Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI HỌC THUẬT NGHỆ THUẬT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.02 KB, 6 trang )

NGƯỜI NẶNG LÒNG VỚI
HỌC THUẬT NGHỆ THUẬT



ĐỖ SƠN-Chân dung Trần Thức-
Sáp màu, 2009

“Tự do – thoát khỏi gánh nặng về tuổi tác.
Nó làm cho người phải cúi đầu, gập lưng, mù mắt trước bàn tay v
ẫy gọi
của tương lai”
R. Tagore (nhà thơ ấn Độ, giải thưởng Nobel)

Đó là nhà nghiên cứu - phê bình mỹ thuật Trần Thức. Ông đã thu
ộc lớp
người ở tuổi “79 mùa xuân” và sắp bước vào ngưỡng “bát tuần thượng
thọ”. So với đồng nghiệp cùng trang lứa, kẻ còn người mất, thì tinh
thần lao động cống hiến của ông không thua kém, nếu không nói l
à khá
tích cực với sự nghiệp.
Ba tập sách chuyên khảo về văn hóa - nghệ thuật, mỗi tập 500 - 600
trang. Ngoài ra, ông còn dành thời giờ cho cả sáng tác hội họa và điêu
khắc, tham gia triển lãm, dù chỉ là lao động “nghiệp dư, tay trái”, cốt
hài hòa, bổ sung cho cảm hứng trước cái đẹp khó kìm nén - cũng là để
giải tỏa một phần ức chế trong lao động nghiên cứu - phê bình vốn
“nặng đầu” với thế giới lịch sử, tư duy, luận lý, triết học, tâm tưởng…
Với quan hệ giữa nghiên cứu và sáng tác, ông luôn ý thức sâu sắc lời
căn dặn đầy tâm huyết của cố họa sĩ, học giả, nhà nghiên cứu Nguyễn
Đỗ Cung, người sáng lập Viện Mỹ thuật và Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam, nơi ông đã gắn bó gần hết cả cuộc đời, rằng “Tôi mở lớp họa


hướng dẫn các đồng chí, cốt để các đồng chí hiểu được ngôn ngữ mỹ
thuật, giúp cho việc nghiên cứu học thuật, chứ không phải mong các
đồng chí trở thành họa sĩ mà bỏ bễ công việc nghiên cứu của mình.
Mục đích của chúng ta là để có một Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, một
cuốn sử mỹ thuật Việt Nam đúng nghĩa”. Minh bạch và chuyên nghi
ệp,
tự giác và yêu thương, nghiêm khắc với chính bản thân mình trong
nghiên cứu, mới mong tiếp cận được sự thật của khoa học và nghệ
thuật là phương châm mà Nguyễn Đỗ Cung đặt ra, đã tạo được ảnh
hưởng sâu rộng cho các nhà nghiên cứu trẻ do ông đào tạo. Kỷ luật
“cứng” trong lớp vẽ, cũng như những ngày tháng dài theo ông đi điền
dã nghiên cứu các di tích cổ, với sự hướng dẫn của ông, tưởng nh
ư luôn
mất tự do, nhưng sau đó nghĩ lại mới thấy thấm thía. Nếu không có
được những liều “thuốc đắng” ấy, làm sao có thể trưởng thành? Không
qua khổ công rèn luyện, làm sao thành tài? Hạnh phúc không tự đến gõ
cửa mỗi nhà, mỗi người. Đó là những bài học quý báu, những đức tính
cần có của người làm khoa học và nghệ thuật mà Nguyễn Đỗ Cung đã
truyền lửa sang cho thế hệ trẻ kế tục. Với tôi, ông vừa là thầy, vừa là
đồng nghiệp lớn, đã gợi mở cho tôi nhiều vấn đề cốt lõi trên bước
đường vươn tới cái đẹp của khoa học và nghệ thuật. Nhà nghiên cứu đ
ã
kể lại đầy hào hứng cho người viết những dòng ký sự này.
Là một trong số ít nhà phê bình mỹ thuật có tên tuổi còn trụ lại, Trần
Thức nay đã thuộc lớp người cao tuổi. Rất may mắn, dù trong thời
chiến tranh, bao cấp, ông đã được đào tạo tương đối bài b
ản, chính quy,
nhờ uy tín và tài năng của người đứng đầu ngành và cũng nhờ sức
khỏe, ông còn lao động góp phần tích cực cho chuyên ngành. Nhưng
giống như cây tùng già mọc trên núi đá, tuy có bộ rễ khỏe, nhưng cái

hữu hạn của hoàn cảnh và nhựa sống thời gian đâu còn nhiều. Thực tại,
nó chỉ còn là biểu tượng của mơ ước, chứ không dễ là hiện thực mãi
còn trường tồn. Đúng vào ngưỡng 79 - 80, ông mắc căn bệnh hiểm
nghèo: ung thư bao tử thời tiền khởi phát? Buộc phải trải qua phẫu
thuật. Nhưng may mắn nhờ kỹ thuật y học hiện đại, ông đã thoát hiểm!
Sức khỏe của ông đã hồi phục, nhưng vẫn chậm chạp theo nhịp sống
của tuổi già. Vui chuyện, tôi mạnh dạn đặt câu hỏi với ông: “Sáng tác,
so với nghiên cứu - phê bình có phần ít “nguy hiểm” hơn. Có đúng như
vậy không, thưa ông?”. – “Chả cứ sáng tác, nghiên cứu hay phê bình,
một khi đã say mê với nghề nghiệp, đã đi sâu vào nó, thì sự mạo hiểm,
hay nguy hiểm, thường luôn là tai ương rình rập thường trực. Vì anh/
hay chị đã nặng lòng với nghề rồi. Chả thế mà người đời bảo “sinh ư
nghệ, tử ư nghệ “ đó sao! – Lời của nhà nghiên cứu. Với lĩnh vực học
thuật, tôi rất tâm đắc với ý của ba đồng tác giả phương Tây vi
ết về công
trình mang tên “Tư duy lại khoa học” (Rethingkings science - NXB Trí
thức) gần đây, rằng: “Khoa học là tất định, lạnh lùng, thẳng thắ
n, vô tư.
Nghiên cứu là bất định, ấm áp, lôi cuốn và mạo hiểm, nhưng lại nuôi
dưỡng bằng niềm đam mê và những cảm xúc, luôn tạo ra những tranh
luận đối thoại cần thiết cho chính nó”.
Sợ ông vừa trải qua bạo bệnh, sức khỏe chưa ổn định, tôi không dám
hỏi nhiều. Tuy nhiên, gặp được người tâm tình, ông đã hào hứng trao
đổi. Dường như ông không biết mệt, không muốn dứt mạch: “Khi m
ình
đã yêu cái đẹp, đã dấn thân với nó, giống như người mê gái, thì đã là
cái Duyên, cái Nghiệp rồi. Còn gì phải ân hận, hay trách cứ ai nữa, nếu
không phải là trách chính mình: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa/Thiện căn ở tại lòng ta/Ch
ữ Tâm kia mới

bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du/ Truyện Kiều)
Ông sống và sinh hoạt giản dị trong một căn phòng không lấy gì làm
rộng rãi - chừng 15, 16 mét vuông. Một chiếc giường đôi trải đệm - n
ửa
để nằm, nửa còn lại giành cho những chồng sách dầy, tiện cho việc tra
cứu - tự điển Anh, Pháp, Hoa, Việt, những đầu sách chuyên ngành.
Ngoài ra còn 2 chiếc tủ cao nữa, mỗi tủ chia làm 2 tầng: tầng trên vẫn
là sách, tầng dưới là những ngăn kéo, hoặc có cửa khép để đựng quần
áo, đồ dùng cá nhân. Đầu giường là chiếc bàn hình hộp lớn có ngăn
kéo, mặt bàn chất đầy các loại thuốc tân dược, cốc tách, nước uống
giành cho người già dưỡng sinh. Sách bao vây giư
ờng nằm, sách chiếm
cả hai góc tường và mặt bằng, mặt cao. Ngoài ra còn có tranh, ảnh, đồ
gốm, tượng nhỏ trang trí bày xen kẽ. Mặc dù ông còn những căn phòng
rộng rãi tiện nghi hơn, nhưng ông thấy không cần. Chật chội, nhưng
ấm
cúng. Không gian làm việc của chủ nhân tỏ ra người ưa thực dụng, hơn
là thích bầy biện trang hoàng theo kiểu mỹ thuật hình thức. Cái đẹp tìm
tòi, sáng tạo, khám phá với ông mới là hiệu quả của việc làm có ích, có
tác dụng tích cực, thúc đẩy cho chuyên ngành mà ông theo đuổi.
Tạm biệt nhà nghiên cứu - phê bình giầu tình yêu, nội lực và hoài ni
ệm,
luôn nặng lòng với nỗi nhớ cái đẹp. Tất cả, dù viết hay vẽ, với ông, chỉ
hướng tới lý tưởng Chân - Thiện – Mỹ! – “Cũng là duyên nợ với đời /
Vì yêu Người Đẹp nên người tương tư”, đúng như lời thơ họa sĩ
Nguyễn Đình Huống đã viết tặng ông, sau khi xem những tập sách
chuyên khảo của nhà nghiên cứu - phê bình mà ông đã tặng họa sĩ.
Chúc ông sức khỏe, niềm vui, thanh thản với tuổi về chiều. Đúng như
những vần thơ mà ông đã cảm tác tự bạch về cuối đời ở tập 3 trong
cuốn sách của ông: “Tám mươi đã đến nơi rồi/Thấy chăng định mệnh,

hỡi người sang sông?/Nợ đời ân nghĩa trả xong/Giã từ bến đôi, thong
dong ta về” Phải chăng đó là tiếng nói của nỗi lòng, của sự thức tỉnh
con tim? Một tầm nhìn. Rất đúng với lẽ sống Sinh - Tử của một kiếp
người mà ông đã tiên định.
TRẦN LÂM

×