Báo cáo
Những giá trị của
Nho giáo và ảnh hưởng
nho giáo trong đời
sống văn hóa xã hội
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu Error: Reference source not found
Chương 1
Sự du nhập, hình thành và phát triển của Nho giáo . 5
Chương 2
Những ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống vãn hóa xã hội ở Việt Nam hiện
nay……………………………………………………………………….…….8
I/ Đối với kinh tế…………………………………………………… 8
1/ Những mặt tích cực.
2/ Những tiêu cực
II/ Đối với đạo đức…………………………………………………… 14
1/ Những mặt tích cực.
2/ Những tiêu cực
III/ Đối với gia đình và giáo dục……………………………………….19
1/ Đối với gia đình
1.1/ Những mặt tích cực.
1.2/ Những tiêu cực
2/ Đối với giáo dục
2.1/ Những mặt tích cực.
2.2/ Những tiêu cực
Kết luân. …………………………………………………………… 31
Tài liệu tham khảo……………………………………………………… 32
LỜI MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài
Nho giáo hình thành ở Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam cách đây hàng
ngàn năm. Từ khi hình thành chế độ phong kiến Việt Nam, đặc biệt từ thế kỷ XI
đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đều sử dụng Nho giáo
với tư cách là hệ tư tưởng và là công cụ để trị nước và quản lý xã hội. Với tư cách
là một trong những hình thái ý thức xã hội, Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam, là một trong những yếu
tố góp phần hình thành và tác động sâu sắc đến văn hóa truyền thống Việt Nam.
Ngày nay, nhân loại đang bước vào nền văn minh công nghiệp với những
biến đổi sâu sắc, xu thế toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, Nước ta đang tiến
hành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có
sự quản lý của nhà nước. Ở nước ta hiện nay, tuy cơ sở kinh tế - xã hội của Nho
giáo về cơ bản không còn tồn tại, nhưng Nho giáo không phải đã mất đi, mà nó còn
tồn tại dai dẳng, lâu dài và tác động tích cực và cả tiêu cực đến nhiều mặt, nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội và con người Việt Nam. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn cấp thiết là, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nước
ta trở thành một nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” thì không thể không giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa xã hội truyền
thống và xã hội hiện đại, giữa con người truyền thống và con người hiện đại Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy thì trước hết cần phải có một cái nhìn khách
quan, toàn diện và đúng đắn về Nho giáo để từ đó mà hiểu đúng về Nho giáo.
Trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, quan niệm về xã hội không chỉ là
một trong những nội dung cơ bản nhất mà còn là sự biểu hiện tập trung nhất, sâu
sắc nhất trong học thuyết này. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu về Nho giáo nói
chung và các giá trị của Nho giáo về đời sống xã hội nói riêng vẫn chưa đi đến
thống nhất, mà còn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau. Ngoài ra
do các giá trị về đời sống xã hội của các nhà Nho được trình bày đan xen với nhiều
nội dung khác, cho nên trong những nghiên cứu này, nội dung của quan niệm ấy
chưa được nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống. Vì vậy theo tôi, nghiên
cứu những giá trị của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong điều kiện hiện nay
không chỉ đơn thuần là để hiểu biết thêm về Nho giáo mà điều quan trọng là có cái
nhìn đúng về Nho giáo; không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những hạn chế của nó mà
còn vạch ra để tiếp thu, phát triển và vận dụng những giá trị tích cực của Nho giáo
trong việc thực hiện những nhiệm vụ và mục đích của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, dưới góc độ tiếp cận triết học, sự cần thiết phải
nghiên cứu những giá trị của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội một cách có hệ
thống và trên cơ sở đó mà chỉ ra và phân tích những giá trị của Nho giáo.
Xuất phát từ những vấn đề trên cần phải tiếp tục nghiên cứu những nội dung
cơ bản cùng những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo trong đời sống
văn hóa xã hội trong chuyên đề này. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề: “ Những giá trị
của Nho giáo và ảnh hưởng nho giáo trong đời sống văn hóa xã hội ” làm
chuyên đề nghiên cứu với hy vọng làm sáng tỏ thêm những giá trị của nho giáo
cũng như phát huy những mặt tích cực và loại bỏ những mặt hạn chế của Nho giáo
trong đời sống văn hóa xã hội, qua đó có thể rút ra một số ý nghĩa của nó trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nho giáo đã du nhập và phát triển ở Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử,
nó đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Việt Nam, là công cụ quan trọng
trong việc cai trị, quản lý xã hội của nhiểu triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy,
việc nghiên cứu các giá trị của Nho giáo và những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt
Nam là một vấn đề thu hút nhiều người quan tâm. Từ trước cho đến nay, việc
nghiên cứu Nho giáo nói chung và các giá trị của Nho giáo trong đời sống văn hóa
xã hội qua các giai đoạn. Nghiên cứu Nho giáo là để hiểu đúng về Nho giáo, thấy
được những giá trị tích cực và những hạn chế tiêu cực của Nho giáo và nhất là vai
trò, ảnh hưởng của nó đối với xã hội và con người Việt Nam. Hướng nghiên cứu
này thu hút được nhiều người quan tâm và được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình nghiên cứu của Phan
Bội Châu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Đào Duy Anh, Quang Đạm, Vũ
Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, Nguyễn Tài Thư, Lê Sỹ Thắng Trần Đình
Hượu, Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Trần Ngọc Vương, Vũ Minh Tâm, Lê Văn
Quán, Trần Nguyên Việt,…v.v.
Trong các công trình nghiên cứu này, trước hết phải kể đến các công trình nghiên
cứu của Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, v.v. Các ông nghiên cứu Nho giáo qua
lăng kính của nhà nho và với sự tôn sùng Nho giáo, cho nên họ đều nhìn thấy Nho
giáo không chỉ là một học thuyết chính trị - xã hội mà còn là học thuyết đạo đức
học, học thuyết triết học. Các ông đặc biệt đề cao vai trò của Nho giáo trong xây
dựng và đạo đức của con người và xã hội; coi việc tu thân là cái gốc của tề gia trị
quốc, bình thiên hạ…v.v.
Sau khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, sự tiếp cận Nho giáo
được nghiên cứu dưới lăng kính mới, với một thái độ khách quan, khoa học và biện
chứng. Các công trình nghiên cứu của các tác giả này đã phân tích một cách khá
toàn diện và sâu sắc tư tưởng Nho giáo. Chẳng hạn trong Nho giáo xưa và nay, tác
giả Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Việc vạch
ra mặt hạn chế, phá hoại của Nho giáo, theo tác giả là cần thiết nhưng không phải
là để “truy tố, bắt đền” nó mà để “Nhìn rõ và loại trừ tận gốc một cách khách quan
và khoa học những hậu quả cụ thể của nó trong hệ tư tưởng và trong cuộc sống xã
hội chúng ta ngày nay”, cũng không phải để “ truy tặng, khen thưởng” nó, mà là để
“giữ gìn và phát huy nhằm thúc đẩy sự nghiệp chúng ta tiến lên”. Tập thể tác giả
mà Vũ Khiêu là chủ biên của công trình Nho giáo xưa và nay đã tập trung nghiên
cứu hàng loạt vấn đề như: Sự ra đời và phát triển của Nho giáo; Mối quan hệ giữa
Nho giáo với kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa; Hồ Chí Minh và Nho giáo; Tình
hình Nho giáo ở một số nước châu Á; Những hạn chế cũng như những giá trị mà
Nho giáo mang lại cho các nước châu Á. Tác giả Phan Ngọc, trong Bản sắc văn
hóa Việt Nam, từ việc đề cập đến các vấn đề cơ bản của Nho giáo, Nho học và Đạo
giáo đã đi đến khẳng định, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa truyền
thống Việt Nam cũng như đời sống hiện thực của con người Việt Nam hiện nay.
Không dừng lại ở đó một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Nguyễn Tài
Thư, Trần Đình Hượu, Trần Văn Giàu, Vũ Minh Tâm, Trần Nguyên Việt, Đỗ Thị
Hòa Hới, Nguyễn Thanh Bình,…v.v đều khẳng định ảnh hưởng của Nho giáo đến
xã hội con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay là hết sức sâu sắc.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh phong trào học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì một trong những vấn đề được quan tâm
sâu sắc chính là tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa những căn nguyên, cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng: ví
dụ như với bài viết Bước đầu tìn hiểu Bác Hồ với học thuyết của Nho gia, tác giả
Lê Văn Quán đã đưa ra những dẫn chứng để chứng minh học thuyết Nho gia đã
ảnh hưởng đến Bác Hồ như thế nào ? Bác đã khẳng định cần phải kế thừa và phát
huy những điểm tích cực của Nho gia, Bác nhấn mạnh giáo dục cần phải kết hợp
giữa học với hành; người cách mạng phải hội đủ 5 điều: trí – tín – nhân – dũng –
liêm. Và tác giả cũng chỉ ra rằng, trên thực tế, Bác đã kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố
Nho giáo với truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc: nhân, nghĩa, trí, tín, dũng,
trung, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Cũng tác giả Lê Văn Quán với bài viết
Bác Hồ với học thuyết Nho giáo, đã khẳng định, Hồ Chí Minh là người rất am hiểu
Nho giáo và vận dụng một cách tài tình những tinh hoa của Nho giáo vào điều
kiện cách mạng nước ta. Người vận dụng Nho giáo trong việc rèn luyện đạo đức
cách mạng, trong việc phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ đồng thời phản đối
chế độ đẳng cấp Nho giáo. Hay như tác giả Nguyễn Văn Hồng với bài viết Ảnh
hưởng của văn hóa Khổng giáo Trung Hoa qua sự tiếp nhận chọn lọc, sáng tạo
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, qua phân tích đã đi đến khẳng định, Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, Người đã chọn lọc những tinh
hoa từ những chuẩn mực đạo đức Nho giáo và vận dụng một cách sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam….vv.
Nghiên cứu nho giáo về ảnh hưởng trong đời sống văn hóa xã hội từ góc độ
nghiên cứu triết học, bản thân nhận thấy rằng, cần phải nghiên cứu, làm rõ thêm về
nội dung, dù chỉ là những nội dung cơ bản trong quan niệm này của Nho giáo một
cách có hệ thống để từ đó có cơ sở chỉ ra những giá trị và hạn chế cũng như ý nghĩa
của nó ở Việt Nam trong chế độ phong kiến và trong giai đoạn hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ của chuyên đề.
Mục đích của chuyên đề là: Xuất phát từ Lý do chọn chuyên đề và Tình hình
nghiên cứu liên quan đến chuyên đề, thông qua nghiên cứu những tiền đề, điều
kiện và những giá trị của Nho giáo đối với đời sống văn hóa xã hội chỉ để chỉ ra
những giá trị, hạn chế chủ yếu của nó và từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ của chuyên đề là để đạt được mục đích trên. Chuyên đề tập trung làm rõ
những nội dung chủ yếu sau:
- Những giá trị chủ yếu cho sự hình thành và phát triển quan điểm của Nho
giáo về trong đời sống văn hóa xã hội
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong quan niệm
của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến
- Chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong quan niệm trên của Nho
giáo.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của chuyên đề được dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác -
Lênin trong nghiên cứu về đời sống văn hóa xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp biện
chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên
cứu khoa học khác như phương pháp lôgic và lịch sử; phương pháp phân tích -
tổng hợp; phương pháp đối chiếu – so sánh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề.
Đối tượng nghiên cứu: Các giá trị của Nho giáo về xã hội
Phạm vi nghiên cứu:
- Một số tác phẩm của Nho giáo, chủ yếu là Tứ thư, Ngũ Kinh;
- Các tác phẩm và các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt
Nam.
6. Đóng góp của chuyên đề.
Chuyên đề trình bày có hệ thống những nội dung chủ yếu trong quan niệm
của Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến và trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của chuyên đề.
Từ góc độ triết học, chuyên đề bước đầu làm sáng tỏ và trình bày có hệ
thống những tiền đề, điều kiện ra đời và những giá trị cơ bản trong quan niệm của
Nho giáo về đời sống văn hóa xã hội trong chế độ phong kiến và ảnh hưởng của
nho giáo trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của
chuyên đề gồm 2 chương với 4 tiết.
Chương 1. Sự du nhập, hình thành và phát triển của Nho giáo
Chương 2: Những ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Chương 1
SỰ DU NHẬP, HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NHO GIÁO Ở VIỆT NAM .
Nho giáo du nhập vào Việt Nam thời kì Bắc thuộc, đó là một quá trình lâu dài,
bằng con đường xâm lược và giao lưu văn hoá , kinh tế Việt Nam và Trung Quốc ,
trước hết đó là công cụ của Hán Đường tiến hành đồng hoá . Nho giáo du nhập vào
Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên sơ mà đã được Hán nho trước nhất là
Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích hợp với chế độ phong hiến trung ương tập
quyền. Cùng xâm nhập với Nho còn có Phật và Đạo. Cả ba học thuyết này đều có
ảnh hưởng đến tư tưởng Việt Nam, vào các phong tục tập quán của người Việt cho
đến nay .
Trên 1000 năm Bắc thuộc, bọn xâm lược ra sức truyền Nho, Phật, Đạo vào
nước ta. Nhưng số người học Nho không nhiều lắm; còn Phật và Đạo lại đi sâu vào
dân gian hoà lẫn trong tín ngỡng bản địa
Sau khi giành độc lập , nhân dân ta đã sử dụng Nho, Phật và Đạo để bắt tay
xây dựng đất nước, trước hết là để xây dựng một tổ chức Nhà nước độc lập để đủ
sức chống lại sự uy hiếp và xâm lược từ phương Bắc. Sở dĩ Nho giáo và Phật giáo
được chọn làm hệ tư tưởng chính trong xã hội Việt Nam là vì cả ha học thuyết này
ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam . Sự truyền bá và tiếp nhận tư tưởng này
diễn ra khá thuận lợi và nhanh chóng. Chế độ phong kiến Việt Nam phát triển theo
xu hướng tập quyền thống nhất nên có nhu cầu sử dụng Nho học. Nhà nước Đại
Việt thời Lý đã đưa Nho giáo phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực ở Việt
Nam . Năm 1070 , nhà Lý lập Văn Miếu và Quốc Tử Giám , năm 1075 nhà Lý mở
khoa thi Nho học và năm 1195 mở khoa thi Tam giáo. Nho học du nhập vào nước
ta đến đây trở thành cái bản dịa được nhà nước Đại Việt sử dụng và trân trọng .
Vào thời Trần, Nho học lại phát triển nhanh chóng hơn. Cũng vào thời kì này
thi cử nho giáo đã vào quy củ, các khoa thi tiến sĩ cứ 7 năm được tổ chức một lần .
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam cho đến cuối dời Trần –
Hồ vẫn chưa thật đậm nét. Có thể những bộ phận quan chức cao cấp phần nào còn
áp dụng những lễ giáo kiểu phương Bắc, còn trong dân gian thì vẫn theo phong tục
tập quán lâu đời .
Sang thời Hậu Lê , Nho giáo được đẩy lên cực thịnh. Lê Thánh Tông đưa Nho
học vào tổ chức nhà nước ở cả ba mặt :
+ Giáo dục và khoa cử : Thời Lê sơ giáo dục và khoa cử Nho học đạt đến mức
cực thịnh. Một tầng lớp sĩ đông đảo có mặt ở khắp nông thôn và thành thị. Ở Văn
Miếu được lập bia Tiến sĩ, Nho sĩ được đề cao đến mức cao nhất. Qua giáo dục và
khoa cử, Nho giáo thâm nhập vào xã hội ngày càng sâu sắc hơn .
Tổ chức chính quyền : có tham khảo các kiểu nhà nước TốngMinh
+ Pháp luật: luật Hồng Đức được xây dựng trên tinh thần Đại Việt nhưng
cũng tham khảo nhiều pháp luật Đường Minh .
Ở các lĩnh vực khác như triết học, tôn giáo, nghệ thuật thì cả ba đạo Nho ,Phật
, Lão đèu có ảnh hưởng , nhưng nặng nhẹ khác nhau . Phật , Dạo đi vào dân gian
làng xã khá sâu sắc
Vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII , Nho học và Nho giáo Việt Nam đều đi
xuống. Xu hướng tam giáo đồng tôn trong xã hội phát triển. Có thể nói , vào các
thế kỉ XVII, XVIII kiểu Nho thuần tuý không còn đáng kể , một nền học thuật và
tư tưởng đa thanh, đa sắc đã xuất hiện ngày càng nhiều, ngày càng sâu hơn . Nhà
Nho các thế kỉ này đều trên cơ sở Nho kết hợp với Phật, Đạo. Có thể nói, đến thế kỉ
XVIII, Nho học, Nho giáo không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, đã bất lực
trước công việc giải quyết khủng hoảng xã hội. Trong lĩnh vực chính, trị tư tưởng
các nhà nước và các quan lại sĩ phu vẫn lấy tam cương làm lý tưởng. Nhưng sự lên
xuống của cuộc sống cá thể, của xã hội phải có Phật, Đạo bổ sung thành công cụ
tinh thần phong phú, đa dạng. Tam giáo đồng tôn hay đồng hành đồng tâm trên cơ
sở Nho là một hướng giải quyết về lý thuyết tư tưởng và xã hội .
Đến đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn vẫn duy trì độc tôn Nho giáo trong khi các
nước khác ngay cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu có những phản kháng. Khoa thi
Hương cuối cùng vào năm 1918 và thi hội cuối cùng vào năm 1919. Tác phẩm “
Khổng học đăng” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là sự bùng lên cuối cùng
của Nho giáo trước khi dập tắt .
Có thể nói, Nho giáo được duy trì lâu nhất ở Việt Nam. Có một học giả nước
ngoài khi sang Việt Nam đã có nhận xét như sau : “ dường như Nho giáo Việt Nam
từ thế kỉ XIX có vẻ nặng sâu hơn chính ở Trung Quốc . Nói như thế không phải là
không có cơ sở. Một thực tế ở Việt Nam là , Nho giáo ở Việt Nam chưa một làn bị
phê phán gay gắt như các học giả ở Trung Quốc hay Nhật Bản. Sự phê phán Nho
giáo ở nước ta mới chỉ xuất hiện trong các tác phẩm văn học hay trong dân gian.
Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có lẽ chịu ảng hưởng sâu sắc nhất và lâu đời nhất
ở Việt Nam .
Chương II
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA XÃ HỘI VIỆT NAM
I/ Đối với kinh tế
1/ Ảnh hưởng tích cực
Con người với tư cách là nhân tố thúc đẩy kinh tế
Mục đích của Nho giáo là nhằm giáo hóa, đào tạo con người, hoàn thiện
con người và hoàn thiện xã hội, làm cho xã hội luôn ổn định, thái bình, thịnh trị.
Theo Nho giáo, sự hoàn thiện con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện, nguyên
nhân của sự hoàn thiện xã hội. Nếu gạt sang một bên những điều kiện lịch sử, xã
hội thì phải chăng Nho giáo đã sớm nhận ra vai trò của con người đối với sự ổn
định và phát triển xã hội. Kinh tế, văn hóa ổn định phát triển xét cho cùng là do con
người, vì con người.
Ở nước ta, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế thị trường đã đẩy nhanh
sự tăng trưởng về kinh tế nhưng cũng đồng thời tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ
xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Để ngăn ngừa những hiệu quả tiêu
cực của nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho sự phát triển vật chất không kéo theo
sự suy thoái tinh thần, chúng ta cần phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, nâng cao những phẩm chất đạo đức vốn có trong lịch sử đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Những phẩm danh đạo đức tối thượng của con người như:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí - Tín trong xã hội Nho giáo trước kia cho đến nay vẫn còn ý
nghĩa, nếu chúng ta biết kế thừa, chắt lọc.
Điều đáng chú ý là đề cao Nhân, Nghĩa trong cuộc sống của con người;
nhưng Nho giáo cũng không bỏ qua vấn đề cơm ăn, áo mặc của nhân dân. Bởi
nhân dân có đủ ăn đủ mặc thì mới thực hiện được đạo nghĩa đạo Nhân. Chính vì
thế Nho giáo khuyên giới cầm quyền tìm mọi cách để giúp dân sản xuất, phải chăm
lo đến việc sản xuất của dân. Mạnh Tử từng nói:
Nếu vua chẳng làm trái nghịch thời tiết của kẻ làm ruộng, đừng bắt họ làm
xâu trong mùa cấy gặt thì thóc lúa ăn chẳng biết. Nếu đừng để cho người ta bủa
lưới nhặt trong các bưng hồ thì cá rùa ăn chẳng hết. Nếu đừng để cho lưỡi rìu, cạnh
búa đốn phá rừng núi sau lúc sai mùa thì cây cối dùng chẳng hết. Lúa thóc và rùa cá
dự ăn, cây cối dư xài, nhân dân nhờ đó mà nuôi dưỡng người sống, mai táng kẻ chết,
họ chẳng sầu oán gì nữa. Trong nước mà dân chúng chẳng oán sầu vì họ nuôi
người sống được no ấm, chôn người chết được đủ lễ, đó là bước đầu của một nền
cai trị thịnh vượng vậy.
Nho giáo còn đòi hỏi giai cấp thống trị phải để cho nhân dân có tài sản
riêng. Có như vậy dân mới yên tâm làm ăn, đời sống mới no ấm, nhà nước mới có
dư thừa. Mạnh Tử nhấn mạnh trách nhiệm của người cầm quyền đối với cuộc sống
của nhân dân. Theo ông, người cầm quyền phải đồng cam cộng khổ với nhân dân,
không nên có cuộc sống quá chênh lệch so với cuộc sống của dân thường. Đó là
điều đáng để các nhà lãnh đạo trong xã hội hiện đại suy ngẫm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Để đạt được các mục
tiêu sau khi kết thúc thời kỳ quá độ, chúng ta không thể không coi trọng ưu tiền
phát triển kinh tế. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng để làm
cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh " Đó cũng là tiền
đề bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội. Muốn vậy, một trong những điều kiện
cần thiết là Đảng và Nhà nước ta phải đề ra những chính sách, biện pháp kinh tế -
xã hội phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác trí tuệ, năng lực sáng tạo của
con người. Những biện pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước cần phải xuất phát từ
con người và vì con người. Bởi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của
toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Sản xuất đi đôi với tiết kiệm
Nho giáo nhấn mạnh sản xuất đi đôi với tiết kiệm, sớm đặt ra vấn đề tiết
kiệm: "Đạo lớn làm ra của cải là: số người làm việc sinh lợi ngày càng nhiều, số
người ăn tiêu phung phí ngày càng ít số người làm ra của cải phải mau mắn, siêng
năng, những người tiêu dùng phải thư thả, từ từ. Như vậy của cải luôn luôn đủ".
Khổng Tử còn khuyên vua "tiết dụng nhi ái dân", nghĩa là phải tiêu dùng tiết kiệm
mà thương yêu dân.
Tuân Tử cho rằng nếu như hết sức làm việc nông, lại tiết kiệm tiêu dùng thì
trời chẳng bao giờ làm mình đói.
Với lời răn dạy về tiết kiệm ấy của Nho giáo, những người làm quan thanh
liêm ngày xưa thường ăn uống đơn sơ, trang phục giản dị, coi vẻ đẹp của con người
là sự thanh cao của tâm hồn chứ không phải ở sự xa xỉ trong nhà cửa, áo quần, vật
liệu tiêu dùng.
Xã hội Việt Nam ngày nay đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần có nhiều yếu tố: tài
nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ mới và con người. Trong khi đó đối với nước ta,
nguồn tài chính, nguồn lực vật chất còn rất hạn hẹp, thế nhưng "chúng ta lại chưa
thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư
phát triển". Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là nước nông nghiệp, lao động nông
nghiệp chiếm hơn 70%, đời sống nhân dân ở nhiều vùng nông thôn, các vùng dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn rất thấp, GDP bình quân đầu người chưa đến 300
USD/năm nhưng tình trạng tiêu dùng xa hoa, lãng phí diễn ra khá phổ biến cả ở
nông thôn và thành thị, trong một số khá đông cán bộ và nhân dân. Đó là điều đáng
lo ngại. Vì vậy, "chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để công nghiệp hóa, khắc phục
xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa, lãng phí. Đó là một trong
những nhân tố thành công của chúng ta.
Tiết kiệm trong điều kiện hiện nay không phải là khuyến khích giảm nhu cầu
tối thiểu mà chính là nâng cao khả năng thỏa mãn nhu cầu hợp lý của con người
như là tiền đề để phát huy nguồn lực con người - nhân tố quyết định sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, tư tưởng
về sản xuất đi đôi với tiết kiệm của Nho giáo cũng như đức tính cần kiệm truyền
thống của dân tộc cần phải được kế thừa và đổi mới. Cần kiệm đi đôi với chống
tham nhũng và lãng phí, dồn sức đầu tư cho sự phát triển của đất nước trong hiện
tại và tương lai.
Tóm lại, với cách nhìn biện chứng, chúng ta có thể khai thác giá trị tích cực
của Nho giáo đối với sự phát triển kinh tế. Chúng có thể đồng tình với các nhà
khoa học Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan khi họ nêu lên khả năng hòa đồng giữa
Phú và Nhân, giữa Nghĩa và Lợi, giữa đạo đức và kinh doanh trong sự phát triển
đất nước. Nho giáo gợi mở cho ta suy nghĩ có thể đưa văn hóa vào kinh doanh,
hướng kinh doanh không chỉ vào việc tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng một xã
hội hội có văn hóa, xứng đáng với truyền thống dân tộc, đáp ứng được những đòi
hỏi của thời đại.
2/ Ảnh hưởng tiêu cực
Nho giáo - hệ tư tưởng của một xã hội được xây dựng chủ yếu trên cơ sở
chế độ ruộng công với chính sách cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên
giờ đây vẫn ảnh hưởng tiêu cực tới suy nghĩ, quan niệm của nhiều người. Với tư
tưởng "Trọng nông ức thương", Nho giáo từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế
hàng hóa phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo coi thường khoa học kỹ thuật; về
mặt phân phối nó khuyến khích chủ nghĩa bình quân. Kinh tế Việt Nam không thể
đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở đó của Nho giáo.
Dưới chế độ phong kiến, ở nước ta đã có quan hệ tiền tệ và trao đổi hàng
hóa ở mức độ nhất định. Nhưng với đặc điểm bảo trì lâu dài của các làng xã, quan
hệ hàng hóa tiền tệ đã không phát triển được. Thêm vào đó, các quan điểm bảo thủ,
khép kín "trọng nông ức thương" đã kìm hãm sự phát triển có tính chất tự nhiên
của sản xuất xã hội.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta vẫn chưa có nền sản xuất
hàng hóa, nền kinh tế vẫn trong tình trạng tự cấp tự túc là chủ yếu. Đó chính là
thách thức cơ bản đối với dân tộc ta khi bước vào con đường phát triển hiện đại
văn minh.
Do những sai lầm chủ quan mang tính giáo điều, kinh nghiệm duy
ý chí cùng với ảnh hưởng của tư tưởng "trọng nông ức thương", trước thời
kỳ đổi mới nền kinh tế hàng hóa ở nước ta không phát triển. Nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp cùng những chính sách xã hội kèm theo nó
đã là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa nước ta tới khủng hoảng trầm
trọng.
Thực tiễn đã giúp Đảng ta nhận thức sâu hơn về CNXH, về con đường đi
lên CNXH, vai trò tác dụng của sự phát triển và sử dụng các yếu tố, các khâu trung
gian quá độ lên CNXH theo kiểu quá độ gián tiếp mà Lênin đã vạch ra. Nhận thức
mới đưa đến chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Đó cũng chính là nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế - nhiệm vụ trọng tâm của
công cuộc đổi mới hiện nay.
Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín, trì
trệ của sản xuất và lưu thông, nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng cũ - tư tưởng
"trọng nông ức thương" cùng với tư tưởng cục bộ bản vị (địa phương chủ nghĩa),
nhiều địa phương vẫn còn xu hướng biệt lập khép kín trong quá trình thực hiện các
mục tiêu kinh tế, không chú ý đến tính chỉnh thể thống nhất, đến yêu cầu phát triển
chung của đất nước. Thực hiện nhiệm vụ tự cân đối các mặt của sản xuất và sinh
hoạt của địa phương không có nghĩa là thực hiện tự cung tự cấp, từ bỏ giao lưu
kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Do không nhận thức đúng yêu cầu trên, do
ảnh hưởng của tư tưởng cũ, cộng với những khó khăn về giao thông, về nguồn vốn,
một số địa phương không đưa hàng hóa ra khỏi địa phương mình. Cách làm đó về
thực chất là tự cung tự cấp trên bình diện rộng. Vô hình chung dẫn đến hạn chế sự
phát triển của sản xuất hàng hóa, làm nghèo nàn nhu cầu của đời sống
xã hội.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN
đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng "Trọng nông ức thương" còn tồn tại trong một bộ
phận cán bộ và nhân dân, xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội mang tính
thống nhất, xóa bỏ tình trạng phân tán, tự cung, tự cấp.
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn chịu phục những ảnh hưởng
tiêu cực của Nho giáo trong lĩnh vực phân phối. Chúng ta biết rằng đặc điểm kinh
tế nổi bật của xã hội Việt Nam truyền thống là sản xuất nhỏ, đặc biệt là sản xuất
nhỏ trong nông nghiệp. Tính chất sản xuất nhỏ và tâm lý người tiểu nông in dấu ấn
sâu sắc lên mọi mặt của xã hội Việt Nam cổ truyền và còn ảnh hưởng đến ngày
nay. Nói đến sản xuất nhỏ ở Việt Nam chủ yếu là nói đến sản xuất nhỏ trong nông
nghiệp với đặc trưng phổ biến là: quyền tư hữu của người tiểu nông với ruộng đất
là cơ sở của nền sản xuất xã hội, ruộng đất bị phân chia manh mún, nông cụ ít và
thô sơ thiếu sự hợp tác và phân công lao động; nền sản xuất có tính bảo thủ cao, tổ
chức sản xuất hàng hóa thấp kém, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
gựp nhiều khó khăn và chậm được cải thiện.
Nền sản xuất nhỏ tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam cùng với ảnh của tư
tưởng Nho giáo đã tạo nên tâm lý cục bộ, bản vị, địa phương. Chế độ ruộng công
trong điều kiện làng xã Việt Nam đã làm nảy sinh tư tưởng bình quân về nghĩa vụ
và quyền lợi.
Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tư tưởng bình quân đã trở
thành lực cản lớn trong quá trình phát triển kinh tế cũng như các mặt khác của đời
sống xã hội.
Cách làm kinh tế theo giờ hành chính một cách máy móc ở các hợp tác xã
nông nghiệp, các nông trường quốc doanh của miền Bắc trước đây với hình thức
phân phối bình quân đã dẫn đến tình trạng người lao động thờ ơ với công việc và
kết quả lao động của mình. Tâm lý ỷ lại vào tập thể, dựa dẫm, cung cách lao động
"được chăng hay chớ", "cơm vua ngày trời", "đi làm theo kẻng, ăn chia theo định
xuất", "chân ngoài dài hơn chân trong" trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán lâu dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các hình
thức phân phối trong thời kỳ này cũng rất đa dạng: phân phối theo lao động, phân
phối theo vốn đầu tư, phân phối thông qua phúc lợi tập thể Tuy nhiên, tình trạng
bình quân trong phân phối vẫn còn tồn tại, biểu hiện rõ nét nhất ở khối hành chính
sự nghiệp. Tiền lương nhìn chung chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, chưa
thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và
sức sáng tạo cao.
Sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đòi hỏi phải khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực đó của Nho giáo.
II/ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC
1. Ảnh hưởng tích cực
Tu thân và vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, đạo đức cho nên vấn đề tu
thân được đặt lên hàng đầu: Từ Thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình
thường đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Đó cũng là bài học mà chúng ta không
thể bỏ qua.
Trên thực tế, nhiều nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc đã khai thác
triết lý tu thân của Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị xã hội, nhất là trong
thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước. Các nước này không chỉ đòi hỏi sự nỗ
lực của bản thân mỗi người trong việc tu thân mà còn quy định trách nhiệm của
mỗi gia đình, trường học, xã hội đối với việc tu thân. Tại những nước này, những
nét đẹp truyền thống đã được duy trì, những mối quan hệ giữa người với người
trong gia đình và xã hội đã được củng cố.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu của nó. Sau
16 năm nhìn lại, chúng ta có quyền tự hào về những chuyển biến đáng kể trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên những thành tựu của sự nghiệp đổi mới
chỉ là bước đầu. Vẫn còn muôn ngàn khó khăn, thử thách đòi hỏi mỗi chúng ta phải
nâng cao thêm niềm tin, ý chí cách mạng, không ngừng tu dưỡng trau dồi đạo đức
cách mạng. Chúng ta thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường phát triển đã góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, đem lại bộ mặt mới cho xã hội, nhưng cũng phải thừa
nhận mặt trái của kinh tế thị trường đang tạo ra những xáo trộn về mặt đạo đức xã
hội. Chúng ta đã bắt đầu chứng kiến những suy thoái đạo đức trong cả quan hệ gia
đình và quan hệ xã hội. Điều đáng lo ngại là sự suy thoái phẩm chất đạo đức ở một
số cán bộ đảng viên đang làm giảm uy tín của Đảng, suy giảm lòng tin của nhân
dân đối với chế độ. Trong điều kiện đó, thiết nghĩ chúng ta nên lấy triết lý tu thân
của Nho giáo làm bài học, để rồi từ đó chắt lọc, kế thừa giá trị tích cực của nó.
Chúng ta tiếp thu tư tưởng Nho giáo về tu thân, đặt nhiệm vụ tu thân lên
hàng đầu, huy động các lực lượng gia đình, xã hội và cá nhân đẩy mạnh tu thân,
nhưng không phải tu thân theo tinh thần đạo đức cũ - Đạo đức Khổng giáo - mà tu
thân theo tinh thần đạo đức mới - đạo đức cách mạng như Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Đây là những khái niệm mang nội dung mới với
những giá trị đạo đức cơ bản nhất của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Những Đức, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh
tiếp thu và cải biến thành "Ngũ thường" của Việt Nam như thế. Người giải nghĩa:
Nhân: là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà
kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.Vì
thế mà sẵn lòng cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người không
ham, không e, không sợ gì thì việc gì làm việc phải họ đều làm được.
Nghĩa: là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì
phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc
Đảng giao việc thì dù bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì
làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người
khác cũng luôn luôn đúng đắn.
Trí: Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng cho nên đầu óc sáng suốt. Dễ
hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết
làm việc có lợi, tránh việc hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề
phòng người gian.
Dũng: là dũng cảm gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có
gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự
vinh hoa phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho
Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
Liêm: là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng.
Không tham người ta tâng bốc mình.Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hóa.
Chỉ có một thứ ham là ham đọc, ham làm, ham tiến bộ.
Đó là đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra cốt lõi của đạo đức cách mạng gồm bốn đức: Cần,
Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích như sau:
Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí
Liêm là trong sạch, không tham lam Tham tiền, tham địa vị, tham ăn ngon,
sống yên đều là bất liêm.
Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn tức là tà.
Như vậy, cũng là tu thân nhưng chúng ta tu thân theo nội dung của đạo đức
cách mạng đã được Hồ Chí Minh đề cập. Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng đạo đức Nho giáo, việc sử dụng những từ ngữ vốn
quen thuộc của Nho giáo để đưa vào nội dung đạo đức mới là một biện pháp sáng
tạo của Hồ Chí Minh. Những chuẩn mực đạo đức mà người nêu ra không bao giờ
xưa cũ. Để đẩy mạnh tăng trưởng về kinh tế với sự phát triển về mọi mặt của xã
hội, để thống nhất văn hóa với kinh doanh, đạo đức con người với sự giàu mạnh
của đất nước, hơn lúc nào chúng ta càng phải chú trọng rèn luyện đạo đức cách
mạng.
Hồ Chí Minh từng nói: Đạo đức là gốc, là nền tảng của cách mạng. Trong
giai đoạn hiện nay, khi đất nước vẫn đang đứng trước bốn nguy cơ như Đảng ta
từng chỉ rõ (nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, "diễn biến hòa bình" do
các thế lực thù địch gây ra) thì việc trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng là hết sức cần thiết.
Đối với đảng viên, trước hết cần thực hiện tốt cuộc vận động phê bình tự
phê bình theo tinh thần Hội nghị Trung ương VI - khóa VIII làm cho Đảng trong
sạch vững mạnh. Đó là biểu hiện của "tu thân".
Đối với quần chúng, cũng cần phải "tu thân". Tu thân để làm ăn lương
thiện, để không bị tha hóa bởi sức mạnh của đồng tiền, không bị mặt trái của cơ
chế thị trường làm mất đi lương tâm, nhân phẩm để góp phần xây dựng nước nhà
vững mạnh, phồn vinh.
2/ Ảnh hưởng tiêu cực
Thói đạo đức giả
Nếu nhấn mạnh sự tu thân, chú trọng giáo dục đạo đức là những giá trị tích
cực của Nho giáo mà chúng ta cần khai thác, kế thừa thì thói đạo đức giả trong tư
tưởng Nho giáo lại là điều cần phê phán, loại bỏ.
Đạo đức Nho giáo xưa kia nêu ra cần, kiệm, liêm, chính thực chất nhằm
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, chúng ta đề ra cần kiệm, liêm,
chính để làm lợi cho nước cho dân. Nhưng nếu cán bộ thực hiện không nghiêm túc,
để đầu óc tư lợi chi phối thì cũng rơi vào tình trạng đạo đức giả.
Đạo đức giả là hiện tượng phổ biến trong nhiều chế độ xã hội và gắn với
chủ nghĩa cá nhân, nhưng gốc gác nảy sinh của nó bắt nguồn từ Nho giáo. Chế độ
Đức trị đã sản sinh ra đông đảo phân từ đạo đức giả, những kẻ kiếm ăn trong "nghề
đạo đức", những kẻ bề ngoài nói điều nhân nghĩa nhưng bên trong đầy rẫy tật xấu.
Hối lộ, tham ô vẫn có thể là "đạo đức" nếu biết khéo léo che giấu, khéo giả vờ,
khéo nói những lời bịp bợm. Đạo đức trong những trường hợp ấy trở thành thủ
đoạn để lừa trên, dối dưới, trở thành một loại tiền tệ, có thể dùng để mua được giàu
sang và danh vọng.
Xét ảnh hưởng của thói đạo đức giả đối với con người Việt Nam hiện đại
có thể thấy.
- Về lý thuyết, đội ngũ cán bộ bao gồm những người tiên tiến nhất, giác ngộ
nhất, nhưng trên thực tế vẫn có người nhiễm phải thói đạo đức giả. Đó là những
người lời nói không đi đôi với việc làm, lợi dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng.
Trong công tác và sinh hoạt, họ thường che đậy bản chất thực sự của mình bằng
những lời lẽ hoa mỹ, sách vở đúng với đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước. Khi không thực hiện được lời nói của mình, họ đổ lỗi cho khách quan, cho
cơ chế, cho người khác.
Người mắc thói đạo đức giả là người, không trung thực trong công tác. Họ
thường trình lên cấp trên những báo cáo không trung thực: thổi phồng thành tích,
che đậy khuyết điểm. Nếu dùng những báo cáo này làm cơ sở cho việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước sẽ làm cho đường lối, chính sách không
phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Hậu quả do những người nhiễm thói đạo đức giả
gây ra không đơn thuần là những hậu quả kinh tế trực tiếp, mà còn là những hậu
quả kinh tế xã hội lâu dài. Bởi vì khi đã xâm nhập vào đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước, nó sẽ ảnh hưởng rộng lớn, thậm chí ở tầm vĩ mô, chiến lược.
Một biểu hiện trực tiếp của đạo đức giả hiện nay là: lợi dụng chức quyền để
tham nhũng, buôn lậu, tiếp tay cho bọn làm ăn phi pháp; lấy các từ như "công bằng
xã hội", "lợi ích cộng đồng", "chấp hành luật pháp" làm cái vỏ che đậy khuyết
tật và việc làm sai trái.
Thói đạo đức giả cũng là thói cơ hội chủ nghĩa. Nó có khả năng tìm ra
phương thức hoạt động mềm dẻo mà người trung thực lẫn pháp luật khó có thể
lường hết được. Người nhiễm thói này thực chất là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Dưới
quyền của những người như vậy, người trung thực sẽ không tránh khỏi bị trù dập,
vô hiệu hóa. Nguy hại hơn nữa, để đạt được mục đích cá nhân, những người mắc
thói đạo đức giả không chỉ tìm cách khai thác những điểm còn cơ sở trong chính
sách, luật pháp, mà còn tìm cách vô hiệu hóa pháp luật và thi hành pháp luật.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân, không hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang. Suy thoái về đạo đức thường là khởi đầu suy thoái về bản lĩnh chính trị, phai
nhạt và phản bội lý tưởng cách mạng. Vì vậy ngăn chặn loại trừ thói đạo đức giả
đang là một yêu cầu bức xúc của xã hội ta hiện nay.
III/ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC
1. Đối với gia đình
Sẽ là thiếu sót nếu chỉ đề cập tới ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam hiện nay ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đạo đức mà không đề cập tới
lĩnh vực gia đình.
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều
nội dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa, liên quan tới những phạm trù khác về đạo đức
và cuộc sống con người.
Xung quanh vấn đề gia đình, Nho giáo đã có những kiến giải thích hợp, góp
phần xây dựng và duy trì những quan hệ xã hội ổn định, đồng thời cũng có không ít
những tiêu cực, gây tác hại không nhỏ cho xã hội trước đây và hiện nay.
Coi gia đình là cơ sở xã hội; xây dựng những mối quan hệ bền chặt trong
gia đình, phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, vun đắp chúng
trở thành những tình cảm đạo đức tốt đẹp trong đạo thờ vua trị nước; khẳng định
vai trò giáo dục của gia đình đó là những giá trị tích cực của Nho giáo mà giờ
đây chúng ta vẫn có thể kế thừa. Tuy nhiên, chủ nghĩa gia đình với những tác hại
của nó lại là điều cần phê phán và loại bỏ.
1.1/ Ảnh hưởng tích cực
Cách đây mấy ngàn năm trước, Nho giáo đã coi gia đình là cơ sở của xã
hội: "gốc của nước là nhà". Chính vì vậy, Nho giáo đã chú trọng xây dựng những
mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. "Cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em,
chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đình đạo chính". Trong những mối quan hệ ấy,
quan hệ cha con, anh em được Nho giáo tôn rất cao bằng chữ Hiếu và chữ Đễ. Hiếu
là "nết đầu trong trăm nết". Người con hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và bổn
phận của mình đối với cha mẹ. Đó là sự biết ơn, là ý nguyện thường xuyên làm sao
để cha mẹ được vui sướng, là sự giữ mình không làm điều gì phiền lụy đến cha mẹ,
là quyết chí lập thân hành đạo, nêu cao thanh danh, làm vinh hiển cha mẹ.
Đễ là đạo nghĩa đối với đàn anh trong thế hệ của mình. Hiếu đễ lại là cái
gốc đạo đức của con người, cho nên đã hiếu và đễ thì các đức tốt khác đều có được,
không những trong quan hệ gia đình mà trong cả quan hệ xã hội. Mục đích của
Nho giáo khi nêu cao ý nghĩa của Hiếu - Đễ là để phụng sự vua, phụng sự bề trên.
Từ đó Nho giáo đi đến chỗ coi trọng giáo dục trong gia đình. Đó là trường học đầu
tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. Nho giáo dạy rằng - thân yêu cha mẹ
mình, kế đó mà cư xử có nhân với người đời; kính cha anh của mình, từ đó kính
cha anh của người, yêu con trẻ của mình từ đó yêu con trẻ của người. Muốn đánh
giá phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cất nhắc và sử dụng
họ không, trước hết phải xem người ấy sống trong gia đình ra sao. Một người có
đối xử tốt trong gia đình mới có thể đối xử tốt ngoài xã hội.
Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác động mạnh
mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. Chỉ cần mọi người đều
yêu thương cha mẹ mình, bà con mình, kính trọng bậc trưởng thượng của mình, tự
nhiên thiên hạ sẽ được thái bình.
Giờ đây đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, gia đình từ đó cũng có
nhiều đổi thay. Sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp trước kia chủ yếu mang
tính chất tập thể thì giờ đây lại chuyển sang tính chất gia đình. Lợi ích của gia đình
không phụ thuộc một cách giản đơn vào lợi ích xã hội. Nó đang được phát triển
mạnh mẽ trong mối quan hệ hài hòa và hợp lý với lợi ích xã hội. Lợi ích chính
đáng của gia đình và cá nhân được tự do phát triển, đang là động cơ thúc đẩy trí tuệ
và tài năng, phát huy truyền thống dũng cảm và sáng tạo của cả dân tộc.
Kinh tế thị trường phát triển, cuộc sống của mỗi gia đình được đổi mới
Đó cũng là một trong những tiền đề tốt đẹp để gia đình Việt Nam hoàn thành tốt
chức năng đối với xã hội. Nhưng cũng cần nhận thức rằng mặt trái của kinh tế thị
trường đang làm nảy sinh rất nhiều hiện tượng thiêu cực không chỉ trong quan hệ
giữa người với người ở ngoài xã hội mà ngay cả trong quan hệ gia đình. Ở Việt
Nam, từ trước đến nay vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và con cái có hiếu với ông
bà, cha mẹ. Đó là nét đặc sắc của văn hóa gia đình Việt Nam và văn hóa gia đình
phương Đông. Song, trong những năm gần đây, đã có một số gia đình quá yêu
chiều con cái; lại có những gia đình không quan tâm, săn sóc ông bà cha mẹ, không
thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ. Từ chỗ đặt "lợi ích" lên trên hết, họ đã
thúc đẩy các thành viên trong gia đình đối xử với người già theo nguyên tắc trao
đổi sòng phẳng. Họ lấy mức độ giàu nghèo làm tiêu chuẩn xác định quan hệ thân,
sơ trong họ hàng. Cách đối xử đó đã làm cho mối quan hệ vốn có giữa các thế hệ
trong gia đình (họ hàng) bị mất thăng bằng. Nhiều chuyện con cái ngược đãi cha
mẹ già, anh chị em xung đột với nhau chỉ vì đất đai, nhà cửa làm đau lòng nhiều
người.
Hiện tượng coi thường giáo dục gia đình đang xảy ra ngày càng nhiều đã
góp phần đáng kể phá vỡ nền tảng đạo đức gia đình. Có gia đình chỉ chú trọng việc
nuôi cho ăn học, chú ý đến thành tích học tập mà bỏ qua việc giáo dục phẩm chất
đạo đức cá nhân, bỏ qua việc giáo dục cách ứng xử trong mối quan hệ với người
khác. nhiều gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của con
cái. Nhiều gia đình, bố mẹ sống buông thả, có những hành vi thất đức mà không hề
ý thức được rằng đó là những bài học tự nhiên đối với con cái. Sự lúng túng, bất
lực trong việc giáo dục đạo đức gia đình của cha mẹ, sự coi thường, phủ định sạch
trơn những nội dung và hình thức giáo dục đạo đức truyền thống cho con cái đã
dẫn đến phá vỡ mối liên kết tinh thần của tổ ấm gia đình.
Sự biến đổi phức tạp trong quan hệ gia đình đặt ra vấn đề: cần phải quan
tâm hơn nữa đến việc xây dựng gia đình và giáo dục con cái. Đây cũng chính là
điều mà mấy chục thế kỷ trước Nho giáo đã đặc biệt quan tâm. Nho giáo đã từng
đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong cùng một gia đình, một dòng
họ; kêu gọi sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau; khuyến khích việc giữ gìn danh dự
và phát huy truyền thống gia đình, dòng họ; những ghi thức ứng xử hàng ngày,
những lời răn dạy của cha ông lưu truyền đến các đời con cháu; việc thờ cúng ông
bà cha mẹ gắn với việc thờ cúng tổ tiên góp phần làm khăng khít các mối quan hệ
gia đình, gia tộc. Đó là những giá trị truyền thống tốt đẹp mà chúng ta cần kế thừa,
phát huy. Nhưng thật đáng tiếc đã có thời kỳ chúng ta coi nhẹ và gạt bỏ những
nhân tố tích cực, hợp lý đó của Nho giáo.
Trong khi đó, những nước có truyền thống Nho giáo trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tìm cách duy trì và khuyến khích những quan hệ gia
đình cũ để khai thác những nhân tố gọi là hợp lý đối với yêu cầu phát triển của chủ
nghĩa tư bản và lợi ích của giai cấp tư sản. Quan hệ gia đình được mở rộng ra ngoài
xã hội. Nó cũng có thêm mối quan hệ có tính chất gia đình giữa nhà nước và công
dân, giữa chủ và thợ. Người chủ vì lợi ích của bản thân đã nhân danh gia đình
chăm lo đến lợi ích của công nhân. Người công nhân cũng với tình cảm gia đình.
Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp và lợi ích của họ phụ thuộc vào mức độ họ
đóng góp với xí nghiệp. Truyền thống Nho giáo trong gia đình ở các nước này có
tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã hội.
Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, chúng ta cũng khai thác những yếu tố
tích cực của gia đình truyền thống. Nhưng kế thừa, khai thác không có nghĩa là
quay lại hoàn toàn với gia đình kiểu cũ.
Trước kia, gia đình bao gồm nhiều thế hệ sống chung với nhau. Tình cảm
giữa cha mẹ và con cái mở rộng ra ngoài xã hội, là cơ sở của quan hệ vua - tôi, là
điểm xuất phát để xây dựng quan hệ bạn bè. Ngày nay, chúng ta đặt lên hàng đầu
tình cảm đối với Tổ quốc và nhân dân, nhưng tình cảm ấy trước hết phải được xây
dựng và vun trồng từ những tình cảm đầu tiên giữa người với người trong gia đình.
Chúng ta thừa nhận rằng, những người có đạo dức ngoài xã hội không thể là những
người mất đạo đức, trong gia đình. Chúng ta có thể tiếp thu tinh thần của Nho giáo
là muốn đào tạo những con người có đạo đức ngoài xã hội, trước hết phải đào tạo
những con người có đạo đức trong gia đình. Trên cơ sở chữ "Hiếu" của Nho giáo,
chúng ta mở rộng thành tình cảm đối với Tổ quốc và nhân dân; "Trung" không phải
là "Trung" với vua, với ông chủ bóc lột mà là "Trung" với Tổ quốc là góp phần xây
dựng Tổ quốc ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
1.2/ Ảnh hưởng tiêu cực
Gia đình Việt Nam ngày nay được xây dựng trên những quy tắc mới nhằm
bảo đảm những quan hệ lành mạnh và có kỹ năng giữa các thành viên trong gia
đình. Cùng với việc kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống, chúng ta còn
phê phán và loại bỏ những yếu tố tiêu cực đang ảnh hưởng tới việc xây dựng gia
đình văn hóa mới, đang cản trở công cuộc đổi mới ở nước ta.
Chủ nghĩa gia đình, căn bệnh từng bán rễ, ăn sâu trong xã hội cũ giờ đây
vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của nhiều người.
Do ảnh hưởng của Nho giáo, trên thực tế việc giải quyết các vấn đề trong
đời sống xã hội thường bị phụ thuộc vào tình cảm cha con, mẹ con, vợ chồng, anh
em Thói chiếu cố, cưu mang rộng rãi đến bà con, họ hàng vẫn còn. Ở nhiều nơi
vẫn còn tình trạng cán bộ lợi dụng chức quyền đưa người thân vào cơ quan nắm
giữ những chức vụ quyền lực quan trọng, né tránh không dùng những người chính
trực để mưu lợi cá nhân. Mặt khác, họ biến các quan hệ cơ quan thành quan hệ kiểu
gia đình. Nhìn bề ngoài, kiểu quan hệ này có vẻ ấm cúng, nhưng nó lại chứa đựng
mầm mống mất dân chủ, mất đoàn kết, bè phái và nhiều hành vi tiêu cực khác. Đây
là tiền đề đi tới những vụ tham nhũng tập thể có hệ thống, có tính toán chặt chẽ.
Các vụ tham nhũng tập thể có khả năng vô hiệu hóa các hoạt động kiểm tra, thanh
tra của các cơ quan chức năng.
Quan niệm "nhà trước, nước sau" hầu như đã trở thành đạo lý khống chế tư
duy và hành động của một bộ phận xã hội.
Chúng ta lên án chủ nghĩa cá nhân của hệ tư tưởng tư sản, đồng thời cũng
cần lên án thứ chủ nghĩa cá nhân của những con người; còn mang nặng hệ tư tưởng
phong kiến trói chặt mình vào gia đình, một thứ chủ nghĩa cá nhân mà thực chất là
chủ nghĩa vị kỷ gia đình. Tình cảm gia đình là tình cảm sâu sắc và thiêng liêng của
con người. CNXH không xóa bỏ gia đình mà tạo điều kiện để xây dựng và củng cố
gia đình bền vững. Nhưng tình cảm của con người phải vượt qua ngưỡng cửa gia
đình, vươn tới tình cảm lớn lao, đó là tình yêu Tổ quốc. Quá nặng tình cảm gia
đình, quá tính toán vì danh lợi riêng của gia đình, thiên vị, che đậy cho bà con anh
em, kéo bè kéo cánh trong dòng họ để đối lập với lợi ích công cộng của địa phương
và xã hội là điều cần lên án và loại bỏ.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng phê phán những quan điểm và hành vi lệch
lạc trong quan hệ gia đình. Người đã nêu rõ tình trạng kéo bè kéo cánh, đưa bà con
bạn hữu không có tài năng gì vào chức này chức nọ mà quên mất rằng việc là việc
công chứ không phải việc riêng gì của dòng họ ai.
Người còn căn dặn phải cân nhắc, lựa chọn giữa gia đình to (cả nước) với gia
đình nhỏ. Người cách mạng bao giờ cũng chọn gia đình to. Đến CNXH hay CNCS,
gia đình chung đã có hạnh phúc thì gia đình riêng cũng có hạnh phúc. Vì vậy trong
lúc cách mạng gay go phải chọn cái lớn. Nếu phải hy sinh gia đình nhỏ cho gia
đình lớn cũng phải làm.
Nhân dân ta đã từng đổ mồ hôi, xương máu để giành lại độc lập; tự do, xây
dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là nền tảng của xã hội
mới, phải góp phần bảo vệ những thành quả đã đạt được. Sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước đối với vấn đề gia đình sẽ vừa đáp ứng được nhu cầu đổi mới của đất
nước, vừa khai thác những truyền thống tốt đẹp của gia đình cũ, trong đó có những
nhân tố tích cực của Nho giáo.
2/ Đối với giáo dục
2.1/ Ảnh hưởng tích cực
Đề cao việc học tập và giáo dục, Nho giáo đã góp phần quan trọng trong
việc hình thành truyền thống hiếu học, coi trọng sự học tập, coi trọng trí tuệ của
dân tộc ta.
Nho giáo quan niệm điều quan trọng nhất của việc tu thân là học tập. Nho
giáo chỉ ra rằng:
Muốn làm cho cái đức tính mình tỏa sáng ra trong thiên hạ, trước phải lo trị
sửa nước mình. Muốn trị sửa nước mình, trước phải sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề.
Muốn sắp đặt nhà nước mình, trước phải tu tập lấy mình. Muốn tu tập lấy mình,
trước phải giữ lòng dạ cho ngay thẳng. Muốn giữ lòng dạ cho ngay thẳng, trước
phải làm cho cái ý mình thành thật. Muốn làm cho cái ý của mình thành thật trước
phải có tri thức chu đáo. Muốn có tri thức chu đáo, ắt phải nghiên cứu sự vật.
Việc học tập phải tiến hành trong suốt cuộc đời mỗi con người: Muốn thi
hành những đức nhân, trí, trực, dũng, cương cho đúng đạo, con người trước hết đều
phải học. Đã học học thì phải luôn ghi nhớ "học cho rộng, hỏi cho cùng, nghĩ cho
kỹ, biện cho rành, làm cho siêng".
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, việc kế thừa truyền thống ham học, tinh
thần học không biết chán, dạy không biết mỏi của Nho giáo là việc làm hết sức cần
thiết. Hồ Chí Minh từng nói: Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những con
người XHCN. Con người mới XHCN không phải tự nhiên mà có, phải trải qua quá
trình học tập, rèn luyện. Học ở đây không phải là học tập những sách vở thánh hiền
mà là học tập những tri thức khoa học tiên tiến của thời đại. Có nắm vững những