Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

NÉT NỔI BẬT TRONG NGHỆ THUẬT AI CẬP CỔ VÀ VÙNG TRUNG CẬN - ĐÔNG phần II pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.47 KB, 14 trang )

NÉT NỔI BẬT TRONG NGHỆ
THUẬT AI CẬP CỔ VÀ VÙNG
TRUNG CẬN - ĐÔNG
phần II
NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC
1. Điêu khắc Ai Cập
Không ngòi bút nào có thể diễn tả đư
ợc sự kỳ diệu
của nghệ thuật điêu khắc Ai Cập cổ. Qua khai
quật các khu mộ, người ta tìm thấy những tác
phẩm điêu khắc còn nguyên vẹn bằng đá granit
hồng, baza, thạch anh, pofia chúng không bị ăn
mòn theo thời gian. Chính các tác phẩm bằng gỗ,
đất nung, sành, đồ mỹ nghệ, các bức tượng và các
chạm nổi tạo thành kho báu quý về nghệ thuật
điêu khắc cổ Ai Cập còn tồn tại đến ngày nay. Tuy nghệ thuật điêu
khắcAi Cập cổ được nghiên cứu một cách say mê nhưng không có tên
tuổi điêu khắc gia nổi tiếng nào được lưu truyền qua sử sách. ở đây,
chúng ta không đi quá sâu hay quá chi tiết vào sự hình thành và phát
triển của nghệ thuật điêu khắc Ai Cập mà sẽ nhấn mạnh những đặc

cán dao Gebel EI-
Arak, 3150 TCN
điểm chính của nền nghệ thuật điêu khắc cổ này.
Tác phẩm điêu khắc Ai Cập cổ nhất được lưu giữ tại bảo tàng Louvre.
Đó là cán dao “Gebel el–Arak” có từ năm 3150 trước Công nguyên
(TCN). Dao dài 25cm, lưỡi bằng đá lửa, cán dao được chạm nổi tinh tế
trên ngà một chiếc răng hà mã. Đây được coi là một tác phẩm điêu kh
ắc
có tầm cỡ dù kích thước của nó không lớn. Trên đỉnh mặt trư
ớc cán dao


là hình “chúa tể của muôn thú”- một người đàn ông chi
ến thắng hai con
sư tử. Hình ảnh này rất gần với kiểu mẫu mà người ta thư
ờng gặp trong
nghệ thuật ở vùng Mésopotamie (Lưỡng Hà). Phần còn lại của mặt
trước là r
ải rác các động vật khác nhau với dáng điệu đặc biệt biểu cảm,
cân đối, chính xác. Mặt sau chạm khắc tinh tế hơn, miêu tả cuộc chiến
đấu phân chia theo ba giai đoạn, mỗi giai đoạn bố cục thành một lớp
người trong dáng hình rất sinh động. Tác phẩm đặc tả sự đấu tranh đòi
tự do của con người, hình ảnh mang tính tượng trưng về cuộc sống.
Đây là phong cách biểu đạt của phần lớn các tác phẩm nghệ thuật Ai
Cập thời bấy giờ nhưng hình ảnh trên cán dao “Gebel el-Arak” được
đánh giá là nổi bật và tinh tế hơn.
* Các quy ước từ nghìn năm
Theo sự vận động của lịch sử, dường như từ xa xưa ở Ai Cập tồn tại
một sự tiến triển đặc biệt, dần dần ấn định và áp đặt kiểu hình tượng
theo quy ước rõ ràng. Nam giới phải được miêu tả trước tiên, một chân
đặt lên trước, tĩnh lặng, ở trần, mặc khố được thắt bởi một thắt lưng và
đội tóc giả khá dầy. Còn người phụ nữ gần như lúc nào cũng mặc một
chiếc áo cánh, dài tới kheo chân, vừa khít vào người và c
ũng đội tóc giả
dầy (các hình tượng này không vi phạm phẩm chất người phụ nữ).
Những bức tượng nam, nữ có thể làm theo tỷ lệ tự nhiên, thu nhỏ, hoặc
phóng to với kích cỡ khổng lồ. Từ rất lâu, người ta đã có thói quen đặt
tượng chân dung người quá cố trong các khu mộ, kể cả khu mộ không
tráng lệ lắm. Những bức tượng này khác nhau về đặc điểm nhưng có
kiểu mẫu chung gần giống loại tượng ở giai đoạn cách đây khoảng
3000 năm.
Ví dụ điển hình là ba pho tượng to bằng người thật, được đặt trong

phòng trưng bày các tác phẩm Ai Cập tại bảo tàng Louvre t
ừ năm 1837.
Hai trong số đó gần như giống nhau, cùng đại diện cho một người đàn
ông có địa vị đáng kể tên là Sépa; bức thứ ba là người phụ nữ có tên
Nésa. Chắc chắn những bức tượng này có xuất xứ từ Saquara- triều đại
thứ III, khoảng năm 2670 TCN. Các tư thế bức tượng rất đơn giản:
người đàn ông đặt chân trái lên trước- miêu tả bước đi. Người phụ nữ
dè dặt hơn, đứng thẳng, chân khép vào nhau, khuôn mặt bất động, tĩnh
lặng, mắt mở lớn, môi khép lại, thân hình được gạn lọc một cách đơn
giản nhất nhưng vẫn uyển chuyển. Người ta cũng bắt gặp những nét
biểu lộ này ở tượng chân dung Rámsés II, tại bảo tàng Turin, nhưng
tinh tế hơn rất nhiều. Chân dung Rámas II xuất xứ từ đền Karnak vào
khoảng năm 1270 TCN. Đây là hình tượng nhà vua ngồi tr
ên ngai vàng
với chiếc áo dài xếp nếp được nghệ sĩ khai thác triệt để làm cho khuôn
mặt nhân vật sinh động hẳn lên. Các khối nổi hiển hiện rõ dưới các lớp
vải. Những nét đặc biệt này nhấn mạnh cho thấy cái thần của tác phẩm,
dù nó cách xa XIV thế kỷ so với ba bức tượng người Ai Cập ở bảo t
àng
Louvre nói trên, vậy mà vẫn có nhiều điểm tương đồng.
Nghệ thuật điêu khắc Ai Cập cổ có thể kết hợp giữa sự đơn giản hóa
hình khối với sự thuần khiết của hình dáng. Người ta nhìn thấy một vài
tư thế cứng nhắc, và nhiều đặc điểm biểu lộ cảm xúc của vô số tượng
mặt người được giữ gìn ở các bảo tàng. Vẻ đẹp của các khuôn mặt này
biết kết hợp giữa tính nhân đạo và vẻ thần thánh toả sáng. Khuôn mặt
khổng lồ của Aménophis III, với chiều cao 9m, ra đời khoảng năm
1360 TCN, hiện đang được bày tại bảo tàng British là một ví dụ (tượng
đặt trong bảo tàng được thu nhỏ còn 1,31m). Sự hài hòa giữa các nét là
điều lôi cuốn đầu tiên trong tác phẩm này: mắt tượng mang hình quả
hạnh rất phù hợp với nụ cười hé mở bởi đôi môi - một bức tượng vừa

tinh tế nhưng chân chất, mộc mạc tránh lối kiểu cách.
* Cảm hứng hiện thực
Nghệ thuật điêu khắc Ai Cập thời sơ khai đã biết chuyển một cách dễ
dàng từ cảm hứng thần thánh tới cảm hứng hiện thực. Cùng một điêu
khắc gia hay cùng một nhóm nghệ sĩ, họ đều như bằng lòng với những
chuẩn mực truyền thống và tính chân thực của khuôn mặt, khi thì mô t

tượng trưng cho một thế giới khác, lúc lại như miêu tả cuộc sống thực
hàng ngày. Có được điều này đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết kết hợp
các bài h
ọc truyền thống với khả năng quan sát trực tiếp, sự nhanh nhậy
của mắt và sự sáng tạo về hình ảnh. Một thời gian sau, nghệ thuật điêu
khắc cổ đại mới kết hợp được phương diện sáng tác này. Trong khi đó,
nghệ thuật điêu khắc Ai cập thời sơ khai đã đạt được ưu điểm này từ
khá sớm.
Đối với một vài bức tượng, điêu khắc gia hoàn toàn không giấu giếm
cảm hứng phàm tục, ngay cả khi đó là các tượng đặt trong các khu mộ.
Ví dụ tượng nhân vật cao cấp Hermiounou, tác phẩm có kích thước tự
nhiên bằng người thật ra đời khoảng năm 2580 TCN dưới triều đại IV
của Chéops. Tượng được tạc bằng tảng đá vôi lớn, riêng đôi mắt khảm
pha lê và vàng. Hình khối cơ thể vẫn theo thường lệ, mạnh mẽ nhưng
đơn giản. Điểm đặc biệt là điêu khắc gia đã không sợ khi miêu tả sự
béo phì của người đàn ông này: nước da dầy, mỡ bụng phình ra, nếp
gấp của rốn là những chi tiết mà điêu khắc gia muốn che giấu bởi ông
ngồi trong tư thế ở trần. Hình ảnh này cho thấy Hermiounou được triều
đình thời đó đãi ngộ tốt và giữ trách nhiệm quan trọng, nặng nề trong
triều đình.
Ngoài ra, vì Ai Cập gồm nhiều tầng lớp dân cư khác nhau ở đây có sự
chú ý đặc biệt về vấn đề chủng tộc. Điển hình là một loạt tượng mặt
người được gọi là đầu “đặt trước” (tête “de réserve”). Các chuyên gia

đã bàn luận rất nhiều về mục đích của nhà điêu khắc khi tạo ra những
khuôn mặt này nhưng vẫn không có kết luận chắc chắn nào, ngoài việc
biết có từ triều đại thứ IV- TCN, dưới sự trị vì của vua Chéops. Còn
nhiều tranh luận về nhóm tượng này, đầu tiên là sự trần trụi đáng ngạc
nhiên của những bức tượng đầu người: có tượng là khuôn m
ặt trái xoan
khá hoàn hảo với mũi dài, thẳng, đôi môi đều đặn; ngược lại, có khuôn
mặt thô, mũi tẹt, môi dầy như đặc điểm của người xứ Nuy-bi; tuy
nhiên, điều đáng ghi nhận: đây là những bức tượng được mô tả không
phải với chủ ý châm biếm.
Người ta cứ ngỡ không thể đoán được tuổi nhân vật mẫu của các bức
tượng Ai Cập cổ, thực tế đã chứng minh điều ngược lại. Chúng ta đề
cập đến hai tượng chân dung Tchéti- quan chưởng ấn vùng Hạ Ai Cập
(Basse - égypte) có từ triều đại Pépi đệ I hoặc Mérenrê (khoảng năm
2339 - 2292 TCN). Cả hai đều là tư
ợng nhỏ bằng gỗ, cao khoảng 75cm:
Bức thứ nhất hiện đang được bảo quản tại bảo tàng British, là hiện thân
của một chàng trai trẻ, mảnh mai, đầu ngẩng cao và hoàn toàn khoả
thân (điều này chứng minh nghệ thuật Ai Cập diễn đạt khoả thân một
cách dũng cảm trước cả Hy Lạp); Bức thứ hai được gìn giữ tại bảo t
àng
Louvre lại mang dáng hình chắc khỏe, khuôn mặt to với hai má tròn, c

đầy, và lần này vị chức sắc mặc một chiếc váy khá dài cùng với thắt
lưng. Điều đó có nghĩa nghệ sĩ hoàn toàn có thể cảm nhận và thể hiện
cuộc sống nội tâm của hình mẫu, hơn nữa họ đã bi
ết cách thoát khỏi cái
nhìn quá phụ thuộc vào hiện thực nên đã thu nhỏ các nhân vật của
mình. Một cặp tượng nhỏ khác tại bảo tàng Louvre (khoảng năm 2500 -


2350 TCN), đó là đôi vợ chồng được chạm khắc bằng gỗ, tuy tư
ợng kết
hợp với chủ nghĩa hiện thực nhưng hoàn toàn thoát khỏi những quy
ước. Trường hợp của bức tượng nổi tiếng: “Viên thư lại ngồi xổm”
được Mariette phát hiện vào năm 1850 cũng tương tự. Tượng được bảo
quản tốt nên phần lớn màu sắc của bức tượng còn giữ được cùng với
đôi mắt khảm pha lê đá. Tượng “Viên thư lại ngồi khoanh chân” không
còn thấy xuất hiện bộ tóc giả, hai tay ông cầm quyển sách và đặt lên
đùi, tượng không còn trong tình trạng khoả thân mà mặc chiếc khố
trơn. Cái trục của tập giấy cói là một nét nhấn khác lạ trong bức tượng,
tượng để lại ấn tượng mạnh mẽ hơn qua các chi tiết như: bộ ngực xệ
xuống, bụng phình ra, rốn lõm vào, khuôn mặt có hai gò má nổi lên,
cằm vuông và môi mỏng. Bức tượng trên bắt đầu có từ triều đại thứ IV
(theo cách tính ngày nay là khoảng năm 2620 - 2500 TCN). Các
chuyên gia đều thống nhất ý kiến là cảm hứng sáng tạo này không thể
so sánh như thành quả của sự phát triển, nhưng đó là gốc rễ của nghệ
thuật Ai Cập.
* Sự tìm tòi trong cuộc sống hàng ngày
Chúng ta quay trở lại với đề tài chạm khắc nổi để cảm nhận rõ hơn khả
năng của các nhà điêu khắc Ai Cập cổ đối với thế giới bên ngoài. Vách
ngăn của các ngôi mộ Ai Cập thường được khắc nổi, sơn hoặc điểm
xuyết màu ở vài hình vẽ. Tuy nhiên sự gò bó về phong cách thể hiện
kéo dài trong suốt bao nhiêu th
ế kỷ. Hầu hết các chạm khắc thời đó đều
có các nhân vật nhìn nghiêng, bàn chân sắp thẳng hàng trên cùng một
đường thẳng, các cảnh được phân bố thành nhiều lớp chồng lên nhau.
Trong sự gò bó chặt chẽ này lại biểu lộ sự ham hiểu biết đến lạ lùng,
vượt ra khỏi chủ đề tôn giáo. Nói cách khác, người nghệ sĩ như muốn
tìm mọi lý do để không lặp lại chủ đề tôn giáo mà thay vào đó là mô tả
cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Cuộc sống thường ngày được biểu

hiện với các luật lệ, quang cảnh diễn ra ở đồng quê, người và muôn thú
cùng một sự sinh trưởng tất cả những điều đó được miêu tả với độ
nhạy cảm tuyệt đối. Một đoạn tác phẩm như: “Séthi đệ I đang dâng bó
hoa súng” cũng đủ nhận thấy sự tinh tế của các đường lượn và s
ự chính
xác trong việc chạm khắc. Để đạt được sự khéo léo này cần phải kết
hợp việc quan sát trực tiếp cùng sự nhạy cảm của những chủ đề, từ đó
nhà điêu khắc hiểu cần đắp chỗ nào nổi, chỗ nào lõm, nét và khối hình
của nhân vật phải vừa mắt đối với một bức chạm khắc trên tường. Tác
phẩm “Nhóm dân chài và người chăn bò” (khoảng năm 2350 - 2200
TCN, triều đại thứ VI) là một ví dụ: ở đây, người chăn bò lội qua sông
với một chú bê mới sinh trên vai. Đặc biệt hơn, điêu khắc gia nhấn
mạnh chi tiết chú bê cứ ngoái cổ lại để nhìn mẹ nó. Hay bức “Cuộc săn
bắt với dây thòng lọng” (triều đại thứ V, đang được bày tại bảo tàng
Metropolitan, New York). Ngoài ra, chúng ta còn nhận thấy chút ít hài
hước trong bức điêu khắc “Năm con lừa trên cánh đồng lúa” (khoảng
đầu triều đại thứ IV, bảo tàng Royal Ontario -Toronto); bức điêu khắc
này tả một chú lừa đang tranh thủ chút thời gian dừng lại để gặm cỏ,
bốn con còn lại dường như con nào cũng đang chìm đắm trong những
cảm xúc khác nhau, chúng như đang tìm cách nắm bắt thiên nhiên. Tác
phẩm chỉ điểm xuyết một vài mầu sắc nhẹ nhàng, giản lược đi nhiều,
chi tiết đáng ghi nhận, chỉ tả năm con lừa ở dáng nhìn nghiêng. Bên
cạnh đó, người ta còn nhận thấy trong một số tác phẩm điêu khắc có sự
chế giễu và tinh thần tự do mãnh liệt. Chúng ta cũng không thể bỏ qua
vô số tượng nhỏ đặt trong các khu mộ- những bức tượng mang hình
ảnh đường phố. Đó là hình ảnh người bán thịt đang trói con vật của
mình, bà chủ cối xay bột đang cán lúa mì,.v.v Kiểu dáng của các bức
tượng này thường rất thô, chứa ít nhiều tính biếm họa nhưng đó là kiểu
nghệ thuật bình dân.
2. Điêu khắc vùng Trung cận Đông

Điêu khắc miền Mésopotamie (Lưỡng Hà) có thể khiến người ta thất
vọng bởi: so với nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, điêu khắc vùng này có
vẻ phát triển muộn hơn; cảm hứng sáng tác tương đối nhàm chán; việc
thể hiện khá vụng về và bình thường. Mặc dù vậy, Mésopotamie vẫn
xứng đáng lôi cuốn khách tham quan bởi nếu nhìn bao quát, nơi đây có
những bước khởi đầu của nghệ thuật thời tiền sử và sơ sử. Nghệ thuật
điêu khắc Mésopotamie có khả năng làm ta mơ tưởng tới những nền
văn minh xưa kia, tuy nhiên rất hiếm thấy các kiệt tác.
* Từ Mari đến vương quốc Akkad
Bức tượng nhỏ bằng alêbat (vật liệu làm đồ mỹ nghệ) mang hình ảnh
viên quan Ebih II (khoảng năm 2400 TCN) ở bảo tàng Louvre được t
ìm
thấy trong cuộc khai quật tại Mari, lôi cuốn người xem bởi khối nổi
tinh tế của cánh tay và việc xử lý các đường nét ria, váy kaunakès (một
dạng váy da cừu), cộng với đôi mắt khảm sò và đá lazunit, gây cảm
giác nhu nhược cho khuôn mặt viên quan.
Tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đầu tiên của vùng Mésopotamie phải
nhắc đến là tấm bia lớn mô tả chiến công của vua Narâm-Sin, người
đem lại “bài ca khải hoàn” cho vương quốc Akkad. Hiện tại tấm bia
được trưng bày tại bảo tàng Louvre, rất có thể nó được ra đời khoảng
năm 2230 TCN. Bia được phát hiện ở Suse, miêu tả cảnh nhà vua đang
trèo lên đỉnh núi, theo sau là binh lính. Các nhân vật diễn tả theo chiều
nhìn bên. Bố cục được phân chia trên hai đường dốc lên - tượng trưng
cho việc leo lên các bậc cao dần. Nhà vua vác chiếc cung và bao tên,
chân đặt lên một đống xác chết trần trụi. Trước mặt ngài là một t
ên lính
bị nhát dáo đâm chết, một tên khác quỳ sụp xuống đầy vẻ khiếp sợ.
Ngọn núi và cái cây tách nhóm người lính làm hai phía, t
ạo ra một cảnh
tượng thật sự trong chiến trận. Xác một trong hai tên lính rơi từ giữa

xuống như trong một rãnh nước chảy. ánh sáng được chia làm hai
vùng, một vùng bừng sáng còn vùng nhà vua không để tâm đến thì yên
tĩnh lạ lùng. Tất cả những chi tiết đó tạo nên một cảnh tượng bằng hình
ảnh vô cùng sống động, hơn cả thuật lại bằng lời.
* Thời đại vua Gudea
Trước sự sụp đổ đế chế do Narâm-Sin đứng đầu, nhà nước Xu-me của
triều đại Lagash đã ra đời, đư
ợc củng cố bởi vua Gudea, nắm quyền lực
vào năm 2125 TCN. Ông đã khôi phục lại nền kinh tế của vùng thịnh
vượng, xây dựng lại cơ cấu tôn giáo và cho làm nhiều tượng có hình
của chính mình. Những bức tượng này đều có hình dáng đơn giản,
chẳng hạn như tượng Gudea đứng, ra đời khoảng năm 2150 TCN (lưu
giữ ở bảo tàng Louvre), được đẽo bằng khoáng diorit láng bóng.
* Sự đổi mới của Suse
Thời đại Gudea sụp đổ, ánh sáng của dòng họ Lagash kéo dài không
được lâu. Các nhà sử học phỏng đoán: khoảng cuối thiên niên k
ỷ thứ III
TCN, xung quanh thành phố Suse thực sự muốn phục hồi lại đế chế,
nhưng nhiều cuộc khủng hoảng xuyên suốt cả vùng Trung Đông đã
nhập cư vào vô số dân tộc mới. Chính vì thế mà các cuộc xung đột xảy
ra ngày càng nhiều, sự chia nhỏ quyền lực dường như không thuận lợi
lắm. Trong bối cảnh này xuất hiện một dạng nghệ thuật mới phản ánh
hiện thực rối ren của xã hội bấy giờ. Đến khi Assyrie nắm chắc quyền
lực quân sự và sức mạnh kinh tế tối cao, ông thống trị từ vịnh Persique
đến bờ biển Địa Trung Hải, lúc đó người ta tìm thấy được một nền
nghệ thuật đáng tin cậy ở chính ông. Thời gian làm thay đổi mọi thứ,
những cuộc viễn chinh của các vua Ai Cập (Phraon) muốn kiểm soát s

thịnh vượng của Levant đã làm tăng sự nổi tiếng và uy thế của nghệ
thuật Ai Cập. Lúc này, thương mại đã có mối quan hệ với v

ùng Phênixi
(vùng trước kia của Châu á, ở giữa Địa Trung Hải và Li băng). Việc
dân số quá lớn trong vùng đã gây ra nỗi lo về an ninh, quân sự. Nhu
cầu phân cấp nhân công là cần thiết, điều này đã tạo ra “làn sóng” nghệ
sĩ và th
ợ thủ công có nguồn gốc khác nhau tới phục vụ đế chế Assyrien.
Cũng chính sự hỗn hợp này đã cho ra đời những bức chạm khắc nổi
trong các cung điện như cung điện của Assurnasirpal (883- 859 TCN)
tại Numrud, cung điện của Sargon II (721-705 TCN) ở Khorsabad,
cung điện Sennacherib (704-681 TCN) của con trai Sargon II và người
kế thừa tại Ninive. Ngày nay vẫn còn gìn giữ được một số chạm nổi
trang trí lớn của các công trình kiến trúc trên, các mảnh vỡ tìm kiếm
được cũng giữ gìn một cách đặc biệt. Những con bò mộng có cánh và
có đầu người được đặt như lính gác trước các cung điện thuộc
Khorsabad (bày tại bảo tàng Louvre). Hầu hết các hình tượng trong tác
phẩm được làm theo tỉ lệ khổng lồ của các mẫu hình truyền thống v
ùng
Mésopotamie. Một số phù điêu lớn bằng thạch cao hoặc bằng chất
alêbat gắn trên các bức tường gợi lại chiến công trong các cuộc chiến
của triều đại Assyrien, như tác phẩm “Những người đầy tớ mang quan
tài vua Sargon II” hay “Lễ cống nộp ở xứ Me-di” (thuộc Iran ngày
nay). Trong các phù điêu này, các hình đầu và chân đều được nhìn
nghiêng, điều này cho thấy sự ảnh hưởng rõ rệt từ nghệ thuật Ai Cập.
Tuy vậy, nghệ thuật chạm nổi ở đây còn vụng về nhưng vẫn thể hiện
các chi tiết râu, tóc, áo quần như một kiểu trang trí, song cũng phù hợp
với sự miêu tả chính xác muôn thú, đặc biệt là ngựa và bộ yên cương
của chúng. Tác phẩm “người đàn ông ôm con dê rừng non” (bảo tàng
Louvre) được biểu lộ chủ đề truyền thống người mang đồ cúng lễ. ở
đây nhà điêu khắc đã thể hiện đư
ợc nội tâm con thú non trong nét khắc,

tuy cẳng chân con thú thõng xuống nhưng gương mặt vẫn trong tình
trạng nghe ngóng. Bằng cách “chơi” nét qua hình ảnh lọn tóc xoăn và
râu người đàn ông, các nếp xếp của áo lễ, nhà điêu khắc đã thổi một
sức sống mới vào tác phẩm.
Những cách trang trí có nguồn gốc từ Ninive mang tới một phong cách
rất gần gũi, có thể không hoành tráng song mang nhiều tính hội họa
hơn. Tác phẩm “Vua Assurbanipal đứng trong xe” (668- 629 TCN, bày
ở bảo tàng Louvre), nghệ sĩ đã thể hiện ý tưởng trên một bức chạm nổi
đắp lên không dày nhưng rõ khối. Bức này gồm năm tấm phù điêu nhỏ
ghép liên tiếp lại: một người bảo vệ và một ngư
ời theo sau; những bánh
xe; hòm xe và hai người phục vụ; người dẫn đường và cuối c
ùng là nhà
vua đang điều khiển tất cả nhóm người. Hay các cảnh liên quan đến
việc đi đày của người Elamite. Các tác phẩm điêu khắc dạng này
thường ít khéo léo về kỹ thuật, nhưng lại rất ý nhị với tinh thần nhân
đạo khá bất ngờ. Đó cũng là giá trị lịch sử của chúng. Những đư
ờng nét
nặng nề trong các tác phẩm như cánh tay mạnh mẽ, bàn tay ngắn thô
làm cho tính nghệ thuật ở đây không tinh tế như các bức điêu khắc của
Ai Cập cổ. Vùng Ninive chỉ để lại cho chúng ta tác phẩm nổi tiếng “Sư
tử bị thương” tại bảo tàng British. Tác phẩm này chiếm vị trí khá quan
trọng trong lịch sử nghệ thuật. Đó là một trong những cảnh tư
ợng trong
đề tài săn bắn và chiến tranh. Chạm nổi này được treo trên bức tường
của cung điện: một cô nàng sư tử vừa bị đánh bại, phần thân sau của
con vật bị tê liệt bởi hai mũi tên xuyên qua sống lưng. Nghệ sĩ đã lột tả
một cách tuyệt đối nỗi sợ hãi của con vật, ở phần chân sau như bị tê li
ệt
kéo lê trên đất, hai chân trước co rúm lại. Điêu khắc gia diễn tả thân

con sư tử bằng một đường lượn dài, từ dưới đất lên tận mõm con vật.
Đó là một cách tôn trọng khối nổi của bức phù điêu.
* Từ thời đại Babylon đến thời đại Achéménnide
Đế chế Assyrien lớn mạnh bị đe doạ về mọi mặt và sụp đổ trong
khoảng 4 năm (từ 616 đến 612 TCN) và được thay thế bởi đế chế
Babylon (612- 539 TCN). Sau đó, triều đại Babylon lại bị thất thế trên
vùng lãnh thổ rộng lớn bởi những người Achéménide (539-330 TCN).
Thành phố cổ đại Suse và Persépolis được Darius xây dựng nên. Trong
sự xáo trộn về chính trị và kinh tế, các di sản nghệ thuật của Assyrien
có dịp được tiếp thu từ những ông chủ đầy xa hoa và các nhà kiến trúc
lớn, di sản này được phát triển trên thuyết hỗn hợp, tức là pha trộn tinh
tế các truyền thống riêng với nhiều nét của nghệ thuật Ai Cập và Hy
Lạp. Một trong những cống hiến của Babylon và Ba Tư trước kia là
biết sử dụng gạch tráng men điểm xuyết cho những màu b
ất di bất dịch;
thay việc trang trí những bức tường khắc nổi bằng chất liệu Alêbat
(albâtre), nhất là đối với phần ở ngoài khoảng không gian tự do. Người
ta đã bảo tồn những họa tiết bằng gạch lớn còn sót lại ở bảo tàng
Berlin, Londre, Louvre. Thời kỳ đó, việc sử dụng gạch điểm xuyết là
một trong những nét mới lạ và hiệu quả trong nghệ thuật trang trí ở nơi
đây, nhưng lại mất dần trong những thế kỷ kế tiếp.
Kỳ sau (phần III)
Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ

×