TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
BÀI THUYẾT TRÌNH
Đề tài:
TP.HCM, ngày 28-09-09
Mục Lục
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1. Thế giới
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải phóng con
người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được
học thuyết khoa học và cách mạng soi đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các
nước trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như:
Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập
(1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng khẳng định giá trị thực tiễn
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của
giai cấp vô sản thế giới bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ
nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến
phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ
nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và
dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác -
Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng
chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng
dẫn dắt phong trào cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách
mạng vô sản.
2. Việt Nam
Thực dân Pháp xâm lược nước ta biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến. thực dân pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nô dịch về
tinh thần. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân
dân (chủ yếu là nông dân). Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ
bản đó để đưa dân tộc tiến lên.
Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng rút cuộc, đều không
giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra, nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân
tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến.
Phong trào đấu tranh đòi độc lập bùng nổ cần thiết phải có một chính đảng lãnh đạo
với đường lối đúng đắn, từ thực tiễn đó “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” (1925) ra
đời nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước
ở Việt Nam. Những bài giảng trong lớp huấn luyện cán bộ của Hội đã được Hồ Chí Minh
tập hợp lại và xuất bản thành tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927).
II- Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm
1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn hai
mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống
nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc
là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm
bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con đường cụ thể
để giành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách áp bức bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc.
Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con
đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết
hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích của giai cấp
vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phải giải quyết
trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải
phóng dân tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Tác giả đưa dẫn chứng các
cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam phải giành
thắng lợi triệt để: “Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc,
phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Cách mạng phải độc lập và sáng tạo, tự lực, tự
cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết giành
thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp
cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản, xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao.
2. Nội dung của tác phẩm
a. Tư cách một người kách mệnh : Đây là nội dung quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nêu
ra những biểu hiện cụ thể về tư cách của một người cách mạng.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn làm cách
mạng thành công, người cách mạng trước hết phải có tư cách cách mạng. Tư cách của
người cán bộ cách mạng là sự thống nhất biện chứng 3 mối quan hệ cơ bản nhất của con
người: quan hệ với mình, quan hệ với mọi người và quan hệ với công việc. Tự mình phải:
cần, kiệm, hòa mà không tư, cả quyết sửa chữa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát;
hay hỏi, nhẫn nại (chịu khó); hay nghiên cứu xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh,
không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng tham muốn về
vật chất; bí mật. Đối với người phải: với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì
nghiêm, có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo, hay xem xét người. Làm việc
phải: xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể”. Hồ Chí
Minh khẳng định: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Tuy nhiên Hồ Chí Minh
cũng nhấn mạnh rằng, người cán bộ, đảng viên không thể tự bằng lòng về cái đức của
mình mà phải có cả tài mới đảm đương được công việc, mới có khả năng làm chủ đất
nước. “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”. Vì
vậy người cách mệnh phải đảm bảo vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Tự mình phải:
- Cần kiệm
+ Cần: là sự lao động cần cù sáng tạo, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có kế hoạch, có
năng suất, chất lượng cao. Những thói hư, tật xấu lười lao động, ăn bám, ăn cắp, làm láo
báo cáo hay vô tổ chức, vô kỷ luật là không phù hợp với đạo đức phẩm chất cách mạng.
Bác Hồ rất ghét kẻ đạo đức giả, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo. Người
cho rằng kẻ đó làm giảm đi lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Cần phải đi đối với chuyên. Nếu không chuyên thì cũng vô ích. Cần không phải là
xổi. Phải biết nuôi dưỡng sức khoẻ, tinh thần và lực lượng để làm việc lâu dài. Một người
lười biếng sẽ làm chậm và ảnh hưởng đến công việc của rất nhiều người khác. Cần là nâng
cao năng suất lao động.
Khi nói với công nhân, những người trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, thì
Bác nhắc: "Phải nâng cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm
thì thôi, nghỉ sớm, không ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội
không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy không có kỷ luật lao động, không
phải là nhà máy tốt. Kỷ luật lao động không phải Bác đưa ra hay ở đâu đưa đến, mà chính
là các cô, các chú bàn bạc, thông qua, tự giác thi hành. Thông qua rồi, ai không theo
không được”.
+ Kiệm là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, đó là tiết kiệm sức
lao động, thời giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân từ cái nhỏ, đến cái lớn. Bởi vì,
của cải nếu hết còn có thể làm ra được, còn thời gian đã qua đi, không bao giờ quay trở lại.
Muốn tiết kiệm thời gian, bất kỳ việc gì, nghề gì cũng phải chăm chỉ, làm nhanh. Không
nên ngồi lê, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác. Theo Bác tiết kiệm
không phải là “bủn xỉn”, “tiết kiệm là quốc sách”. “Cần” với “kiệm” đi đối với nhau như
hai chân của một người. “Cần” mà không “kiệm” “thì làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng
như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại
hoàn không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. .Ví dụ ở
trang 446 tác giả viết “10 người muốn ăn cơm, mỗi người riêng một nồi, nấu riêng một
bếp, nấu rồi ăn riêng, ăn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì mất hết bao nhiêu
củi, nước, công phu và thì giờ”
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, ở (Trang 437) tác giả có viết thực hành tiết
kiệm bằng cách: Khi tổ chức Công hội có tiền thừa, thì nên làm những việc như lập trường
học cho công nhân, con cháu công nhân, lập nơi xem sách báo, nhà thương, nhà ngủ, nhà
hát
Hòa mà không tư có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi
ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì
Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Trong “Tổ chức
công hội” có viết ở trang 436 “Đại biểu phải báo cáo tình trạng và ý kiến của công nhân
không phải ý kiến riêng mình, đề nghị và bàn bạc các việc. Khai hội rồi, phải về báo cáo
việc hội cho công nhân”. Đó là tấm gương đoàn kết chí công vô tư cao thượng và đúng
đắn. Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người uyên thâm Nho học. Phải
chăng "hòa mà không tư" gần với mệnh đề Nho giáo "thân với mọi người mà không kết
đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua" song được Người nâng lên ở tầm cao mới,
đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người
gọi là nghĩa lớn đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là
mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì mục đích có đồng thì chí mới đồng, chí
có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại
nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là
hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ. Trong lịch sử nước ta đã từng có những
tấm gương gác hận thù riêng vì đại nghĩa, vì lợi ích sống còn của dân tộc, vì nền độc lập
của Tổ quốc. Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng quên mình vì đại
nghĩa "Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và
hạnh phúc của nhân dân". Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết
phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn kết một lòng vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Để đại đoàn kết với mọi người, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho mọi người. Bác Hồ
quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự, người phục vụ gần gũi đến
quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người
quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Ngoài
sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần
của mọi tầng lớp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu cho chúng ta tấm gương đoàn kết rộng rãi bởi một lẽ
rất giản đơn: Người muốn huy động tiềm năng của cả dân tộc vào sự nghiệp chung, Người
luôn mong muốn thêm bạn bớt thù. Người tin ở tính hướng thiện của mọi người, trong bất
cứ con người nào và Người cũng tìm thấy những nhân tố tốt đẹp đó.
- Cả quyết sửa lỗi mình:
Mục đích của việc cả quyết sửa lỗi thì theo Bác Hồ là cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp
nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn; mỗi cán bộ, đảng viên
hằng ngày phải kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt, được như
thế trong Ðảng sẽ không có bệnh và Ðảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng. Trong tác phẩm có đoạn
viết cụ thể là trang 401 sau cuộc cách mệnh năm 1905 thất bại Đảng đã nghiên cứu lại,
phê bình lại, sai lầm ở đâu, vì sao mà thất bại? Biết rõ ràng những chỗ khuyết điểm mà sửa
sang lại. Việc biết nhận ra lỗi và sửa lỗi có liên quan đến vấn đề đoàn kết trong Ðảng. Do
vậy, mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết, như
Bác nói: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình
đồng chí và những người xung quanh, phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để
đi đến càng đoàn kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn
nữa”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan ở mỗi người, đến sức mạnh
của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người nói: “Muốn làm cách
mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên”. Hồ Chí Minh nhắc lại câu của Khổng Tử:
“Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị
quốc bình thiên hạ” được Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình
không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải
tạo xã hội làm sao được”.
- Cẩn thận mà không nhút nhát: Làm việc gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận, nhưng cẩn thận
ở đây không có nghĩa là quá nhút nhát, không dám đương đầu với khó khăn gian khổ đồng
thời phải xem xét hoàn cảnh thực tế rồi mới hành động khi có thời cơ thuận lợi thì phải
mạnh dạn, dũng cảm, quyết đoán, có như vậy thì mới đem lại kết quả.
- Hay hỏi: Người cách mệnh luôn phải tự mình đặt ra những câu hỏi cần phải làm gì và
làm như thế nào, bên cạnh đó cần phải học hỏi, tiếp thu ý kiến của người khác không dấu
dốt. Thể hiện tinh thần cầu thị, cầu tiến bộ của người cách mạng. Phải nỗ lực học tập mọi
lúc mọi nơi, học thầy học bạn, để nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
giao cho, không dấu diếm khuyết điểm, không dấu dốt.
- Nhẫn nại: Cách mạng là sự nghiệp lớn lao và luôn diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn vì
vậy đòi hỏi người cách mệnh phải kiên trì bền bỉ chịu đựng những khó khăn trong công
việc, đây là một đức tính rất quan trọng và cần thiết để giành được thắng lợi cuối cùng.
Hay nghiên cứu xem xét : Khi làm cách mạng đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các cuộc
cách mạng trên thế giới. Qua đó Hồ Chí Minh thấy rằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga là
đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật không phải tự do bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho
công, nông các nước và dân bị áp bức ở các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế
quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất.
- Vị công vong tư: Là luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân vì lợi ích của
tập thể có thể hi sinh lợi ích của bản thân. Đây là một trong những đức tính tạo nên phẩm
chất cao quý của người cách mệnh.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo: yêu cầu người cách mạng phải hết sức khiêm tốn,
phải phục tùng sự phân công của tổ chức, không hiếu dân, hiếu vị, không lên mặt dạy đời;
không coi thường cấp dưới, không nịn nọt cấp trên, không chạy theo danh lợi cá nhân mà
phải đặt lợi ích chung của tập thể, mục tiêu vì sự nghiệp cách mạng lên trên, không vì lợi
ích cá nhân mà ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn
gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, dụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn
giữ vững tinh thần người cách mệnh “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” lo hoàn thành
nhiệm vụ tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không quan liêu, không kiêu ngạo,
không hủ hóa. Khi đã là người có chức quyền thì không tỏ ra kiêu ngạo, coi mình là trên
hết mà coi thường quần chúng. Trang 434 trong tác phẩm khi nói về cách tổ chức công hội
Bác viết “người cách mệnh chớ có bỉ thử mình khéo hơn, lương cao hơn mà khinh người
vụng và ăn tiền ít. Chớ cậy mình là nhiều tuổi mà muốn làm đàn anh,…”
- Nói thì phải làm : Người cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải có tinh thần phụ
trách, thành tâm phụ trách. Khi đã có quyết định chính xác thì phải quyết tâm thực hiện,
dù khó khăn đến mấy cũng phải tìm mọi cách để cho quyết định được thực hiện. Bác
thường nói: “Quyết tâm không phải ở hội trường, ở lời nói, mà phải quyết tâm trong công
tác, trong hoạt động Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm
khắc phục khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính
phủ bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được”. Khẳng định
một trong ba nguyên tắc đạo đức của Người: Nói thì phải làm; xây đi cùng với chống và tu
dưỡng đạo đức suốt thời. Ở đây chúng tôi xin đi sâu vào nguyên tắc đầu tiên của đạo đức
trong tư tuởng Hồ Chí Minh là "Nói thì phải làm". "Nói thì phải làm", chỉ với bốn từ đơn
giản tưởng chừng như rất dễ thực hiện ấy, nhưng suốt cả cuộc đời mình Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không ngừng phấn đấu làm gương cho sự thống nhất giữa tư tưởng, lời nói với
hành động và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quanh vinh và
Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc,
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và với
bản thân mình, Bác đã làm đúng như khi trả lời các nhà báo nước ngoài năm 1946 "Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động, lời
nói đi đối với việc làm, là điều không dễ, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng, bền bỉ và một
quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé, khó hay dễ, phức tạp hay
giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Kết quả
công việc là thước đo của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên và những người làm công
tác lãnh đạo thì lời nói với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của
mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Lời nói đi đôi với việc làm, nói được làm được, sẽ mang lại những hiệu quả lớn, được
nhiều người hưởng ứng và làm theo. Để làm được điều đó, khi đề ra công việc tránh cách
nói chung chung, đại khái và khó hiểu, cần phải cụ thể, thiết thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp
đến cao, từ dễ đến khó. Ngược lại nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm thì sẽ chỉ mang
lại những kết quả phản tác dụng. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì
không được. Nếu rói rằng phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mà bản thân mình lại
lười biếng, không hoàn thành những công việc được giao, không tiết kiệm, sống hoang
phí, xa hoa trong khi cuộc sống của đại đa số nhân dân còn nhiều thiếu thốn , luôn tìm
cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân thì những lời nói đó sẽ không có tác dụng
giáo dục.
Để có một xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân dân thực sự được hưởng một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đất nước ngày càng mạnh giàu, hơn lúc nào hết lối sống mình vì mọi
người, mọi người vì mình, phương châm và nguyên tắc sống "Nói thì phải làm" cần phải
được thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Làm đựơc như vậy là chúng
ta đã làm tốt những điều mà lúc còn sống Bác Hồ luôn mong muốn và căn dặn.
- Giữ chủ nghĩa cho vững: là phẩm chất hàng đầu, là yêu cầu cốt yếu nhất của người cách
mạng. Đó là phải giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, suốt đời trung thành, kiên định với lý
tưởng cách mạng. Có như vậy mới xây dựng được niềm tin vững chắc vào tương lai tươi
sáng của cách mạng, không dao động trước khó khắn gian khổ, thậm chí hi sinh cả tính
mạng mình.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". Người khẳng định dứt khoát: "Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin". Trong tình hình hiện nay càng phải khẳng định niềm
tin đó. Nếu chúng ta để mất niềm tin sẽ mất tất cả.
Trong sự nghiệp cách mạng các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác – Lênin, với những thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ, gây rối, tìm mọi cơ hội để gây bạo
loạn lật đổ chính quyền. Vì vậy, đòi hỏi người cách mạng phải luôn giữ vững lập trường tư
tưởng chính trị, kiên định với con đường đã chọn – cách mạng vô sản.
- Hy sinh: Lý tưởng cộng sản vô cùng trong sáng, tươi đẹp. Nhưng để đi đến tương lai tươi
sáng đó là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ vượt qua bao khó khăn thử thách.
Vì chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không bao giờ chịu từ bỏ quyền lợi của mình
mà luôn tìm mọi cách, thủ đoạn nham hiểm, tàn bạo để thực hiện mưu đồ của chúng. Nên
mỗi người khi bước vào hoạt động cách mạng phải xác định tinh thần sẳn sàng hi sinh cho
lý tưởng công sản, kể cả hi sinh cả tính mạng mình.
- Ít lòng tham muốn về vật chất: Là không tham danh vị, không tham tiền. Có gan chống
lại những ham muốn vinh hoa, phú quý không chính đáng. Ngay từ năm 1927, khi còn
đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, mở các lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt
Nam, chuẩn bị cho công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, Bác đã nhắc tới
điều này trong tác phẩm Ðường Kách mệnh. Bác rất ghét những kẻ luôn tìm cách đút túi
mình tài sản của dân, bởi tham ô là thói rất xấu, rất có hại, không những phí phạm của cải
của xã hội, mà còn làm vẩn đục chế độ, mất cán bộ. Tham ô là tội ác.
- Bí mật: Trong cách mạng phải đề ra đường lối , xây dựng tổ chức, trong tổ chức có sự
đoàn kết thống nhất cao. Giữa tổ chức và cá nhân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau nên người cách mệnh trong quá trình hoạt động, phải luôn tuyệt đối giữ bí mật về tài
liệu công tác tổ chức
Đối với người phải
- Với từng người phải khoan thứ: nêu cao tình cảm cách mạng cao cả của những người
cùng chí hướng, luôn khoan dung, độ lượng. Khi đồng chí mắc khuyết điểm phải góp ý
chân thành với ý thức xây dựng tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng chí sửa chửa khuyết
điểm, không dấu diếm khuyết điểm, nhưng cũng không ghen ghét, đố kị hoặc có ấn tượng
xấu với người mắc khuyết điểm.
- Với đoàn thể thì nghiêm: nêu cao ý thức tập thể,luôn đặt lợi ích tập thể lên trên hết,
trước hết cách mạng không loại trừ tự do cá nhân, nhưng yêu cầu mỗi người cách mạng
phải biết đặt lợi ích cá nhân trong lợi ích tập thể. Khi được tổ chức cách mạng giao nhiệm
vụ thì phải tuyệt đối phục tùng, dù phải vượt qua gian khổ hoặc phải hy sinh tính mạng.
- Có lòng bày vẻ cho người: thể hiện lòng vị tha, những gì mình biết người khác chưa
hiểu phải luôn tìm cách giúp đỡ , bày vẽ để cùng tiến bộ và hoàn thành nhiệm vụ chung.
Có lòng bày vẽ cho người hoàn toàn khác với thói ích kỷ, tự cao tự đại.
- Trực mà không táo bạo: phẩm chất thẳng thắn, trung thực, quyết đoán nhưng không vội
vàng hấp tấp khi giải quyết công việc nhất là khi góp ý cho người khác phải nghiên cứu,
phải xem xét hoàn cảnh cụ thể, toàn diện, đúng mức. Tránh chủ quan, phiến diện, nóng vội
dễ dẫn đến thất bại.
- Hãy xem xét người: thể hiện tinh thần tập thể cao, đồng thời phải thường xuyên quan
tâm giúp đỡ, sống chan hòa, thân ái với đồng chí đồng đội luôn học hỏi lẫn nhau những
điều hay, điều tốt, góp ý chân thành những thiếu sót, khuyết điểm cùng nhau sửa chữa,
cùng tiến bộ.
Làm việc phải:
- Xem xét hoàn cảnh kĩ càng: trước khi thực hiện công việc phải nghiên cứu, phải đánh giá
điều kiện khách quan chủ quan, thuận lợi, khó khăn, khả năng tổ chức thực hiện để có
quyết định đúng đắn: tránh vội vàng, chủ quan phiến diện sẽ dẫn đến thất bại.
Trước sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, tác giả quyết định ra đi tìm đường cứu nước,
Người nhận ra để được tự do cần phải lãnh đạo toàn dân đoàn kết chống giặc để làm được
điều đó phải làm cách mệnh. Vậy cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ, phải
giảng giải lí luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, dân vì không hiểu tình thế trong thế giới,
không biết so sánh, không có mưu chước, chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không
làm. Cách mệnh phải hiểu phong triều, phải bầy sách lược cho dân. Do đó để làm cách
mệnh thành công phải xem xét hoàn cảnh trong và ngoài nước để từ đó tập trung lực
lượng đánh giặc. Khi vừa lấy được Pari, chính quyền còn non trẻ, các thế lực phản cách
mạng tìm mọi âm mưu thủ đoạn để chống phá, trong hoàn cảnh đó công xã không xem xét
kĩ càng, đúng đắn, tổ chức không khéo léo đưa ra những quyết đoán sai lầm, dẫn đến việc
công xã Pari tan rã.
- Quyết đoán: : thể hiện tác phong, phương pháp giải quyết công việc một cách dứt khoát.
Khi đã nhận nhiệm vụ cách mạng giao cho thì phải kiên quyết tìm mọi cách thực hiện;
không rụt rè, bàn lùi, thoái chí sẽ dẫn đến thất bại, việc tốt, việc hay, việc có lợi cho cách
mạng thì dù nhỏ cũng kiên quyết làm; việc xấu việc sai, dù có đem lại lợi ích cho bản thân
thì cũng kiên quyết tránh.
Làm cách mạng rất khó khăn và nguy hiểm, vì vậy người cách mạng phải suy xét hoàn
cảnh và đưa ra quyết định phù hợp đối với cách mạng, phải quyết đoán không do dự làm
lỡ mất thời cơ. Tại trang 403 khi nói về quyết đoán thì tác giả viết: Cuối tháng 10, đâu
cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muộn cử sự. Nhưng ông Lê-nin bảo “Khoan đã! Chờ ít bữa
nũa cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự”. Đến ngày 5-11, chính phủ khai
hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho công, nông. Ông Lênin nói với
đảng viên rằng: mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa
biết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét chính phủ lắm. Mùng 8 cử sự thì
muộn quá vì khi ấy chính phủ biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm nhặt rồi. Quả
nhiên ngày mồng 7 Đảng cộng sản hạ lệnh cách mệnh, thì thợ thuyền ào đến vây Chính
phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp thì lính ùa theo thợ thuyền
mà trở lại đánh Chính phủ.
- Dũng cảm: đức tính cao quý của người cách mạng, thắng không kiêu, bại không nản, tìm
mọi cách để thực hiện mọi cách để thực hiện nhiệm vụ được giao, dù phải vượt qua vô vàn
khó khăn, gian khổ, thậm chí hy sinh cả tính mạng cũng quyết tâm hoàn thành. Trong
cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh vì
vậy nếu như không có lòng dũng cảm thì không thể làm cách mạng thành công. Trong tác
phẩm Hồ Chí Minh (Trang 393) có nhắc đến nhân dân Pháp trong cách mệnh Pháp; Dân
Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nổi
loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính cách mệnh gọi là “Lính không quần”, gầy bụng
đói. Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đấy. Thế thì biết một người cách
mệnh có gan hơn một người vô chí.
- Phục tùng đoàn thể: người cách mạng tham gia hoạt động trong một tổ chức đoàn thể
nhất định, nên đòi hỏi phải có ý thức tập thể, tính kỷ luật cao. Khi được tổ chức, toàn thể
phân công công tác thì phải tuyệt đối chấp hành; phải đặt lợi ích của đoàn thể lên trên hết,
sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân vì lợi ích của đoản thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng
ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý
thức tổ chức nghiêm. Người chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ
như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và
tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính
quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi đảng viên phải ra sức
góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công. "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác
khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng, của tập
thể trước lợi ích của cá nhân. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Trong một số trường
hợp cá nhân phải biết hi sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của tập thể.
Tóm lại: “Tư cách của một người cách mệnh” là phác thảo cơ bản và hoàn chỉnh đầu
tiên về đạo đức để người cách mạng có đủ uy tín tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Đó là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần cách mạng tiên tiến, triệt để của giai cấp công nhân
và truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năn
dựng nước và giữ nước.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đúc kết
và hoàn thiện đạo đức cách mạng để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên, mà chính
Người là hiện thân mẫu mực của đạo đức đó. So với những phẩm chất đạo đức nêu trong
“Đường cách mệnh” thì phẩm chất đạo đức của cán bộ đảng viên trong thời đại Hồ Chí
Minh đã kế thừa và phát triển lên tầm cao mới, sâu sắc hơn, đáp ứng được yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng và phù hợp với trình độ của Đảng viên đã được rèn luyện, thử
thách qua đấu tranh cách mạng và nó tạo thành khuôn mẫu đạo đức chung của khuôn mẫu
đảng viên.
Tác phẩm “Đường cách mệnh” vạch ra tư cách đạo đức người cách mệnh, Đặc
biệt, Đường Cách Mệnh còn đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng xây dựng giá
trị đạo đức mới đối với người cách mạng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, học tập
chúng ta thấy vấn đề đạo đức xã hội nói chung và đạo đức người cách mạng nói riêng luôn
luôn được Hồ Chí Minh hết sức coi trọng, trong mối quan hệ “đức-tài”, “hồng-chuyên”.
Người luôn coi “đức” là cái gốc cái căn bản nhất để trên nền tảng đó nảy nở tài năng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức thì không
làm được việc gì cả thậm chí còn dẫn đến sai lầm. Trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc cách
mạng lâu dài và gian khổ của dân tộc.Vị anh hùng của dân tộc Hồ Chí Minh luôn chú tâm
nghiên cứu đúc kết thành những tiêu chí đạo đức cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử
để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, và chính Người là hiện thân trong sáng nhất, trọn
vẹn nhất của đạo đức cách mạng là tấm gương cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta, thế hệ
mai sau học tập và làm theo.
So sánh với chủ nghĩa anh hùng cá nhân:
Chủ nghĩa anh hùng cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình lên trên tổ chức, lên trước
lợi ích chung của dân tộc. Đó là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra nhiều chứng bệnh khác như:
tự tư tự lợi, sợ khó sợ khổ, không yên tâm công tác; ham địa vị danh tiếng; lãng phí, tham
ô; quan liêu, mệnh lệnh. Chủ nghĩa anh hùng cá nhân trái ngược với chủ nghĩa tập thể, nó
là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chủ tịch lên án: “Chủ nghĩa anh hùng cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: Quan
liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô lãng phí Những người này bất kỳ việc gì
cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ gì
đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. (xem Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội - Nhà
xuất bản Sự Thật Hà Nội 1970, trang 188).
Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người cộng
sản. Đó là phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản.
Đó là con người một lòng một dạ, có kỷ luật có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đoàn thể,
đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân.
“Tư cách người cách mệnh” khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng cá nhân, chủ nghĩa anh
hùng cá nhân đặt mình lên trên tổ chức, đề cao cái tôi còn trong tác phẩm “đường cách
mệnh”đạo đức của người đảng viên cộng sản phù hợp với truyền thống đạo đức của dân
tộc ta, đáp ứng yêu cầu của cách mạng và cũng rất đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin về đạo đức của người cách mệnh. “Tư cách người cách mệnh” đã dễ dàng chinh
phục lòng người, tiếp thêm sức mạnh và định hướng phấn đấu cho tất cả những ai yêu
nước, thương nòi, muốn giải phóng quê hương xứ sở ra khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng
đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn
luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn
luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa
cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu
cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải ra sức học
tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ,
là lạc hậu sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải".
“Tư cách người cách mệnh” có giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức
học ở Việt Nam.
Nội dung 2: Con đường cách mạng Hồ Chí Minh nêu ra khái niệm cách mệnh.
Người đề cập đến 3 loại hình cách mệnh so sánh các loại hình ấy và rút ra kinh
nghiệm cho cách mạng Việt Nam từ đó Hồ Chí Minh đã xác định con đường mà cách
mạng Việt Nam phải theo; những nội dung mà cách mạng Việt Nam phải thực hiện.
1. Khái niệm cách mệnh.
“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”.
Vd: ông Galile (1633) là khoa học cách mệnh. Ngày xưa ai cũng tưởng rằng giời tròn đất
vuông, nhân kinh nghiệm và trắc đạc, ông ấy mới quyết định rằng trái đất tròn và chạy
chung quanh mặt trời (trang 382).
2. Các loại cách mệnh.
Có ba loại hình cách mệnh:
- Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776;
Nhật cách mệnh năm 1864.
- Dân tộc cách mệnh: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn Thanh 1911.
- Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính quyền 1917.
So sánh các loại hình cách mệnh.
a) Nguyên nhân dẫn đến các cuộc cách mệnh .
- Tư bản cách mệnh: Địa chủ hết sức ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết sức phá địa
chủ, hai bên xung đột nhau làm thành ra tư bản cách mệnh.
Tư bản ở thành phố là tư bản mới, nó có lò máy và làm ra hàng hóa. Có lò máy thì muốn
có nhiều thợ làm công cho nó. Làm ra hàng hóa muốn nhiều người mua nó. Muốn nhiều
người mua bán thì muốn giao thông thuận tiện.
Tư bản ở hương thôn là địa chủ, nó muốn giữ những chế độ phong kiến, thổ địa nhân dân;
ở chỗ nào chủ quyền đều về tay bọn quyền quí ở đấy cả; nó đối với nhân dân, coi như trâu
nó bắt ở yên một chỗ để cày ruộng cho nó, nó đối với người đi buôn thì hàng hóa nó muốn
lấy thuế bao nhiêu thì lấy, không có chừng độ tiền bạc mỗi xứ một thứ, đi lại phải xin
chúng nó cho phép, nó làm nhiều cách trở ngại cho việc buôn bán mới. (Tr 383)
=> Mâu thuẫn về quyền lợi nên tư bản mới và tư bản ở hương thôn luôn chống đối nhau
kịch liệt. Vd ở Mỹ từ 1861 đến 1865, mấy tỉnh phía Bắc (tư bản mới) cử binh đánh lại
mấy tỉnh phía nam (điền chủ) như hai nước thù địch. (Tr 384)
- Dân tộc cách mệnh: một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu lấy võ lực cai
trị dân nước ấy, và dành hết cả quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do
độc lập, lại làm ra được bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy nhiêu.
Nói tóm lại là bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp đối với An Nam.
Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết
được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi, ấy là dân
tộc cách mệnh.
- Giai cấp cách mệnh: trong thế giới có hai giai cấp
Tư bản: không làm gì mà hưởng lợi.
Công nông: làm khó nhọc mà không được hưởng lợi được hưởng.
Vd như người thợ An Nam làm 11 giờ/ngày nhưng lương chỉ được hưởng 3 hào, ăn chẳng
đủ ăn mặc không có mặc, đau không có thuốc chết không có hòm. Còn anh chủ mỏ không
bao giờ nhúng tay đến việc gì mà nó ăn sung mặc sướng, lên ngựa xuống xe, mỗi năm lại
được mấy mươi triệu đồng lời (trang 385).
Nước ta như vậy các nước khác cũng vậy. Công nông cũng không chịu nổi, đoàn kết nhau
đánh đuổi tư bản đi, như bên Nga ấy là giai cấp cách mệnh. Nói tóm lại giai cấp bị áp bức
cách mệnh để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình.
b) Tính chất các loại hình cách mệnh.
Đối với tư bản cách mệnh: tiêu biểu là cách mệnh Mỹ và cách mệnh Pháp.
- Mỹ là một nước giàu có về tài nguyên. Anh thì có lòng tham, muốn hốt về cho mình cả
vì vậy có bao nhiêu thổ sản Mỹ phải cung cấp cho Anh hết Mỹ không được lập ra lò máy
và không được buôn bán với nước nào lại thêm thuế má nặng nề. Việc này như lửa rơi vào
thuốc súng, dân tức quá thì nổ, sống chết cũng quyết đuổi được chính phủ Anh thì thôi.
Kết quả ngày 4-7-1776 thì cách mệnh Mỹ tuyên bố độc lập và nước Mỹ thành ra nước
cộng hòa.
Tuy cách mệnh Mỹ thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ,
vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Vì cách mệnh Mỹ là cách Mệnh tư bản, mà cách
mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi đó là cuộc cách mệnh chưa triệt để.
- Cách mệnh Pháp: hồi thế kỉ thứ 18, vua thì xa hoa dâm dật; quí tộc và bọn cố đạo thì
hoành hành; thuế nặng dịch phiền, dân tình khốn khổ. Tư bản mới bị tụi phong kiến ngăn
trở, dân thì bị vua, quí tộc và cố đạo áp bức. Vậy nên tư bản mới liên hiệp với học trò, dân
cày và người thợ để phá phong kiến. Từ năm 1792-1804 Cộng hòa lần thứ nhất. Năm 1804
Napoleong phản cách mệnh lên làm hoàng đế. Năm 1814 các nước đánh napoleong thua
rồi đem dòng vua cũ lên ngôi đến 1848. Năm 1848 lại cách mệnh lần thứ 2. Năm 1852
cháu Napoleong lại phản cách mệnh lên làm vua. Năm 1870 nhân thua Đức, Napoleong
thứ 3 bỏ chạy, Pháp lại lập nên cộng hòa lần thứ 3.
Công xã Pari: năm 1871 vua Pháp bỏ chạy, lính Đức tới vây Pa ri. Tư bản Pháp cắt hai
tỉnh cúng cho Đức để cầu hòa. Vì giặc giã mà chết nhiều người, hại nhiều của. Dân không
bánh ăn, thợ không công làm. Ngày 18-3 thợ thuyền Pa-ri nổi lên làm cách mệnh cộng sản
(công xã). Nhưng vị thợ thuyền còn non nớt, tổ chức không khéo, vả lại Đức giúp cho tư
bản Pháp đánh lại thợ thuyền, nên cuối tháng năm thì cách mệnh thất bại.
=> Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa.
Đối với giai cấp cách mệnh và giai cấp cách mệnh: cách mạng Nga
- Nga là một nước rất rộng, nữa nằm về Châu Á, nữa nằm về Châu Âu. Dân Nga hơn 90
phần là dân cày không đầy 10 phần là thợ thuyền khi trước theo chế độ nông nô bao nhiêu
ruộng đất và dân cày đều dưới quyền địa chủ. Địa chủ xem nông nô như súc vật, nó cho
sống thì sống nó bắt chết thì chết. đến nửa thế kỷ 19 tư bản mới hơi phát đạt mở lò máy
vận động dân cày tới làm cho nó bỏ chế độ nông nô.
Tư bản mới và địa chủ mới sinh ra hiềm khích to phong triều cách mệnh công nông nổ ra.
Được giải phóng, nông nô người thì ra thành phố làm công người thì ở lại làm ruộng. đi
làm công tiền công ít, làm nhiều, nô lệ cho tư bản, ở lại cày thì đất ruộng ít trâu bò thiếu,
phải chịu luồn cúi bọn nhà giàu. Dân tự do nhưng kỳ thực sống kiếp nô lệ, thợ cực khổ.
Năm 1875 có đảng cách mệnh “công nhân giải phóng”, năm 1878 có đảng mới gọi là công
đảng nhưng hai đảng ấy người ít sức hèn, bị chính phủ bắt bớ nhiều, sau hóa ra đảng kịch
liệt chỉ lo ám sát vua và các quan. Kết quả tuy làm được nhiều sự ám sát oanh liệt nhưng
vì đi sai đường cách mệnh, không có sức dân chúng làm nền cho nên bị chính phủ trị mãi
đến nỗi tan. Năm 1904- 1905 Nga với Nhật đánh nhau, nhân lúc lúc dân tình xục rục,
Đảng ra sức vận động cách mệnh. Cách mệnh 1905 thất bại, thợ thuyền mới hiểu rằng một
là phải có tổ chức vững vàng, hai là phải liên lạc với dân cày, ba là phải vận động lính,
bốn là không tin được cải lương, thỏa hiệp, năm là là phải đuổi vua và đuổi cả tư bản.
Cách mệnh 1905 thất bại là gương cho cách mệnh 1917 thành công.
Cách mệnh 1917 nổ ra do nhiều nguyên nhân :
− Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Anh , Pháp lợi dụng vua Nga đánh Đức nhưng
bị Đức đánh thua mãi các đế quốc chủ nghĩa giận và giúp cho tư bản đẩy vua đi
− Tư bản giận vua chỉ tin dùng bọn quí tộc cầm binh quyền, bọn quí tộc vô tài đánh đâu
thua đó. Vậy nên tư bản cũng muốn đẩy vua.
− Thợ thuyền và dân cày đối với vua như đối với thù địch.
− Bọn hoạt đầu thì lợi dụng cả hai bọn này, đuổi vua cho tư bản Nga và ĐQCN Anh và
Pháp. Tư bản và đế quốc lại lợi dụng bọn hoạt đầu.
Cuối tháng 10 đâu cũng có tổ chức đảng ai củng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo :
“Khoan đã ! chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối chính phủ lúc ấy sẽ cử sự”. Ngày
mùng 7 Đảng cộng sản hạ lệnh cách mệnh thì thợ thuyền aò đến vây chính phủ, dân cày ào
đến đuổi địa chủ. Từ bữa ấy chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng cộng sản cầm quyền tổ
chức ra chính phủ công, nông, binh, phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền, không bắt dân đi chết cho TB và ĐQCN nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực
hành chủ nghĩa thế giới đại đồng.
=> Như vậy cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật không phải tự do và bình đẳng giả dối.
Giai cấp cách mệnh và dân tộc cách mệnh l;à những cuộc cách mệnh đến nơi, đến chốn,
nhân dân lao động được hưởng hạnh phúc.
c. Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm các cuộc cách mệnh đối với cách mệnh An Nam.
− Cách mệnh Mỹ: chính sách Pháp đối với An Nam bây giờ xấu hơn Anh đối với Mỹ
trước. Anh chỉ ham tiền Mỹ, Pháp đã ham tiền lại làm mất nòi mất giống An Nam đi. Như
vậy dân An Nam phải học Mỹ mà làm cách mệnh.
+ Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính
cách mệnh lần hai vì cách mệnh Mỹ là cách mạng tư bản, là cuộc cách mệnh không triệt
để. Chúng ta đã hi sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là quyền phải giao
cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. thế mới khỏi hi sinh nhiều lần,
thế dân chúng mới được hạnh phúc.
− Cách mạng Pháp: cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp hẳn phải còn mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nhớ điều ấy.
Cách mệnh Pháp dạy cho chúng ta :
+ Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là tước đoạt.
+ Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền thì mới thành công.
+ Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều.
+ Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại.
+ Cách mệnh Pháp hi sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì
không nên sợ phải hi sinh.
- Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốc cách mệnh thì phải dân chúng (công nông)
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại
là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin.
3. Con đường cách mệnh
Tác giả phân tích kỹ Cách mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng này:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó
áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều
ấy”. “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật”.
Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã định hướng cho các mạng Việt Nam là đi theo con
đường Cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải thứ tự do
bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp khoe khoang ở Việt Nam”…
Đó chính là phương hướng của cách mạng Việt Nam, là con đường giải phóng thật sự cho
công nông và toàn thể dân tộc Việt Nam Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: Không có con
đường nào giải phóng cho dân tộc ngoài con đường của chủ nghĩa xã hội, con đường của
Cách mạng tháng Mười Nga.
- Về Đảng cách mệnh:
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, điều cốt yếu đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc
yêu cầu cách mệnh cần phải có đó là đảng cách mệnh. Người viết: “Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản mọi nơi”.
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn
hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy
giống nòi”. Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập tự do của
dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan
điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Người viết “ cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc
chung của một hai người”. Việc giải phóng dân tộc, chủ yếu là do nhân dân ta tự làm lấy,
vì vậy phải làm cho mọi người Việt Nam hiểu rõ “vì sao làm cách mệnh”, “ không làm
không được”.Nhưng muốn cách mạng thành công phải có Đảng lãnh đạo. Song nếu chỉ
dừng lại ở đó không thì chưa đủ, mà Đảng đó phải vững. Đảng muốn vững, muốn mạnh
phải có một lý luận soi đường. Lý luận đối với cách mệnh Đảng như trí khôn đối với
người, bàn chỉ nam đối với con tàu. Làm cách mạng mà không có lý luận soi đường như đi
trong đêm tối mà không có đuốc, phải mò mẫm rất khó. Do đó phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà không có chủ
nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. “ bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lê- Nin” ( trang 388).
Như vậy Đảng cộng sản phải là tổ chức lãnh đạo cao nhất của phong trào cách
mạng, Đảng là điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng, vì Đảng là đội
quân tiên phong của giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên
đấu tranh đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành dân chủ
nhân dân lập nên Nhà nước công nông.
- Về phương pháp cách mạng:
Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách mạng giữ vai trò hết sức quan
trọng. Đó là:
- Phải làm cho dân giác ngộ.
- Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu.
- Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân.
- Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của
một hai người” “Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều. Dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”.
- Phải biết tổ chức dân chúng lại, tác giả nhấn mạnh vai trò của tổ chức: cách mạng phải
có tổ chức rất vững bền thì mới thành công. Tác giả đưa ra cách tổ chức quần chúng như
công hội, dân cày, hợp tác xã, thanh niên, phụ nữ, quốc tế cứu tế đỏ
- Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
- Về lực lượng cách mạng:
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Đường cách mệnh nhấn mạnh tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực lượng cách mạng
bao gồm “sỉ, nông, công, thương”, trong đó công nông là “chủ cách mệnh”, là “gốc cách
mệnh”, vì công nông bị áp bức nặng hơn, công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn
hết, công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì
được cả thế giới, cho nên họ gan góc” còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị đế
quốc áp bức, song không cực khổ bằng công nông nên ba hạng ấy chỉ là “bầu bạn cách
mệnh của công nông”. Đường cách mệnh đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, vì vậy phải động viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng bùng lên “đánh
đuổi tụi áp bức mình đi”. Người phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh
hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ “xúi dân bạo động mà không biết cách tổ chức, làm cho
dân qien thói ỷ lại mà quên tính tự cường”. Quần chúng một khi được giác ngộ, có tổ chức
và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.
- Về đoàn kết quốc tế:
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các lực
lượng cách mạng thế giới: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng
cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)”.
Đường cách mệnh giành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị của quốc
tế cộng sản như : công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên… và hướng dẫn nhân dân Việt
Nam tham gia các tổ chức đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các phong trào cách
mạng thế giới “chúng ta cách mạng thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mạng
trên thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Người đưa ra những dẫn chứng
cụ thể, đầy sức thuyết phục để xác định lực lượng đồng minh quốc tế của cách mạng Việt
Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Cách mạng
Việt Nam cũng phải liên minh với cách mệnh Pháp và có thể thành công trước cách mệnh
Pháp. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai
làm cách mệnh trên thế giới cũng đều là đồng chí của nhân dân Việt Nam. Đã là đồng chí
thì sung sướng cực khổ phải có nhau.
Như vậy, về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn:
- Cách mạng Việt Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới.
- Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách
nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này.
- Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua
lại. Cách mạng thuộc địa không thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc.
Với những luận điểm trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế
của đảng, và đặt cơ sở cho sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng trên của Hồ Chí Minh - qua tác phẩm Đường cách mệnh -
từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao vai trò tiên phong của mình,
luôn thể hiện là một đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, luôn kiên định giữ vững lập trường của giai câp vô sản, lấy lý luận Mác - Lênin
làm nòng cốt.
III. Ý nghĩa của tác phẩm
1. Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.
- Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự thống nhất
trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng.
Tác phẩm khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa
quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhận cho
cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt
Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối của
cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào công nhân phát triển
mạnh mẽ .
- Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc thành
lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng