VLĐ càng cao.
V Mức đảm nhiệm của VLĐ =VLĐ bình quân/ doanh thu thuần.
+ Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết để tạo được một đồng doanh
thu thuần doanh nghiệp phảI bỏ ra bao nhiêu đồng VLĐ để đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ doanh nghiệp càng
tiết kiệm được VLĐ, do đó hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
t Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển VLĐ =365/số
vòng quay của VLĐ
+ Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để VLĐ quay
được một vòng quay. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ VLĐ càng quay
vòng nhanh và hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
v Hiệu suất sử dụng VLĐ = lợi nhuận thuần/ VLĐ bình quân
+ Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ đầu tư một đồng VLĐ vào

sản xuất kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ
tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp
1.3.1.Các nhân tố chủ quan
- Chu kỳ sản xuất và kỹ thuật sản xuất:
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn doanh nghiệp sẽ thu hồi
20
vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại nếu chu
kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi
phải trả cho các khoản vay tăng thêm.
Các đặc điểm riêng có về kỹ thuật tác động liên tục tới một số
chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi
mới, máy móc thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian về công suất.
Nếu kỹ thuật sản xuất đơn giản doanh nghiệp dễ có điều kiện sử
dụng máy móc thiết bị nhưng lại phải luôn đối hó với các đối thủ cạnh
tranh và yêu cầu của khách hàng ngày càng cao về sản phẩm.
Do vậy doanh nghiệp dễ tăng doanh thu, lợi nhuận trên vốn cố
định nhưng khó giữ được lâu dài. Nếu kỹ thuật sản xuất phức tạp, trình
độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh song
đòi hỏi công nhân có tay nghề, chất lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm
giảm lợi nhuận trên vốn cố định.
- Đặc điểm của sản phẩm:

Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và việc
tiêu thụ sản phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết
định đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công
nghiệp nhẹ như rượu, bia.. thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua

đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa máy móc thiết bị dùng
21
để sản xuất ra những sản phẩm này có giá tị không quá lớn, do vậy doanh
nghiệp có điều kiện đổi mới. Ngược lại nếu sản phẩm có vòng đời dài, có
giá trị lớn như ô tô- xe máy… việc thu hồi vốn sẽ mau hơn.
- Trình độ tổ chức kinh doanh:
Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp phải trải qua
ba giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ.
Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình
sản xuất như nguyên vật liệu, lao động nó bao gồm hoạt động mua và dự
trữ. Một doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là
doanh nghiệp đó đã xác định được lượng lao động cần thiết và doanh
nghiệp đã biết kết họp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu
quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá đầu vào phải đảm bảo, chi phí
mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ là đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bị bỏ lỡ cơ hội
kinh doanh nên để đồng vốn có hiệu quả thì phải xác định mức dự trữ
hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng
chi phí bảo quản.
Khâu sản xuất (đối với các doanh nghiệp thương mại không có
khâu này). Trong giai đoạn này phải xắp xếp dây chuyền sản xuất cũng
như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả nhất khai
22
thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy đảm bảo kế hoạch sản
xuất sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu đồng
thời phải có những biện pháp thích ứng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh

nghiệp tái sản xuất.
- Trình độ sản xuất:
Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo.
Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh
là rất quan trọng. Sự điều hành quản lý và sử dụng vốn hiệu quả thể hiện
ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần
thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp
sự tăng trưởng và phát triển.
Trình độ tay nghề của công nhân lao động.
Nếu công nhân sản xuất có tay nghề cao phù hợp với trình độ
công nghệ của dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ
tốt hơn, khai thác tối đa công suất máy móc thiết bị làm tăng năng suất
lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
23
Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả nhất, doanh nghiệp
phải có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách
công bằng sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn và ngược lại.
-Trình độ quản lí:
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ
thống kế toán - tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số
liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh
nghiệp nói chung, cũng như việc sử dụng vốn nói riêng, trên cơ sở đó ra
quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán kế toán nội bộ
doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
nên cũng tác động đến quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán
mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp sớm
tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp xử lý giải quyết.

1.3.2.Các nhân tố khách quan

- Yếu tố thị trường:
Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động rất lớn tới hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu thị trường sản phẩm ổn định thì sẽ là tác
nhân tích cực thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở
rộng thị trường. Nếu sản phẩm mang tính thời vụ thì sẽ ảnh hưởng tới
24
doanh thu, quản lý sử dụng máy móc thiết bị và tác động tới hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp
- Môi trường sản xuất:
Môi trường tự nhiên: có tác động không nhỏ đến công việc sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện về khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên, sự ổn định cuả thời tiết, thiên tai lũ lụt ảnh hưởng trực tiếp
đến công việc sản xuất sản phẩm, bảo quản sản phẩm, bảo trì thiết bị máy
móc phục vụ quá trình sản xuất. Yếu tố mùa vụ cũng tác động lớn đến kế
hoạch sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Môi trường xã hội: các phong tục tập quán ảnh hưởng đến cả
quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thói quen tiêu dùng của các tầng
lớp xã hội cũng tác động đến công việc sản xuất của doanh nghiệp.
- Chính sách phát triển kinh tế của nhà nước:
Các chính sách phát triển kinh tế và của chính phủ có tác động
lớn đến công việc sản xuất kinh doanh của công ty. Sự ổn định của
đường lối phát triển tạo lên sự ổn định và yên tâm cho việc kinh doanh
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hành lang pháp lý và chính sách thúê của chính phủ có ảnh
hưởng trực tiếp đến vịêc sản xuất kinh doanh và kế hoạch sản xuất của
doanh nghiệp.
-Tiến bộ khoa học kĩ thuật:
Tiến bộ của khoa học kỹ thuật có tác động rất lớn đến chất
lượng của sản phẩm nhưng cũng gây sức ép cho doanh nghiệp trong việc
đổi mới trang thiết bị máy móc trang thiết bị sản xuất.

25

×