Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

CHỦ NGHĨA ẤN TƯỢNG VÀ CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC TRÀO LƯU NGHỆ THUẬT THẾ KỶ 20-21 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.2 KB, 6 trang )

CHỦ NGHĨA ẤN TƯỢNG VÀ
CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN CÁC TRÀO LƯU NGHỆ
THUẬT THẾ KỶ 20-21
Trong sự phát triển của Hội họa, ảnh hưởng của
trường phái ấn tượng rất lớn đến các trường phái
khác, đến cả các trào lưu của nghệ thuật sau này.
Cuộc triển lãm đầu tiên vào năm 1874 c
ủa các họa
sĩ ấn Tượng trưng bày bức tranh ấn tư
ợng mặt trời
mọc của Monet dường như là điểm báo cho sự
xuất hiện, bung mở về nghệ thuật tạo hình, là nền
tảng của những gì sẽ xuất hiện sau này. Bằng
những đề tài là những sinh hoạt ngoài trời hòa nhập với cảnh sắc thiên
nhiên như người chèo thuyền ngắm cảnh, những nhóm người uống cà
phê ngoài trời và những buổi picnic, những hình ảnh con người đi dạo
trong những khu vườn tràn trề ánh sáng. Cho ta thấy một sự đam mê v

ánh sáng của các nghệ sĩ ấn Tượng.
Manet khởi đầu cho những lý thuyết về màu sắc, ánh sáng và có phần

CÉZANNE-tĩnh
vật-sơn dầu
nào ít hơn về sự chuyển động và điều đó đã trở thành mục tiêu của các
họa sĩ ấn tượng. Phần kết quả mà Manet đạt được trong họa phẩm
thuộc thời kỳ đầu của ông. Nó khiến các họa sĩ quan tâm hơn đến bề
mặt phẳng dẹt của mặt phẳng mà họ sáng tác trên đó. Điều này trở
thành cực kỳ quan trọng về sau này, khi họa sĩ sử dụng bút cứng, bàn
chải và tạo ra những vết cào, rạch, cùng những dấu vết khác mang lại
cho người thưởng ngoạn một trải nghiệm về tác phẩm, về sự từng trải


của chính tác phẩm và một số cảm giác của họa sĩ khi sáng tác ra nó.
Đó là bước khởi đầu loại hình có tính vật lý trong hội họa để cuối cùng
trở thành đề tài ý nghĩa trong hội họa Trừu tượng.
Yếu tố thời tiết, ánh sáng của mặt trời tác động đến thiên nhiên cũng
tạo ra cho các nghệ sĩ ấn tượng những hiệu quả đáng kể. Họ hiểu được
rằng sự làm mờ hoặc làm tối đi phần nào vật thể thì cũng đạt được
những hiệu quả mạnh mẽ tựa như ánh sáng mặt trời hoặc thời tiết
sương mù tác động đến thiên nhiên khi họ vẽ ngoài trời. Điển hình như
trong tranh của Monet, ở một loại tranh ông vẽ về đống rơm, về nhà
thờ, về hoa súng, hoa trên cánh đồng, về cầu Watterlonvaf trong loạt
tranh vẽ ở những khu vườn.
Nhằm đạt được vẻ rung động ánh sáng, các họa sĩ ấn tượng triển khai
gối lên nhau những màu sắc bổ sung trong những vùng rộng nhằm tạo
sự sáng chói lớn lao hơn và để diễn tả các vùng tối thì họ sử dụng
những màu sắc đối nghịch với màu của các vật thể in bóng dưới nước.
Họ cũng làm sống lại một kỹ thuật cũ là tạo ra những vệt sơn dày nh
ằm
nắm bắt và phản ánh ánh sáng thực từ bề mặt. Kỹ thuật này gọi là sơn
theo lối “đốm”. Tuy vậy, bước đột phá quan trọng của nghệ sĩ ấn tư
ợng
là sử dụng các màu sắc được hòa trộn từ những màu riêng rẽ. Ta sẽ tìm
được tiếng nói chung này của ấn tượng với việc phóng to các điểm ảnh
số ngày nay, khi ta phóng đại nó với mức độ nhiều chục lần.
Và cũng chính bởi việc các họa sĩ ấn tượng loại bỏ sắc đen ra khỏi tác
phẩm của mình mà thay vào đó sự phân giải bóng tối thành những quệt
màu nhỏ đan xen, tạo ra thứ bóng tối có màu rung rinh ẩn hiện. Vì vậy
mà mặt tranh càng trở nên sáng, điều này rất gần gũi với tính chất của
màn hình điện tử sau này. Màn hình điện tử hiện theo nguyên t
ắc chỉ có
3 màu : lam, lục, đỏ (thuật ngữ RGB), không hề có màu đen, đan xen

nhau mà tạo ra một bảng màu hiển thị phong phú. Tới 65 triệu màu và
có thể còn hơn thế nữa. Điều này còn khẳng định hơn sự đóng góp to
lớn của các họa sĩ ấn tượng đối với nghệ thuật hiện đại.
Những thu lượm của khoa học thông qua việc khám phá về quang học
cũng đã giúp cho các họa sĩ ấn tượng có những khai thác về vẻ lung
linh của tự nhiên. Như những tác phẩm của Renoir, ông đã khai thác
những vệt sáng lung linh dưới tán lá, trên thảm cỏ và trên những trang
phục tươi tắn của các cô gái Paris, còn Monet lại say mê những đốm
sáng long lanh, huyền ảo và trong vắt nhảy nhót trên những gợn sóng
lăn tăn trong đầm hoa súng.
Còn Degas ở nhũng sáng tác về vũ nữ balé hay dàn nhạc nhà hát lại là
cái nhìn độc đáo, bất ngờ, cũng là cái nhìn thấu thị của ngôn ngữ ống
kính quang học ở các góc nhìn (góc nhìn từ trên xuống, cận và toàn
cảnh ).
Với Georges Seurat và Paul Signac tạo ra trường phái chấm điểm
(Pointillism) hay còn gọi là phân điểm ( Divíionism), phát triển trên
nguyên tắc lấy tri thức khoa học làm nền, cường độ thị giác nhờ vào sự
phân tích màu sắc mà đạt tới mức độ tối đa. Đó là hình thức chia mảng
bố cục thành vô vàn các đốm màu nguyên thủy như: Lam, lục, đỏ,
vàng thì đây chính là hình thức hiển thị hiệu quả đúng cho các hệ
thống màu hình điện tủ sau này. Như trong tác phẩm Pin.Saint Tropez
của Paul Signac phương pháp phân điểm trong cách diễn giải vấn đề
khiến ta thấy như thực sự đang xem một bức tranh phong cảnh được
tách màu trên máy tính với các phần mềm và sử dụng hiệu ứng đồ họa.

Rồi đến những tác phẩm của Cezanne với cảm quan về khối và hình 3
chiều cho đến các họa sĩ của chủ nghĩa lập thể (Cubism ) ta thấy những
lối chia hình, khối đó là từ không gian 3 chiều với lối nhìn hình học,
với những hình kỷ hà dứt khoát mở rộng không gian, phảng phất âm
vang công nghiệp. Những lý thuyết đó đã ảnh hư

ởng rất nhiều đến công
nghệ 3D sau này mà đã xuất hiện trong các thiết kế đồ họa, những tác
phẩm kỹ thuật số, trong điện ảnh giả tưởng.
Cũng trong thời điểm mà chủ nghĩa lập thể đang thịnh hành thì những
nghiên cứu về những hình ảnh động thông qua các thư
ớc Film nhựa của
Viking Eggeling (1880-1925) trong tác phẩm Diagonale Symphonie
(1924), phần nào cũng cho ta thấy được sự tiếp nối, hấp thụ từ những
trường phái khác nhau vào các loại hình thể hiện mới
Và xuất hiện sau chủ nghĩa Lập thể, chủ nghĩa Dada cũng đã là nền
móng để phá vỡ mọi rào cản nghệ thuật với những triết lý về sự phản
chiếu và chống đối mỹ học, là s
ự giải phóng cho sự tự do biểu hiện. Tất
cả những gì trước đây được cho là cao quí, là quan trọng hoặc xinh đẹp
trong hội họa đều bị họ công khai chế giễu và bôi bác qua những cuộc
triển lãm của họ.
Một yếu tố nữa của chủ nghĩa Dada đã giúp cho sự mở rộng của nghệ
thuật đó là sự trao cho những đồ vật tầm thường có được giá trị nghệ
thuật khi chúng được mang ra triển lãm. Như các tác phẩm điển hình
của Marcel Duchamp: Bánh xe đạp với một chiếc bánh xe đạp lộn
ngược đặt trên ghế, hay tác phẩm đài phun nước là cái bồn đi tiểu nam
được lộn ngư
ợc, một tác phẩm đầy ý châm biếm, với một dụng cụ phục
vụ trong việc không mấy sạch sẽ được đưa lên làm tác ph
ẩm nghệ thuật
nơi đài phun nước là những cái sạch sẽ phô trương vẻ đẹp. Và những
khái niệm của Duchamp về ready made - chỉ các đồ vật làm sẵn sản
xuất hàng loạt - được nghệ sĩ sử dụng cho các mục đích khác- biến
nghĩa, được nghệ sĩ Nam June Paik (một nghệ sĩ Mỹ gốc Hàn) sử dụng
trong các tác phẩm đầu tiên của ông.

Chủ nghĩa ấn tượng và các trường phái nghệ thuật xuất hiện sau nó
chính là nền móng cho sự bùng nổ, phát triển của các chủ nghĩa, hình
thức nghệ thuật sau này. Và cũng song hành với sự phát triển đó, ta
cũng luôn thấy thấp thoáng bóng dáng của cuộc Cách mạng khoa học
Kỹ thuật. Cũng như các thành tựu khác nhau của khoa học luôn được
các nghệ sĩ quan tâm để tạo nên những sự phát triển mới trong nghệ
thuật, cùng với những sự phát triển trong đời sống của loài ngư
ời. Nghệ
thuật luôn là sự phản ánh xã hội, thời gian mà con người đang sống.
Cùng sự phát triển của công nghệ điện tử và truyền thông, nó đã trở
thành tiền đề cho sự phát triển của các hình thái nghệ thuật đã và sẽ
xuất hiện trong kỷ nguyên số.
Lê Trần Hậu Anh

×