Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận '''''''' đổi mới tư duy của đảng về kinh tế thị trường ''''''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.29 KB, 15 trang )

Mục lục
I.Mở đầu 1
II. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường 1
1.Hoàn cảnh kinh tế nước ta những năm 80 thế kỷ 20
2.Hình thành sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
III. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các
kỳ Đại hội 3
1.Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
2.Từ Đại hội IX đến Đại hội XI
IV. Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới 6
V. Hướng giải quyết và mục tiêu phát triển của Đảng về kinh tế thị
trường trong những năm tới 9
VI. Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 14
I.Mở đầu
Nhìn lại chặng đường nước ta sau 20 năm đổi mới có những bước tiến bộ vượt
bậc. Từ một nền kinh tế tập trung bao cấp đã trở thành một nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng XHCN với rất nhiều thành tựu rực rỡ .Các ngành nghề phát
triển nhanh chóng ,đa dạng ,năng động.Đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện rõ rệt về nhiều mặt như kinh tế , giáo dục ,y tế …
Việt Nam đang trong xu hướng hội nhập quốc tế và dần khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế. Nước ta trong thời điểm hiện tại vẫn còn là một nước
nghèo, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, nông nghiệp vẫn chiếm vai trò
quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã
khẳng định quyết tâm đẩy mạnh Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa sớm đưa nước ta
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp.
Để đạt được những mục tiêu đó bên cạnh phải tận dụng những ngồn lực vốn có
như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư …thì
Đảng ta cần có tư duy đổi mới đúng đắn nhất là về lĩnh vực phát triển kinh tế. Đó


là nhiệm vụ đặt ra vô cùng cấp bách và khó khăn, bởi lẽ trong bối cảnh hiện nay
bên cạnh tình hình kinh tế còn nhiều biến động nước ta phải đối mặt với vấn đề
an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ diễn ra rất phức tạp và khó lường trước .
Sau khi tìm hiểu và tiếp thu môn học “ Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam ” em đã phần nào hiểu được tầm quan trong về những quyết sách
đúng đắn của Đảng về công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong. Chính vì
vậy em đã quyết định chọn đề tài “ Tư duy mới của Đảng về KTTT trong 20
năm đổi mới ở nước ta ” với mong muốn tìm hiểu đường lối chính sách của
Đảng và những thành tựu đạt được cùng với những thách thức sắp tới.
II. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường
1.Hoàn cảnh kinh tế nước ta những năm 80 thế kỷ 20
Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính và những chỉ
tiêu áp đặt từ trên xuống .Phương hướng sản xuất, nguồn vật tư tiền vốn,định giá
- 1 -
sản phẩm,tổ chức nhà máy, nhân sự, tiền lương…đều do các cấp có thẩm quyền
quyết định. Các doanh nghiệp được cấp phát vốn và nộp cho nhà nước .”Lỗ thì
Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu” [1,143]. Các cơ quan hành chính can thiệp
sâu dẫn đến doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cũng
không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh .Quan hệ hàng
hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Các tư liệu
sản xuất, phát minh sáng chế, sức lao động không được coi là hàng hóa về mặt
pháp lý.
“Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh
ra đội ngủ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại
được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động”[1,143].
Chế độ bao cấp của nước ta được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu : bao
cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.
Với những cơ chế như vậy có những mặt tích cực về việc tập trung vốn cho
những lĩnh vực mũi nhọn trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy
vậy cơ chế bao cấp đã làm tăng gánh nặng đối với ngân sách nhà nước, vừa làm

vừa cho nên việc sử dụng kém hiệu quả, sinh ra cơ chế “xin cho”.Thủ tiêu cạnh
tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, không kích thích tính năng động
sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tất cả những điều đó làm cho một
số nước XHCN khác lâm vào tính trạng khủng hoảng,trì trệ.
2.Hình thành sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Dưới thời kỳ bao cấp chúng ta chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị
trường, quá coi trọng việc thực hiện kế hoạch hóa theo phương hướng xã hội chủ
nghĩa, muốn xóa bỏ ngay chế độ sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, trong khi đó
không thừa nhận thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần rất năng
động phát triển mà lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Dưới sức ép nền
kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng, chúng ta đã có những bước đi đầu
chuyển sang hướng thị trường mặc dù chưa triệt để, ví dụ như: khoán sản phẩm,
bù giá vào lương, Nghị quyết TW khóa V về giá-lương-tiền, thực hiện Nghị định
25-CP và 26-CP của Chính phủ… Đó là những nét mới khi chúng ta bắt đầu cải
cách để đến khi Đại hội VI họp chính thức ,Đảng ta đã đi đến quyết định :” Việc
- 2 -
bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy
yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần
kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây
rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã
hội” [3,387]. Như vậy, về cơ bản đất nước đã chính thức đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng thị trường.
III. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua
các kỳ Đại hội
1.Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Đại hội VI được họp vào ngày 18/12/1986. Trong lúc hoàn cảnh tình hình kinh
tế diễn ra theo chiều hướng xấu, Đại hội đã thông qua những nghị quyết quan
trọng ,đánh giá tình hình, những tồn tại yếu kém “Đại hội chủ trương đổi mới
một cách toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận là cơ bản, đổi mới tư duy

kinh tế là trọng tâm, đổi mới với các hình thức bước đi thích hợp. Đổi mới trên
cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.”[2,55]. Đại hội nhấn mạnh, tập
trung sức người sức của vào việc thực hiện 3 chương trình, mục tiêu : lương thực
thực phẩm, hang tiêu dùng, hang xuất khẩu. Đây là đại hội được đánh giá là “trí
tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới”.
Trong 5 năm tiến hành đổi mới (1986-1991) nhân dân ta đã đạt được nhiều
thành tựu về kinh tế. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thông qua chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, thông qua nội dung các chỉ tiêu
chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1991-1996. Đại hội đã khẳng định chủ
trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo “cơ chế thi
trường có sự quản lý của Nhà nước”.Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế
có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp,
hợp tác và liên doanh tự nguyện Thị trường có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn các
đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh
doanh hiệu quả. Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành
- 3 -
phần kinh tế tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo
cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo
đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
Sau 10 năm đổi mới (1986-1996) Đại hội VIII đã rút ra những bài học kinh
nghiệm quý báu, chỉ rõ thời cơ trước mắt cùng những thách thức mới. Thông qua
nội dung và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm (1996-2000).Đại hội VIII diễn ra đánh dấu bước chuyển biến của nước ta
sang thời kỳ đổi mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy so với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường trong các
kỳ Đại hội này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc
“Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà
là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ” [1,146-148-149].
Đánh giá được đúng tầm quan trọng của kinh tế thị trường là bước đi đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta.Tiếp tục kế thừa và phát triển nền kinh tế đất nước theo
con đường đinh hướng xã hội chủ nghĩa lên mức cao nhất.
2.Từ Đại hội IX đến Đại hội XI
Định hướng bước đi của nền kinh tế đất nước ta đã rõ ràng, nhưng việc thực
hiện gặp nhiều khó khăn và thách thức vì đây là mô hình kinh tế mới, phải đảm
bảo theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX diễn ra từ ngày 19/4 đến
22/4/2001 với mục tiêu thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến
năm 2010. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện như: Báo cáo chính
trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010; phương hướng, nhiệm vụ,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đánh giá những thành tựu
đạt được trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991-2000). Xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” ,” một kiểu
tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở
- 4 -
và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”
[4] .Dùng kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống
nhân dân.Tính định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên ba mặt của quan
hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. “ Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa ” [1,152]. “Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới", thể hiện ý chí kiên cường và
niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”[4].
Kế thừa và phát huy theo con đường đó, Đại hội X đã diễn ra ngày 18/4 đến

25/4/2006 thông qua báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2006-2010. Trong bối cảnh đất nước ta tiếp tục chuyển dịch theo cơ cấu
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định.
Trong đó việc hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến rất quan trọng
như việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song
phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh
tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu. Đại hội X tiếp tục đề ra những giải pháp để khắc
phục tình trạng còn yếu kém : Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Từ thực
tiễn đó Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn và những tư tưởng chỉ đạo để
phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới là :
“Bài học về phát triển nhanh và bền vững
Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nội lực
Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày càng tốt hơn
phúc lợi xã hội
Bài học về công tác tổ chức thực hiện và tuyển chọn đúng cán bộ” [4]
- 5 -
Mới đây Đại hội XI đã diễn ra từ ngày 12/1 đến 19/1/2011 đã tổng kết 25 năm
đổi mới của đất nước ta. Trong đó đã nêu ra một số vấn đề mới và nội dung quan
trọng : Về đổi mới kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, yêu
cầu phát triển bền vững kinh tế nước ta và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Trong đó để giữ vững mục
tiêu này, Đại hội đã nêu ra những nội dung cơ bản sau:
- Về mục đích, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế
thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm

phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận
xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
- Về mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chủ thể kinh tế, trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát huy quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã
hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ, phải chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
- Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận các cơ hội kinh
doanh và phân phối kết quả làm ra.
- Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát
huy mặt tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
IV. Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới
- 6 -
Với những bước đi đúng đắn về cách thay đổi tư duy, hơn 20 năm qua, kể từ
khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình Kinh tế thị trường định hướng
XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể,
làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng
bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 do chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt
6,23%.GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007:
835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD. Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh

tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7%
GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 15,9% GDP
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-
1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi
quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng
GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo
chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289
USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng
bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang
vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung
của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển
có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến
3.385USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế
nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế
dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực,
chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải
quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát
triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có
- 7 -
tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với
thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích
vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới
cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ
một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng
cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay

Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng
quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt
Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực,
và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải
thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm
với mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Trong
20 năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm
2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị
giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640
USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm
1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ
lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm
2002.
Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498)
năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt
Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra;
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh;
tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
- 8 -
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và
công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản”

V. Hướng giải quyết và mục tiêu phát triển của Đảng về kinh tế thị
trường trong những năm tới
Qua hơn 20 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng
hoàn thiện hơn. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh
giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với
sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ đạo của
đường lối đổi mới của nước ta. Đại đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương:
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành tựu to lớn cho
đất nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế,
tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á
(ASEAN) năm 1995 và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996;
tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt
năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cô lập về chính trị, cấm
- 9 -
vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương mại
với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100
quốc gia và có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc với 81 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch chống
nước ta, đều coi Việt Nam là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn

định, là nơi đầu tư hết sức lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc
gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là đối tác kinh tế chiến lược. Những
thành tựu đạt được trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trong thời gian qua là
hết sức to lớn, có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về kinh tế đối với nước
ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu bước đầu, để đạt được mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” việc tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với
các yếu tố cơ bản sau:
Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
là sử dụng có hiệu quả tri thức và những sáng tạo mới của con người để đẩy
nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và công nghệ. Nền kinh tế tri thức là điều kiện
thuận lợi, là phương tiện để các quốc gia tăng tốc phát triển kinh tế. Sự xuất hiện
của nền kinh tế tri thức, một mặt tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận những thành
tựu của nhân loại, mặt khác nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy trong ban hành
và tổ chức thực hiện chính sách kinh tế.
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế là điều kiện hết sức thuận lợi để các quốc gia đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo nên những thách thức không nhỏ đối với các
quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia, trên cơ
sở đó các quốc gia có thể tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại để
phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó là quá trình vừa hợp tác để phát triển,
vừa đấu tranh rất phức tạp để tồn tại, đặc biệt là đấu tranh giữa các nước đang
phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hóa tạo
điều kiện thuận lợi cho các quốc gia thực hiện công cuộc cải cách của mình,
đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và
hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ
- 10 -
mô. Toàn cầu hóa tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển
của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng
cao của lực lượng sản xuất, là điều kiện để khơi thông các nguồn lực trong và

ngoài nước, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm
quản lý. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ đối với
các quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển. Do vậy, để khỏi bị gạt ra
ngoài lề phát triển của thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì chúng
ta phải tiếp tục đổi mới trong nhận thức, trong tư duy về kinh tế.
Ba là, năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn yếu.
Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay trong hội nhập
kinh tế quốc tế là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, sản phẩm và quốc gia
còn yếu, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lợi thế lao động rẻ và tài nguyên. Theo
đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì Việt Nam vẫn nằm trong số 60
nước có môi trường kinh doanh khó khăn nhất; đánh giá của WEF, Ngân hàng
thế giới và Công ty tài chính quốc tế về năng lực cạnh tranh toàn cầu thì năm
2006, 2007 Việt Nam xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 bậc so với năm 2005.
Nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chậm đổi mới về tư duy kinh tế
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sự đổi mới không theo kịp với xu
hướng phát triển của thời đại đã làm kìm hãm phát triển của doanh nghiệp và
quốc gia. Thời gian qua, chúng ta chỉ tập trung vào các nhân tố bên trong, dựa
vào nội lực là chính, chưa thật sự đánh giá đúng vai trò, cũng như sức ép từ các
nhân tố bên ngoài trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm
đến hội nhập, chưa thật sự chủ động thay đổi tư duy, cách thức tổ chức cho phù
hợp với điều kiện mới của môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong hơn 20 năm đổi
mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu kinh tế hết sức ấn tượng,
song khách quan mà nói nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu,
đổi mới tư duy về kinh tế chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của thời
đại, nhất là những thay đổi của nhân loại mang tính đột phá như công nghệ thông
tin, kinh tế tri thức, công nghệ sinh học, mô hình phát triển kinh tế. Việt Nam
cũng đã có những thứ hạng đáng kể về xuất khẩu một số mặt hàng và thu hút đầu
tư, song nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì chưa thật sự tương
- 11 -
xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải tiếp tục

đổi mới tư duy kinh tế để tiếp tục cải thiện vị thế của mình trong cộng đồng kinh
tế quốc tế.
Bốn là, những bất cập của thực tiễn cuộc sống. Sự phát triển kinh tế trong thời
gian qua, đặc biệt là sự tăng lên mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp và huy
động vốn đầu tư đang gặp những rào cản. Đó là tình trạng ban hành chính sách
kinh tế chưa phù hợp với thực tế, còn có những bất cập trong việc ban hành và
thực thi chính sách, nhất là chính sách đất đai và tín dụng. Môi trường kinh
doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của nền kinh tế nước ta
vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử dụng vào
đầu tư phát triển kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại.
Sự phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần phải giải quyết như khoảng
cách giàu nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề,
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế
chưa cao Như vậy Đảng ta cần có những hướng đi cụ thể sau :
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, ḥòa bình, hợp tác và
phát triển. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế
- Phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của đất nước trong phân công lao động và
hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó tạo ra những đột phá mới về kinh tế.
- Phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại, có sức cạnh tranh cao.
- Lấy con người làm trung tâm phát triển.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý của nhà nước trong kinh tế.
- Thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa bảo đảm tránh tụt
hậu nền kinh tế và bảo đảm các bước đi vững chắc trên con đường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội
- Nhận thức lại những luận điểm, mô hình phát triển kinh tế của các nước phát
triển
- 12 -
VI. Kết luận

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một mô hình kinh tế mới.Trong khuôn
khổ nội dung đề tài tiểu luận: “Tư duy mới của Đảng về Kinh tế thị trường trong
20 năm đổi mới ở nước ta” đã trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư
duy của Đảng ta, khẳng định tính đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế thị
trường định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa, đồng thời trình bày những thành
tựu và thách thức của nền kinh tế. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cụ thể
để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngoài ra,
đề tài tiểu luận này còn khẳng định tính đúng đắn của việc chuyển đổi nền kinh
tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước
ta.
Trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận về “ Tư duy đổi mới của Đảng về Kinh
tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta ” chắc chắn em không tránh khỏi
những thiếu sót do trình độ còn hạn chế, thời gian không cho phép nghiên cứu
sâu rộng, điều kiện để thu thập thông tin còn khó khăn Kính mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn
chỉnh hơn.
- 13 -
Tài liệu tham khảo
[1] Giáo trình đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia – 2010.
[2] ThS Lương Thị Phương Thảo - Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất
bản Bách Khoa – Hà Nội – 2006.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đảng Toàn tập – Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia – 2006.
[4] Website :

- 14 -

×