Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

XƯỞNG HOẠ NƠI CÁC TÁC PHẨM MỸ THUẬT THAI NGHÉN VÀ TRỔ BÔNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.73 KB, 12 trang )

XƯỞNG HOẠ NƠI CÁC TÁC
PHẨM MỸ THUẬT THAI
NGHÉN VÀ TRỔ BÔNG
hiện nay các viện bảo tàng đang tìm mọi phương
cách tinh tế nhằm bắc một chiếc cầu nối giữa các
khách tham quan với thế giới riêng tư của các
nghệ sĩ. Đó chính là việc giới thiệu với công
chúng xưởng họa, nơi nh
ững tác phẩm mỹ thuật ra
đời.
Từ trước tới nay, người nghệ sĩ lao động trong
xưởng họa của mình vẫn là một nguồn cảm hứng
cho sáng tác, ít nh
ất kể từ khi Velázquez dựng bức
tranh chân dung bản thân ông đang vẽ họa phẩm
Những người Thị nữ (Las Meninas), đó chính là
chân dung Công chúa Tây Ban Nha Margarita
cùng các thị tỳ quây quần xung quanh. Các họa sĩ
(hiếm khi kể cả các nghệ sĩ nhiếp ảnh) vẫn thư
ờng
miêu tả bản thân họ miệt mài lao động trong
xưởng họa – khi thì đứng hoặc ngồi trước giá vẽ, khi thì nghiên cứu
người làm mẫu, thậm chí đang chuyện trò với khách tham quan hoặc

Xưởng hoạ của
Francis Bacon là
một trong những
nơi tham quan hấp
dẫn nhất công
chúng hiện nay
khách mua tranh. Các giá đỡ và trang phục, các bút cọ và giá vẽ, tất cả


những trang bị ấy cho sinh kế và sự nghiệp mỹ thuật của người nghệ sĩ
đều được đưa vào tác phẩm.
Pepe Karmel, Phó giáo sư chuyên nghiên cứu lịch sử mỹ thuật tại
trường Đại học New York, có nói “Các vật liệu đồ nghề đều xuất hiện
trong bức tranh về xưởng họa ấy của Velázquez ”. Ông nói, trong các
tác phẩm sơn dầu của Rembrandt hoặc Delacroix, “ta có cảm giác
xưởng họa là cái nôi của trí tưởng tượng, nơi mọi người vận trang phục
và tạo nên những thực tế có tính hư cấu để rồi tất cả đều được ghi lại
trên khung vải bố.”
Bức họa về xưởng vẽ cũng là một cách người nghệ sĩ cho phép khách
tham quan lọt vào thế giới của riêng mình. Đó là cửa sổ giúp mọi ngư
ời
nhìn vào quá trình sáng tác của nghệ sĩ. Chính vì vậy, các viện bảo t
àng
đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày xung quanh đề tài nơi làm việc của
nghệ sĩ, ví dụ như ở triển lãm Lucian Freud: Xư
ởng họa (Lucian Freud:
L’Atelier) tổ chức tại Trung tâm Pompidou ở Paris (cho tới hạ tuần
tháng 7). Cuộc triển lãm này tập trung vào phản ánh ngư
ời nghệ sĩ đang
lao động từ đầu chí cuối, thông qua những tấm ảnh chụp và phim về
Freud đang làm việc trong xưởng họa của ông ở London.
Giờ đây, các viện bảo tàng đang sử dụng Internet làm chiếc cầu nối
khách tham quan với thế giới riêng của người nghệ sĩ : chỉ cần lia con
trỏ rồi nhấp chuột là ta có thể lôi ra một loạt những hình ảnh, xem
video hoặc tải lên mạng ý kiến với những cảm nghĩ riêng của mình.
Thậm chí bản chất của việc thăm xưởng họa cũng đã thay đổi ghê gớm
trong kỷ nguyên trực tuyến ngày nay. Harry Philbrick, Giám đốc Viện
bảo tàng Mỹ thuật Đương đại Aldrich ở Ridgefield, Bang Connecticut,
nói: “Về cơ bản, ta chỉ cần cùng ngồi xuống với nghệ sĩ, và r

ồi lôi ngay
chiếc laptop ra.”
Philbrick nhớ lại cuộc gặp Ann Lislegaard, nữ nghệ sĩ sắp đặt ở
Copenhagen, Đan Mạch, ngay trước cuộc triển lãm của cô tại Viện bảo
tàng này cách đây 6 năm. Chín tháng trước lễ khai trương cuộc trưng
bày, tôi muốn thăm xưởng vẽ cùng với Ann. Lúc đó cô đang ở New
York, và cô ấy nói: “Mời anh đến thăm tôi ở Brooklyn”, và địa chỉ là
một quán cà-phê. Và kìa Ann ng
ồi đó với chiếc laptop MAC của cô, rồi
cô mở nó ra và nói “ Đây là cách ta thăm xưởng vẽ . Tất cả nội dung
đều có trong này, ở trong máy này rồi “ . Cô có đầy đủ các files, hoạt
hình, video, cô còn có cả những hình chụp các tác phẩm sắp đặt trước
đây, thậm chí cả những dự định chuẩn bị cho những tác phẩm mới
trong tương lai, như vậy bạn thực sự đư
ợc thấy những tác phẩm hiện có
và những tác phẩm còn đang thai nghén, t
ất cả đều từ chiếc Laptop trực
tiếp phát ra.
Tuy vậy, bất chấp kỷ nguyên kỹ thuật cao hiện nay, mọi ngư
ời vẫn thiết
tha muốn được tận mắt thấy chính cái không gian thật sự, riêng tư bằng
vật chất kia, nơi các tác phẩm mỹ thuật đã ra đời, và các viện bảo tàng
đã đi đến chỗ trưng xưởng vẽ ngay trước công chúng tham quan. Năm
1998, sáu năm sau khi Francis Bacon qua đời, John Edwards, người
thừa kế duy nhất của ông, đã tặng xưởng vẽ của ông cho Phòng trưng
bày Hugh Lane ở Dublin, nơi Bacon sinh ra và lớn lên tới năm 16 tuổi.
Gallery này đã tập hợp được cả một đội quân các nhà bảo tồn, các nhà
khảo cổ và các giám định gia tiến hành kiểm kê và di chuyển nơi làm
việc của ông từ Reece Mews ở London tới Dublin. Barbara Dawson,
Giám đốc Viện bảo tàng Hugh Lane, nhấn mạnh: “Đây không phải là

một bản sao. Chúng tôi đã phân xưởng họa ra thành hàng trăm b
ộ phận,
và mỗi mục đều được tháo rời ra, rồi đem chúng đến chỗ mới. Chúng
tôi đã dỡ các bức tường, chúng tôi đã dỡ cả chiếc cửa - cánh cửa đẹp
tuyệt vời, bởi vì chính chiếc cửa này đã được họa sĩ sử dụng làm bảng
pha màu. Rồi chúng tôi dỡ đến các cửa sổ trên mái nhà, các ván sàn
Thậm chí chúng tôi còn chuyển đi cả bụi lưu cữu trong xưởng vẽ của
ông nữa.”
Tất thảy, có tới 7.000 thứ đã được ghi vào cơ sở dữ liệu của Bacon, và
cả những tác phẩm còn đang vẽ dở trong xưởng họa của ông, giờ đây
cũng được trưng cho công chúng xem. Dawson nói: “Chúng đã trở
thành một trong những điểm nhấn hấp dẫn nhất của chúng tôi, và là
một điểm hấp dẫn quan trọng đối với Dublin.”
Các Viện bảo tàng khác cũng có những bước đi tương tự nhằm trưng
môi trường sáng tác của nghệ sĩ ra cho công chúng thưởng lãm. Viện
bảo tàng Norman Rockwell ở Stockbridge, bang Massachusetts, đã di
chuyển túp lều bằng xe rơ-moóc cải tiến của họa sĩ chuyên v
ẽ minh họa
này, cùng với tất cả những nội dung bên trong, đem từ nhà ông tới
khuôn viên của bảo tàng, vào năm 1986. Năm ngoái, để tái dựng lại,
các giám tuyển mỹ thuật đã khôi phục không gian này nhằm “phản ánh
những giây phút thực sự của cuộc đời Rockwell”, theo lời của Phó
giám đốc và Trưởng giám tuyển Stephanie Plunkett cho biết. Bức họa
dở dang đặt trên giá vẽ chính là một bản sao của họa phẩm sơn dầu vẽ
trên vải bố nhan đề Golden Rule xuất hiện trên trang bìa của tạp chí
Bưu điện Chiều Thứ bảy (Saturday Evening Post) năm 1961. Những
ảnh chụp thời ấy giúp các giám tuyển xác định chính xác xưởng vẽ của
họa sĩ trông như thế nào vào năm đó. Thấy “những gì treo trên tường,
những gì là tài liệu tham khảo của Rockwell, những nguồn cảm hứng
sáng tác c

ủa ông”, theo Plunkett, khiến các khách tham quan “cảm thấy
như họa sĩ vừa mới rời khỏi xưởng họa, và họ có thể len lỏi vào th
ế giới
mà họa sĩ đã sống trong đó, vào một thời khắc cụ thể nào đó.” Cuộc
trưng bày sắp đặt này còn kéo dài tới cuối năm nay.
Một khi không kiếm được xưởng họa thực tế thì các cơ sở này trưng ra
những bản sao, chẳng hạn như công trình 1996 của kiến trúc sư Renzo
Piano tái tạo mẫu xưởng họa với các bức tường toàn màu trắng của
Brancusi, tái dựng lại tại Trung tâm Pompidou. Brancusi đã để lại chúc
thư rằng ông hiến một phần bộ sưu tầm của ông cho Nhà nước Pháp,
với điều kiện là xưởng họa của ông phải được dựng lại y như cái ngày
ông qua đời, với những tác phẩm còn đang hòan thiện và các dụng cụ
được đặt đúng chỗ của chúng.
Trung tâm Mỹ thuật Burchfield Penney tại Trường Đại học Tổng hợp
Buffalo, New York, đã thiết kế cái mà Nancy Weekly, người phụ trách
các bộ sưu tầm, gọi là “sự gợi nhớ” đến xưởng họa của Charles
Burchfield từ những hiện vật mà các thành viên trong gia đình ông và
một người hàng xóm đã hiến tặng, cộng với một số bổ sung của một
trong số những đồng nghiệp của Burchfield, người đã từng qua lại
xưởng họa của nghệ sĩ rất nhiều lần.
Nancy nói: “Nó chẳng khác gì việc xếp các mảnh hình của trò chơi trí
uẩn vào với nhau”. Trong khi còn vạch kế hoạch cho việc sắp đặt,
Nancy và nhóm công tác của chị đã tham quan các xưởng họa tại gia
của các nghệ sĩ khác có mở cửa cho công chúng vào xem: đó là Olana,
trang trại của Frederic Edwin Church ở thung lũng Sông Hudson;
Chesterwood, nơi ẩn dật của Daniel Chester French ở Stockbridge,
Bang Massachusetts; Tư gia và Trung tâm nghiên cứu của Pollock-
Krasner ở Springs, New York.
Được thấy xưởng họa của nghệ sĩ có thể giúp ta hiểu được nguồn gốc
của tác phẩm mỹ thuật về thời gian và nơi chốn. Đối với cuộc triển lãm

hồi tưởng Jackson Pollock tổ chức năm 1998-99 tại Viện bảo tàng Mỹ
thuật Hiện đại ở New York, các cán bộ tổ chức, Karmel và Kirk
Varnedoe, cố giám đốc bảo tàng chuyên trách về hội họa và điêu khắc,
đã cho rằng điều quan trọng là phải tái tạo được nơi làm việc của
Pollock trong triển lãm này.
Sau khi thăm xưởng họa trong một túp lều đơn sơ của họa sĩ ở Springs,
cả hai giám tuyển đều tin rằng nơi làm việc của ông đã có ảnh hưởng
lớn lao đối với các họa phẩm của ông. Karmel nhớ lại: “ Một trong
những thứ gây ấn tượng mạnh đối với Kirk và tôi là khi tới Springs,
chúng tôi mới được thấy xưởng họa của ông nhỏ bé biết chừng nào, và
các tác phẩm chiếm hết chỗ ở dưới nền nhà. Hẳn là tác giả đã phải chịu
một cảm giác o ép nặng nề khi tiến hành sáng tác trong cái xưởng nhỏ
hẹp này – không hẳn là tâm lý bức bội khó chịu, mà là một tình trạng
căng thẳng thường trực khi sáng tác một tác phẩm nào đó rộng lớn,
trong một không gian nhỏ hẹp đến như vậy. Và ta có dự cảm điều đó đ
ã
là yếu tố gây nên tình trạng các tác phẩm được xếp la liệt như vậy ở
trên sàn nhà.”
Họ đã xét đến khả năng sử dụng những ảnh tưòng (photomurals) dựa
trên cơ s
ở những bức ảnh nổi tiếng do Hans Namuth chụp Pollock đang
vung sơn lên các khung vải bố, nhưng “Kirk không thích ý tưởng ấy
lắm. Kirk cảm nhận được chất lượng vật chất của xưởng họa, chất thô
của các tấm ván, chất mỏng manh của kết cấu, gió thổi có thể lọt qua
các khe cửa, khe tường tất cả những thứ này cũng quan trọng không
kém, cần phải nắm bắt chúng”, Karmel cho biết. Cuối cùng, họ đã d
ựng
lại xưởng họa đó, trơ trụi và trống không, và trưng cả những bức ảnh
chụp khổ lớn của Namuth nữa.
Tại tư gia và Trung tâm Nghiên cứu Pollock-Krasner, các khách tham

quan được thấy vật thực. Đó là một chái nhà đơn sơ bên trong chỉ rộng
23 feet vuông. Helen Harrison, Giám đốc của Trung tâm, cho bi
ết: “Tất
cả đều gây một ấn tượng mạnh mẽ. Một số người cho rằng đó cũng là
một tác phẩm mỹ thuật, nhưng thực tế có phải thế đâu ! Họ cho s
àn nhà
là một họa phẩm. Họ ngắm nhìn sàn nhà và họ thấy tác phẩm của
Pollock trong đó mà không nhận ra thực tế là các h
ọa phẩm của Pollock
được kết cấu theo cách khác hẳn với bài trí sàn xưởng họa. Họ cũng
thấy được nhiệt huyết của nghệ sĩ, và đối với tôi đó là khía cạnh thú vị
nhất – cũng những sắc màu ấy và những đường nét ấy được thể hiện
trong các tác phẩm của ông. Theo quan điểm này, nó có th
ể rất khích lệ
làm mọi người hăng hái hơn lên. Những ai quen với các họa phẩm của
ông có thể nhận ra từng tác phẩm nằm ở chỗ nào khi ông sáng tác
chúng.”
Trong khi đó, một mô hình nơi làm việc của Pollock nhỏ bằ
ng ngôi nhà
búp-bê được trưng bày, cách đây 3 năm, tại Viện bảo tàng Mỹ thuật
Parrish ở Southampton, New York, trong cuộc triển lãm do Joe Fig tổ
chức, chuyên trưng bày mô hình tí hon các xưởng họa của các họa sĩ –
một inch tương ứng với một foot - tỉ mỉ tái tạo lại từng chi tiết của
nguyên mẫu xưởng họa thực. Ghi lại quá trình này trong cuốn sách của
ông nhan đề “Bên trong Xưởng họa của người Nghệ sĩ” (Inside the
Painter’s Studio), Joe tái tạo một bản sao không gian sáng tác của các
nghệ sĩ từ Jasper Johns và Robert Rauschenberg, cho tới các họa sĩ
đương đại như Ryan McGinness, Inka Essenhigh, và Dana Schutz.
Dĩ nhiên, phần lớn các viện bảo tàng không thể nào trưng được xưởng
họa của một họa sĩ lừng danh, mặc dù nhiều Viện bảo t

àng có trưng bày
được không gian và nơi ở của những nghệ sĩ xứng đáng. Tuy nhiên, ít
người lồng được cảnh nghệ sĩ đang sáng tác như một loại hình “triển
lãm sống”, theo kiểu Viện bảo tàng Mỹ thuật và Thiết kế ở New York.
Viện đã giao một phần của tầng 6 cho một số nghệ sĩ, họ làm việc tại
đó mấy ngày trong tuần trong khoảng thời gian 3-4 tháng. Trong qui
hoạch cho việc trình bày cơ sở mới 2 năm tuổi này, Giám đốc Holly
Hotchner giải thích: “Chúng tôi muốn cả quá trình sáng tác được thể
hiện trong toàn bộ bảo tàng. Cho nên nếu bạn bắt đầu cuộc tham quan
từ tầng 6, như chúng tôi khuyến nghị, và cứ thế đi dần xuống, chắc
chắn bạn sẽ nhận ra được mỹ thuật liên quan tới các họat động mà bạn
vừa được thấy.” Dĩ nhiên, theo Hotchner, các nghệ sĩ được tuyển chọn
cho chương trình này phải có một khí chất đặc biệt. Chị nói: “Nhiều
người đã từng là giáo viên hoặc là những người thích giao lưu v
ới công
chúng.”
Một dự án nghệ sĩ - lưu trú -sáng tác tương tự sẽ được thử nghiệm vào
tháng 7.2010, khi Anthony Campuzano tiếp nhận tầng 2 của Viện
Nghiên cứu Mỹ thuật Đương đại tại trư
ờng Đại học Pennsylvania trong
4 tuần. Campuzano mà các hình ảnh của anh dựa trên các bài luận văn
nói chung đều qui mô nhỏ sẽ làm việc tại bàn, và đã mời 4 người bạn
và thày dạy để dạy cho công chúng một số bài học có ý nghĩa đối với
anh hồi còn là sinh viên. Campuzano gọi không gian này là “một ốc
đảo nhỏ trong viện bảo tàng”, nhưng anh nói thêm anh thường làm vi
ệc
về ban đêm, ”khi không có ai quanh quẩn ở bên. Đó là giờ phút điều
chỉnh để thích nghi.”
Địa chỉ mạng của một viện nghiên cứu là một công cụ nữa nhằm gắn
kết các nghệ sĩ với công chúng. Trung Tâm Mỹ thuật Đương đại P.S.1

ở New York, có khu “Tham quan Nghiên cứu” của trang mạng này. ở
đây mời các nghệ sĩ đưa lên mạng những hình ảnh hoặc video về các
xưởng họa của họ và quá trình sáng tác của họ, cộng với lời thuyết
minh ngắn gọn và bài tóm tắt xúc tích. Yêu cầu duy nhất cho việc đư
ợc
đưa vào trang mạng này là phải cư trú ở khu vực New York. Với cách
viết ấy, đã có hơn 950 nghệ sĩ được đưa lên trang mạng n
ày. Trung tâm
Phác họa (Drawing Center) ở New York cũng có một chương trình
tương tự, mặc dù nó được giám tuyển chặt chẽ và không trưng các h
ình
ảnh về xưởng họa hoặc có những địa chỉ thư điện tử. Ngược lại, P.S.1
đều đặn có “những chọn lọc của các giám tuyển”, mỗi lần khoảng 10
người, tuyển chọn bởi các nhà chuyên môn không liên quan gì đ
ến viện
nghiên cứu này.
Philbrick công tác tại Viện bảo tàng Aldrich có nói ông đang cố mở
rộng sự hiện diện trên mạng cho các nghệ sĩ ngay chính trên mạng của
Viện bảo tàng của ông vào mùa thu này. Ông nói: “Chúng tôi dự kiến
cộng tác với một nhóm nhỏ các nghệ sĩ mà chúng tôi đã theo đuổi.
Chúng tôi sẽ yêu cầu họ tạo ra một cái gì đó như một blog, rồi họ sẽ có
một trang để nêu rõ họ có kế hoạch làm gì, những gì thấm vào tư duy
và quá trình sáng tác của họ. Và chúng tôi hy vọng sẽ l
àm cho nó mang
tính chất giao lưu để mọi người có thể lên mạng và nêu nh
ững thắc mắc
của họ”
Nếu cuộc cách mạng trực tuyến làm thay đổi bản chất của việc tham
quan xưởng họa, thì bản thân xưởng họa cũng đã thay đổi mạnh mẽ.
Như Dominic Molon, phó giám tuyển mỹ thuật tại Viện bảo tàng Mỹ

thật Đương đại Chicago nêu rõ chúng ta đã tiến một bước dài từ những
không gian kín đáo, riêng tư của Vermeer hoặc Courbet. Ngày nay,
nhiều nghệ sĩ lừng danh, như Jeff Koons và Takashi Murakami, đều
theo mô hình Phân xưởng (Factory model) ra đời những năm 60s của
Andy Warhol. (Jeff Koons thuê 120 nhân viên đ
ể giúp chế tác mỹ thuật
của ông !). Đó là một phương thức sáng tác mỹ thuật “vượt ra ngoài
khuôn khổ xưởng họa “chuẩn” (standard studio) trư
ớc kia bao gồm một
nghệ sĩ chuyên nghiệp lao động với một hoặc hai trợ lý, hoạt động như
một cơ sở kinh doanh, với nhiều phòng ban lao động và nhiều nhân
viên phục vụ,” Molon viết trong lời giới thiệu cuộc trưng bày mới đây
của Viện bảo tàng nhan đề “Công trường Sản xuất: Xưởng họa của
Nghệ sĩ Trước mắt Công chúng” (Production Site: The Artist’s Studio
Inside-out).
Cuộc triển lãm này lấy xưởng sáng tác làm đối tượng trưng bày, giới
thiệu các cách lý giải khác nhau của 14 nghệ sĩ. Ví dụ, các cuốn phim
của William Kentridge cho thấy chính William đang lao động trong
xưởng, phác họa và vẽ sơn dầu, với các cảnh được biên tập chiếu đi
chiếu lại, gạt bỏ mọi ý thức về tính liên tục của thời gian. Các nghệ sĩ
Thụy Sĩ là Peter Fischli và David Weiss đã chịu khó tái tạo lại các vật
tìm thấy được trong không gian làm việc của họ, chế tác tới 105 lọ,
chĩnh, bát đĩa và các dụng cụ cũng như giày
ủng, gối chăn, từ chất nhựa
tổng họp polyurethane pha với sơn. R
ồi đến cuốn video ngắn của Justin
Coopers được quay trong khi anh là một cư dân tại khu mỹ thuật
Skowhegan ở Maine, một việc làm nhằm đáp lại thời kỳ lưu trú-lao
động ở đó,” thể hiện lại các cuộc tham quan xưởng họa trong suốt mùa
hè” như anh nói, chịu đựng “sự căng thẳng của việc có người, người lạ

hẳn hoi, qua một loạt ý kiến phát biểu liên tục.”
Trong cuốn phim kéo dài 5 phút nhan đề Thăm Xưởng (Studio Visit)
(2007), một nhân vật không xác định danh tính, lầm rầm sau chiếc
camera, tay run run, bước vào túp lều thôn dã, êm đềm của họa sĩ đang
cố vẽ một lọ hoa lili. Sau khi ông vẽ như điên như dại nhưng không
thành, ông vứt mọi thứ lung tung khắp túp lều xưởng họa đó.
Cooper giải thích: “Nó nêu bật ý tưởng thiên tài muôn thuở bị dày vò,
bị day dứt, người nghệ sĩ cố sáng tác nhưng không nắm bắt được thực
tế.” (Video này có trên mạng của nghệ sĩ: nessiecoop.com).
Với sự tăng trưởng vượt bậc về công nghệ, chất liệu mỹ thuật và thông
tin toàn cầu, bản chất xưởng họa của người nghệ sĩ nhất định sẽ đột
biến bằng nhiều cách thuyết phục hấp dẫn hơn. Nhưng có một điều có
lẽ vẫn bất biến: “đó là tính tò mò vô biên, bất tận của người xem muốn
biết những gì diễn ra như thế nào trong trái tim, khối óc, và không gian
vật chất của những người theo đuổi cuộc sống sáng tác nghệ thuật”.
Điền Thanh
(sưu tầm và giới thiệu theo bài “Where the Art Happens” của Ann
Landi đăng trên Tạp chí Tin tức Mỹ thuật tháng 6. 2010)

×