Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

CÁC BẢN IN TRANH MINH HỌA THỜI NHÀ MINH doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.07 KB, 9 trang )

CÁC BẢN IN TRANH MINH
HỌA THỜI NHÀ MINH


Nhìn trộm - tranh minh họa của Trần Hồng (thời
Minh)

Nhắc đến các tranh minh họa trong sách của Trung Hoa, người ta
thường liên tưởng ngay đến những bộ truyện tranh liên hoàn, các độc
giả Việt Nam trong thế kỷ hai mươi hẳn không ít ngư
ời mang trong tâm
trí những ấn tượng đậm nét về những bản chuyển thể truyện tranh liên
hoàn của các tác phẩm văn học kinh điển Trung Hoa như “Tam quốc
diễn nghĩa”, “Thủy Hử”, Truyện tranh liên hoàn là một loại hình
nghệ thuật mới xuất hiện đầu thế kỷ hai mươi ở Trung Quốc, đư
ợc thừa
hưởng tinh hoa từ hội họa truyền thống Trung Hoa và truyện tranh
phương Tây, ngoài ra còn có một yếu tố quan trọng góp phần vào sự
thành công trên khắp thế giới của truyện tranh liên hoàn Trung Quốc,
đó là nghệ thuật khắc bản in tranh đã được hình thành và phát triển ở
Trung Quốc từ hàng nghìn năm nay.
Có nhiều giả định về thời gian ra đời của nghệ thuật khắc bản in Trung
Hoa, có cách nói là thời Hán, có thuyết nói thời Đông Phổ hay Tùy
Đường. Hiện nay tác phẩm in bản khắc cổ nhất được tìm thấy ở Trung
Quốc là bức vẽ ở đầu cuốn Mật kinh kim cương Ban Như
ợc Ba La (gọi
tắt là kinh Kim Cương), theo thời gian ghi trên cuốn kinh này thì tác
phẩm có niên đại là năm 868 sau công nguyên. Hiện nay đã phát hiện
được nhiều tác phẩm in khắc thời Đường với đề tài chính là tôn giáo.
Nghệ thuật khắc bản in được phát triển ở Trung Quốc qua các thời đại
và đến hai triều đại sau cùng là nhà Minh thì đạt đến đỉnh cao. Đặc biệt


phát triển là những bức minh họa in trong các tập kịch và tiểu thuyết.
Tranh minh họa là một công cụ phổ cập tuyệt vời, tiểu thuyết, kịch,
sách tôn giáo, Nho học, nữ công, … đều được in với các tranh minh
họa. Những bức tranh minh họa này được in bằng những bản khắc gỗ
được khắc tỉ mỉ công phu, có nhiều hình ảnh đến từ cuộc sống thật.
Những bức minh họa còn được dùng để biến những tri thức khoa học
kỹ thuật thành các hình ảnh để giới thiệu cho người xem, trở thành một
loại sơ đồ có tác dụng thuyết minh lớn. Từ đời Tống trở lại nghệ thuật
khắc bản in được liên kết với thương nhân buôn bán sách để đặt ra một
tiêu chuẩn cho phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường: các sách
Yếu thuật tề dân (thủ công nghiệp), Nông chính toàn thư (nông
nghiệp), Quân khí đồ thuyết (quân sự), Viêm kinh, Thảo bản (y dược),
và một số tài liệu địa phương đều dùng tranh minh họa.
Các tác phẩm văn học đóng góp nhiều nhất trong việc phát triển nghệ
thuật in khắc, đặc biệt là văn học thị dân thể hiện cuộc sống phong phú
đa dạng, chỉ rõ các mâu thuẫn xã hội, phân chia thiện ác với một số
hiện tượng xã hội, đi sâu vào khắc họa tư tưởng tình cảm và nguyện
vọng của nhân dân. Mặc dù trong các tác phẩm văn học đó vẫn có
những rào cản có tính phong kiến, thời Minh giới sĩ phu vẫn muốn đưa
tư tưởng của bản thân vào đó nhưng kịch và ti
ểu thuyết của thị dân luôn
giàu tính quần chúng nhất, thị hiếu của nhân dân và các phán xét đạo
đức quyết định tính nghệ thuật của nền văn học này. Nội dung về cuộc
sống mà kịch và tiểu thuyết cung cấp chính là nguồn sống của nghệ
thuật tranh in khắc.
Hàng Châu và Kiến An là những khu vực tiên phong của nghệ thuật in
khắc trong thời Tống và thời Nguyên. Đến thế kỷ 14, Nam Kinh sau
khi trở thành thủ đô của Chu Nguyên Chương thì công nghiệp in ấn
Nam Kinh cũng từ đó mà phát triển lên, đến thế kỷ 16 thì Nam Kinh tr


thành trung tâm của nghệ thuật in bản khắc.
Thời Nguyên họ Vu ở Kiến An có những tác phẩm in tiêu biểu là bộ
Toàn tướng tam quốc chí bình thoại, Toàn tướng kế tiền Hán thư bình
thoại, Bố cục đều là tranh trên chữ dưới, tuy phần chữ là chính
nhưng các bức tranh đã có tính chất của tranh liên hoàn. C
ảnh vật trong
tranh đơn giản, không chú trọng thể hiện chiều sâu không gian, hình
nhân vật được vẽ rất sinh động chân thực, thậm chí đi âu vào chi tiết,
có thể thấy mục đích chủ yếu là khắc họa nhân vật. Phong cách tranh
minh họa của Kiến An trực tiếp ảnh hưởng đến Nam Kinh.
Những bộ tranh minh họa sách truyền kỳ mà Phúc Xuân đường và Thế
Đức đường ở Nam Kinh có thể lấy làm tiêu biểu minh chứng cho sự
ảnh hưởng của phong cách Kiến An đến nghệ thuật tranh in khắc Nam
Kinh. Các bộ truyền kỳ Phúc Xuân đường khắc đều là tác ph
ẩm của các
tác giả vô danh, mười loại truyền kỳ một bộ, có mười bộ, tổng cộng có
một trăm loại truyện truyền kỳ. Nội dung đa dạng, có chuyện lịch sử,
anh hùng và truyền thuyết, các truyền thuyết và những chuyện tình yêu
lưu truyền trong dân gian. Truyền kỳ là một loại hình kịch nở rộ ở
Giang Nam thời Minh, sách truyền kỳ của Phúc Xuân đường và Thế
Đức đường có hình thức tương đồng, mỗi cuốn đều có mười mấy bức
tranh minh họa rộng kín trang giấy, bản in có nét khắc mạnh, cứng và
sử dụng những nét đen thô, hình ảnh nhờ thế mà nổi bật lên, bối cảnh
đơn giản nhưng được bố cục dựa theo cảnh sân khấu, người đang đi
trên đường và người đang ngồi đợi ở nhà có thể cùng lúc xuất hiện
trong một khuôn hình, đó là bởi vì: cảnh trong và ngoài nhà không bị
chia ra; cự ly giữa các nhân vật ngắn; những thứ này đều cho thấy dấu
tích của bài trí sân khấu. Hình nhân vật rất sinh động, được vẽ ra các
loại hình nhân vật theo kịch bản, động tác và biểu cảm đều rất rõ ràng
mạnh mẽ.

ở thời Minh, huyện An Huy (thời cổ gọi là Huy Châu hoặc Tân An) đã
sinh ra rất nhiều thợ khắc bản in danh tiếng, trong đó danh tiếng nhất l
à
hai nhà họ Hoàng và họ Uông. Quy mô sản xuất của họ bao trùm trong
và ngoài huyện An Huy, các tác phẩm tiêu biểu có bộ Liệt nữ truyền,
Lý Trác Ngũ bình Ngọc hòa ký, Tỳ bà ký. Các tác phẩm của họ tuy
không giống nhau hoàn toàn, nhưng về cơ bản có thể chia làm hai d
ạng,
một dạng gọi là Tân An Hoàng thị hay còn gọi là Huy phái, một dạng l
à
tổng hợp của những loại được hình thành cuối thời Minh ở các nơi
Nam Kinh, Tô Châu, Hàng Châu.
Tiêu chuẩn tranh in khắc của Tân An Hoàng thị là đường nét hoa văn
mảnh như tóc, uốn lượn mềm mại, hình nhân vật cao, hình các nam nữ
thanh niên có mặt tròn và nụ cười như không cười là vẻ đẹp lý tưởng
của thời đại đó. Khắc cảnh trong nhà bắt buộc phải đưa thêm cả cảnh
bên ngoài, các cảnh vật đều được khắc rất tỉ mỉ, cửa, nền nhà, hoa văn
trên chiếu, v.v đều được khắc rất kỹ lưỡng gọn gàng. Kỹ thuật điêu
khắc tinh tế hơn Phúc Xuân đường, nhưng hình nhân vật chưa thể hiện
được tiến bộ.
Tác phẩm Thanh lâu vận ngữ của Hoàng Nhất Linh là tiêu biểu cho
phong cách cuối thời Minh, cũng là phong cách có độ chín nhất của
nghệ thuật tranh in khắc thời Minh. Biểu cảm và quan hệ của các nhân
vật đều tự nhiên chân thực hơn trước, các vật làm bối cảnh cũng được
khắc rất tỉ mỉ phong phú. Các tác phẩm khác cùng th
ời gian theo phong
cách này đều tăng mật độ tranh minh họa trong các cuốn sách, quan hệ
và hoạt động của nhân vật cùng bối cảnh đều được tổ chức lại, thể hiện
chủ đề một cách thống nhất, thoát ra khỏi ảnh hưởng của phong cách
Phúc Xuân đường và Tân An Hoàng thị.

Tô Châu, Hàng Châu cuối đời Minh cũng có vài cao thủ khắc bản in,
như Hạng Nam Châu ở Hàng Châu, ông khắc bản in minh họa Tây
sương ký, sinh động mà tinh tế, thể hiện những biến hóa rất phức tạp
của tình cảm. Ông cũng khắc nhiều tranh minh họa kịch, những tranh
này có thể được khắc dựa theo một số bản thảo. Cuối thời Minh, họa sĩ
bình dân và thợ khắc bản in thường hợp tác với nhau, ví dụ như họa sĩ
Tô Châu Vương Văn Huy vẽ tranh và thợ khắc Lưu Cảo Khanh khắc
bản in tạo ra các tác phẩm Mẫu Đơn đình, Hồng lê ký.
Những bức tranh minh họa cuối thời Minh thường theo xu hướng nét
m
ảnh nhỏ, nhân vật nhỏ, chú trọng bối cảnh, đặc biệt theo đuổi việc thể
hiện tình cảm tinh tế, cách thể hiện giàu ý thơ dần thay thế phong cách
giàu hành động của sân khấu kịch. Ngoài ra cũng có thêm thành phần
không lành mạnh, các tình cảm bệnh hoạn, những hình ảnh sắc dục
cũng xuất hiện trong tranh in khắc cuối thời Minh. Cũng có một số
tranh trở nên tầm thường, thiếu khả năng thể hiện. Nhưng xét trên toàn
bộ tranh minh họa cuối thời Minh thì bất kể về nội dung hay biểu hiện
đều rất phong phú, chất lượng rất cao.
Trong những nhà làm tranh minh họa cuối thời Minh không thể không
nhắc đến Trần Hồng Thụ (1598-1652). Trần Hồng Thụ là họa sĩ người
Triết Giang, tổ tiên là quan lại, đến đời cha thì gia cảnh tàn tạ, ông từ
nhỏ đã học rộng hiểu nhiều, thơ văn thư pháp đều giỏi, từng theo học
danh họa Lam Anh (1585-1664). Năm Sùng Trinh thứ mười hai, Trần
Hồng Thụ đến Bắc Kinh trở thành họa sĩ hoàng gia, phụng mệnh vẽ
chân dung các vị vua, nhờ vậy có dịp xem các tranh quý lưu trữ trong
phủ nội vụ, trình độ nhờ vậy mà nâng cao, sau nổi danh, tên ông được
gộp với tên danh họa Thôi Tử Trung (?-1644) mà gọi là “nam Trần bắc
Thôi”, sau khi triều Minh diệt vong, triều Thanh lên thay, Trần Hồng
Thụ cạo tóc đi tu, về sau lại hoàn tục, cuối đời theo học Phật và thiền.
Năm hai mươi tám tuổi, Trần Hồng Thụ vẽ liền bốn tháng, hoàn thành

bộ bản thảo tranh minh họa cho Thủy Hử diệp tử, bộ Thủy Hử diệp tử
này của Trần Hồng Thụ đã thể hiện bốn mươi vị anh hùng Lương Sơn
Bạc sống động như thật, ông dùng nhiều nét bút sắc, đường nét biến
hóa mạnh mẽ, các nếp quần áo của nhân vật rất hợp lý cho thấy từng
chuyển động, đường nét nhịp nhàng, đ
ặt bút có lực, nhấc bút nhẹ, trong
nét nhẹ lại có lực. Bộ tranh minh họa này vừa xuất ra thì không chỉ dân
chúng chen nhau đi mua mà còn được các văn nhân hết lời ca ngợi.
Thủy Hử diệp tử của Trần Hồng Thụ cuối thời Minh đã khiến cho
người đời sau rất khó thoát khỏi tầm ảnh hưởng của ông khi muốn vẽ
chân dung các anh hùng Lương Sơn Bạc. Ngoài ra Trần Hồng Thụ còn
có không ít những tác phẩm tranh minh họa tiêu biểu khác như những
bộ tranh của các cuốn Tây sương ký, Cửu ca đồ, Khuất Tử hành ngâm
đồ,
Kỹ thuật in ấn thời Minh có thành tựu lớn nhất là đã phát minh ra cách
in màu theo bộ. Mỗi màu dùng một bản in, in làm nhiều lần để có được
nhiều màu sắc, kỹ thuật này gọi là “đậu phạn” (lấy từ tên một loại bánh
nhỏ có năm màu). Còn tận dụng các bản in nổi để ấn ra những hoa văn
giập nổi trên mặt giấy, kỹ thuật này gọi là “củng hoa” (nghĩa l
à hoa nhú
lên). Hồ Chính Ngôn người An Huy đã vận dụng những kỹ thuật này
để in các bức tranh minh họa rất đẹp và tinh tế, bộ màu dùng để in vẫn
là những màu phổ biến của tranh tết, điển hình có tác phẩm Thập trúc
trai chi phổ (in năm 1627).
Trong nh
ững tác phẩm tranh minh họa in bằng bản khắc trong giai đoạn
đầu thời Thanh còn lưu được đến giờ, có tác phẩm của cao thủ thời
Khang Hy là Bào Thừa Huân là kế thừa truyền thống. Bộ minh họa
Thái bình sơn thủy do danh họa Tiêu Chỉ Mộc vẽ bản thảo làm đặc biệt
nổi bật sức biến hóa khéo léo của nghệ thuật in khắc. Nghệ thuật tranh

in khắc đầu thời Thanh đã có đầy đủ điều kiện phát triển nhờ những
thành tựu từ thời nhà Minh của ngành in ấn này, để đến thời dân quốc
có thể cho ra đời những bộ truyện tranh liên hoàn đặc sắc giàu nghệ
thuật Trung Hoa.
Vũ Phương Nghi

×