TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
Bài tiểu luận:
Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh
hưởng của nó đến đời sống tinh
thần của người Việt Nam
MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người ,của
từng cộng đồng xã hội.Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với cái
đích là cứu con người thoát khỏi nổi khổ.Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước công
nguyên ở Ấn Độ.
Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên của
nổi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ triền miên đó.
Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang các
nước Trung Á rồi sang Tây Tạng,Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam
Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy.Mỗi khi Phật giáo vào
nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mổi nước
có một tinh thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ
thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xã, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám
rể vững chắc trên đất nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến dời sống tinh thần của
người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của
người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ
trong giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà còn ngay cả cuộc sống ngày nay. Vì vậy
việc tìm hiểu về Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần
của người Việt Nam là hết sức cần thiết.
• Cấu trúc của tiểu luận gồm những phần chính sau:
Chương I:Nguồn gốc,quan điểm của triết học Phật giáo
Chương II:Ảnh hưởng của quan điểm Phật giáo đối với đời sống tinh thần
người Việt Nam.
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
1
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
NỘI DUNG
Chương I:NGUỒN GỐC,QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO:
I.Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo:
Là một đạo giáo hòa bình tràn đầy đức tính từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình đẳng,
vô ngã, vị tha…hiện nay Phật giáo lan khắp năm châu bốn biển. Không chỉ thâu
hẹp trong vùng Châu Á như trước đây. Nguồn gốc Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ.
Giáo chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni.
1.Bối cảnh Ấn Độ thời Đức Phật:
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người
Aryan tràn vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ chia thành bốn giai cấp là Đạo sĩ (Bà La
Môn), Vua Quan(Sát Đế Lợi), Công Nông Thương(Phệ Xá) và Nô lệ(Thủ đà la).
Gia đình chuyển thành phụ hệ.
Về tư tưởng tôn giáo
Dù nhiều đạo giáo vẫn tồn tại nhưng giáo sĩ Bà la môn truyền bá tư tưởng nhất
thần. Triết lý tôn giáo phủ nhận vai trò của con người đối với cuộc đời và cả thế
giới khách quan. Kết quả là sinh ra hai xu hướng là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi
theo dòng đời hưởng lạc thú vật chất. Từ hai mặt xã hội và tôn giáo, người dân Ấn
Độ mất niềm tin ,mong ước có một vị cứu tinh ra đời để xóa bỏ giai cấp bất công
và ổ định tư tưởng tôn giáo, đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi người.
Trong bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời.
2.Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
a. Thái tử Tất Đạt Đa:
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chia thành nhiều
nước nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên Trung Quốc,
thời 12 sứ quân ở Việt Nam.
Trong các nước đó, quốc gia giàu mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ(Kapilavastu), phía
bắc Trung Ấn, nay là pipsava, phía nam nước Nepal. Nhà vua trị vì nước đó tên là
Tịnh Phạn(Sudhodana). Vào năm 204 trước Công Nguyên, hoàng hậu
MaDa(Maya) hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) dước gốc cây Ưu Bát La thường gọi là cây Vô Ưu (Asokaa) có hoa với
màu sắc rực rỡ.
Thái tử có tên là Tât Đạt Đa lớn lên, Thái tử văn võ song toàn,có vợ là công chúa
Da Du Đà La (Yasodara), con vua Thiện Giác. Cuộc sống Thái tử rất đầy đủ,
không thiếu một thứ gì trên trần gian.
b.Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia, tu hành và thành đạo
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
2
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
Trước bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc sống con
người cậy mạnh hiếp yếu…Năm 29 tuổi, Thái Tử đã thoát ngục vàng, đến bên
dóng A Nô Ma cắt tóc làm nhà đạo sĩ
Sau thời gian học đạo 6 năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc sẽ bê tha thối
nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường trung đạo mới
mong thành chính quả. Bởi thế, Thái Tử đã bỏ năm anh em ông Kiều Trần
Như,dùng bát sữa của Tu Xá Đề(Sajata) xuống sông Ni Liên tắm rửa rồi lên thiền
quán dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại.Qua 49 ngày chiến đấu với nội ngoại
ma,Thái Tử đã chứng tam minh là Túc mạng minh,Thiên nhân minh,Lậu tân minh
và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi
c.Đức Phật giáo hóa và Niết Bàn:
Thành Phật rồi,Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo hó năm người bạn
cùng tu khổ hạnh ngày trước cùng nhóm Kiều Trần Như với phái Tứ đế
Khắp vùng Ngũ Hà suốt 45 năm,đúc Phật thuyết pháp trên 300 hội,vào tận
hang cùng ngõ hẻm một cách tận tụy và rộng rãi.Phật đã dừng chân bên vệ đường
xâu kim cho một bà già mù lòa;săn sóc,dọn dẹp ô uế cho người bệnh.Vì từ bi,bình
đẳng,đức Phật đã nhận cái tát của em bé cúng dường,nhận thức ăn dư thừa của một
tiện nữ dâng cúng.Phật cồn cho người dâm nx vào giáo hội.Với hiếu đạo,Phật đã
đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn.Phật đã giáo hóa không lúc nào ngừng
nghỉ.Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ…Tất cả việc làm của Phật chỉ có mục
đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật đến rừng SaLa vào Niết
Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào năm 80 tuổi
II. Những quan điểm triết học của Phật giáo:
Qua bao thăng trầm của lịch sử, mãi đến ngày nay, Phật giáo đã không những
vẫn tồn tại mà còn được lan truyền khắp thế giới và được nhiều tầng lớp người tôn
kính, lưu tâm tìm hiểu. Được như thế, ngoài nhân cách của Đức Phật còn nhờ giáo
lí, giáo luật, lễ nghi của Phật giáo.
1.Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan:
Quan điểm về thế giới quan về Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung
của ba cặp phạm trù: vô ngã, vô thường, và Duyên.
- Vô ngã: cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị
thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố: “Sắc” và
“Danh”. Trong đó “ Sắc” là yếu tố vật chất, có thể cảm giác được. Còn “Danh” là
yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ co tên gọi “Danh” và “Sắc” hợp lại với
nhau tạo thành “Ngũ Uẩn” nào đó. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời,
không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có cái gọi là “Tôi”.
- Vô thường: tức là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trinh bất tận: sinh- trụ- dị-
diệt. Vậy thì có có, không không luân hồi bất tận, có đó rồi lại không, cái còn mà
chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
3
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
Đức Phật dạy:” Cái gì có trong thế gian là biến đổi, hư hại, là vô thường. vì
vậy, vô thường nghĩa là không thường, không ở mãi trong một trạng thái nhất định,
luôn luôn thay đổi hình dạng, từ hình thành đến biến đổi đến tan rã. Vô thường là
phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, bài trừ sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo
vật dục. Nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vô thường là một định luật chi phối tất
cả sự vật từ tâm đến hoàng cảnh. Hiểu lí vô thường, con người dễ giữ được bình
tỉnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất thường.
Duyên: tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, từ những cái vô cùng
nhỏ đến những cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của nhân duyên:
cái nhân(hetu) nhờ có cái duyên(prattiya) mới sinh ra mà thành quả(phla). Qủa lại
do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả
mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật. muôn loài cứ
sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. Nhân là cái mầm; quả là cái hạt, cái
trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả la hai trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa
vào nhau. Không có nhân không thể có quả, không có thì không thể có nhân. Nhân
nào quả ấy.
Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bới hai thành phần: thể
xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của Ngũ Uẩn. Hai thành
phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con người cụ thể có danh
sắc(nâma-suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, duyên tan Ngũ Uẩn thì không còn
ta, là diệt.Nhưng không phải là mất đi mà trở lại với ngũ uẩn.Ngay các yếu tố của
ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luât nhân quả không ngừng.
Cho nên,con người cứ biến hóa,vụt mất,vụt còn,không có sự vật riêng biệt tồn
tại mãi mãi,không có cái tôi thượng đỉnh.Cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm
nay nữa.Vì không nhận thực được cái gọi là biến ảo(Maya),vô thường,vô định của
vạn vật mới là thường hằng và chân thực;không nhận thức được rằng: “cai tôi” có
mà không,không mà có,nên người ta lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi,cái gì cũng
thường định, cái gì cũng là của ta,là ta,do ta nên con người cứ khát ái,tham
dục,hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn dục vọng đó,tạo
những kết quả,gây nghiệp báo(Karma),mắc vào bể khổ triền miên không dứt(Sam-
sara).
Đã mắc vào sự chi phối của quy luật nhân duyên là chụi nghiệp báo và kiếp
luân hồi.Đó là cách lý giải căn nguyên của nổi khổ của con người Phật giáo.
2.Quan điểm của Phật Giáo về nhân sinh quan:
a.Quan điểm của Phật Giáo về nghiệp:
Nghiệp có nghĩa là hành động hay việc làm.Tư tưởng, lời nói hay việc làm
thường có ý muốn làm động cơ khởi xướng.Phật giáo gọi ya muốn hay ý chí ấy là
tác ý.
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
4
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
Nghiệp báo là một định luật nhân quả trong lĩnh vực luân lý hay như người
Phương Tây gọi là “ảnh của hành động”
Có vài ý kiến cho rằng thuyết nghiệp báo là loại xoa dịu, ru ngủ những
con người xấu số.Nhưng đức Phật không hề dạy thế,thuyết nghiệp báo trong
đức Phật cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán sử sau kiếp
sống.Theo lý nghiệp báo,chúng ta không nhất thiết bị trói buộc trong một
hoàn cảnh nào vì nghiệp báo không phải là số mệnh cũng không phải là tiền
định do một ma lực huyền bí đã định đoạt cho ta một cách bất khả
kháng.Chúng ta có đủ năng lực để chuyển phần nào cái nghiệp của chúng ta
theo ý muốn.
b.Quan điểm của Phật Giáo về “Tứ diệu đế”:
Nội dung của triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện trong
thuyết“Tứ diệu đế”mà Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại.Thông điệp“Tứ
diệu đế”gồm hai mặt:Nhận thức và hành động.Đó là bốn chân lý huyền
diệu,chắc chắn, hiển nhiên,bao gồm:
- Khổ đế(Dukkha):Là chân lý về bản chất của nỗi khổ.Theo đạo Phật,thực
tại nhân sinh là khổ ải;ngoài nỗi khổ do sinh,lão,bệnh,tử gây nên cho con
người còn có nỗi khổ vì không ưa mà hợp là khổ,ưa mà phải lìa là khổ,mong
không được cũng khổ,được cũng khổ mà mất cũng khổ.Đời là bể khổ.
- Tập đế(Samarudays):Là chân lý về nguyên nhan của nỗi khổ.Con người
trong thế giới hiện thực này khổ là vì đâu?Nguyên nhân trực tiếp là do con
người có lòng tham,sân,siCon người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến
dịch và thay đổi,muốn trường tồ nhưng thực tại luôn biến hóa trong vòng
sinh,lão,bệnh,tử;không có cái gì thực là ta,của ta.Do đó đã tạo nên cho con
người những nỗi khổ triền miên cho con người trong cuộc đời.Để giải thích
cho căn nguyên ấy,đức Phật đã nêu ra thuyết “Thập nhị nhân duyên”gồm: Vô
minh (avidya),Hành (Samskara),Thức(Vijnâna),Danh sắc(nâmarupa)Lục
căn(Sandagatana),Xúc(Sparacs),Thụ(vecsdana),Ái(Trisna),Thủ(Upadana),Hữ
u(bhava),Sinh(Jatri),Lão tử(jana-marana).
- Diệt đế(Nirodha):Là chân lý diệt khổ.Nổi khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên
nhân gây ra khổ bị loại từ.Lần theo thập nhị nhân duyên,tìm ra cội nguồn của
nỗi khổ và ái dục,dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ
đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng,luân hồi,đạt đến cảnh trí Niết
bàn(Nirvana).Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thoát.Trạng thái
Niết bàn,Thường trụ,Chính quả không thể lý giải được mà là tự mình giác
ngộ.Mục đích của Phật tử là thực hiện Niết bàn, khi đang tu dưỡng là thực
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
5
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
hiện Niết bàn từng phần, khi giác ngộ rồi là thực hiện được Niết bàn toàn
phần,trở thành Phật.
- Đạo đế(Marga):là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ,nói về những con
đường,cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết bàn.Con đường diệt
khổ,giải thoát và giác ngộ đòi hỏi phải rèn luyện đạo đức,rèn luyện tư tưởng
và khai sáng trí tuệ.Ba môn học này được cụ thể hóa trong khái niệm“Bát
chánh đạo”(tám con đường chân chính),đó là;
+ Chính kiến(samyak-dristi):hiểu biết đúng đắn,kiến giải chính xác.
+ Chính tư duy(samyak-samkalpa):suy nghĩ đúng đắn.
+ Chính nghiệp(samyak-karmata):hành động chân chính,thực hện ngũ
giới(không sát sinh,không trộm cắp,không tà dâm,không uống rượu,không
nói dối)
+ Chính ngữ(samyak-vaca):lời nói chân chính,trung thực.
+ Chính mệnh(samyak-samadhi):kiên định,tập trung vào con đường chân
chính,không để bất cứ điều gì làm lay chuyển,phân tâm.
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến,chính tư duy thuộc về trí
tuệ(panna);chính ngữ,chính nghiệp,chính mệnh thuộc về Định(samadhi).
Đạo Phật còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu
nghiệp là: “Ngũ giới” và“Lục độ”(sáu phép tu)…Trong những giai đoạn đầu
với vũ trụ quan nhân duyên,đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng
biện chứng tự phát.Về chính trị xã hội thì đạo Phật là tiếng nói phản kháng
chế độ đẳng cấp khắc nghiệt,tố cáo chế độ xã ghội bất công,đòi tự do tư
tưởng và bình đẳng xã hội,nêu lên ước vọng giải thoát con người khỏi nỗi bi
kịch của cuộc đời…Tuy nhiên,trong luận thuyết về nhân sinh và con đường
giải thoát,tư tưởng Phật giáo còn hạn chế,mang nặng tính bi quan,yếm thế về
cuộc sống,chủ trương“xuất thế”, “siêu thoát” có tính chất duy tâm,không
tưởng về những vấn đề xã hội.
Sau khi đúc Phật tạ thế,các đệ tử của Người đã định kì họp lại.Và tại các
cuộc họp càng về sau,sự bất đồng ý kiến giữa các chư tăng trong việc hiểu và
giải thích kinh phật ngày càng gay gắt.Hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm
hai phái:Phái của các vị trưởng lão gọi là Thượng Tọa(theravada) theo xu
hướng bảo thủ,chủ trương bám sát kinh điển,giữ nguyeem giáo luật;Phật tử
chỉ giác ngộ cho bản thân,chỉ thờ đúc Phật Thích-Ca và chỉ cầu sớm chứng
quả La Hán.Phần đông tăng chúng còn lại không chịu nghe theo,họ khai hội
nghị riêng,lập ra phái Đại Chúng(mahasanghika) chủ trương không câu nệ cố
chấp vào kinh điển,khoan dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật,thu
NGUYỄN THỊ HƯƠNG-Lớp Văn Cao Hoc K19
6