Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

đề tài '''' vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong dạy học công nghệ 11 ''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.91 KB, 25 trang )

z



ĐỀ TÀI
" vận dụng phương pháp dạy
học theo dự án trong dạy học
công nghệ 11 "



VẬN DỤNG PPDH THEO DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC CÔNG NGHỆ 11
Luận văn thạc sĩ giáo dục học.
Tác giả: Lê Thị Thu Trang
MỤC LỤC
Phần mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
II. Lịch sử nghiên cứu
III. Mục đích nghiên cứu
IV. Đối tượng nghiên cứu
V. Phạm vi nghiên cứu
VI. Giả thuyết khoa học
VII. Nhiệm vụ nghiên cứu
VIII. Những đóng góp mới của luận văn
IX. Phương pháp nghiên cứu
X. Cấu trúc luận văn
Chương I: Cơ sở lí luận của PPDHTDA
1.1. Một số vấn đề về PPDH tích cực
1.2. Quan niệm DHTDA
1.3. Đặc điểm của DHTDA
1.4. Phận loại DHTDA


1.5. Vai trò của GV và HS trong DHTDA
1.6. Tiêu chuẩn thành công của một dự án theo PPDHTDA
1.7. Ưu, nhược điểm của PPDHTDA.
Kết luận chương I.
Chương II: Thiết kế và áp dụng một số dự án cụ thể trong DH Công nghệ
2.1. Đặc điểm nội dung kiến thức chương trình SGK Công nghệ 11
2.2. Thực trạng dạy và học bộ môn Công nghệ 11 ở trường THPT
2.2.1. Thực trạng dạy và học ở trường THPT
2.2.2. Thực trạng dạy và học Công nghệ 11
2.3. Những khó khăn khi áp dụng DHDA vào dạy học môn Công nghệ ở trường phổ
thông
2.4. Qui trình thiết kế một dự án theo PPDHDA ở trường THPT
2.5. Định hướng vận dụng dự án vào nội dung chương trình Công nghệ 11 THPT
2.6. Thiết kế và áp dụng dự án cụ thể
Chương III: Thực nghiệm sư phạm

Phần mở đầu
II. Lịch sử nghiên cứu
Trên thế giới, khái niệm “dự án” trong dạy học đã được sử dụng từ thế kỉ XVI ở các
trường dạy nghề kiến trúc tại Ý sau đó lan rộng sang các nước châu Âu khác và Mĩ từ
thế kỉ XVIII. Cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, DHTDA đã được sử dụng trong dạy
học phổ thông tại Mĩ.
Người đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành cơ sở lí thuyết cho PPDH dự án
là các nhà sư phạm Mĩ J.Dewey và Charles Peirce. Họ đã đưa ra những cơ sở cho
DHDA và khẳng định rằng, tất cả mọi người dù già hay trẻ đều học bằng hoạt động
thông qua mối quan hệ với môi trường thực tế. Tuy nhiện, thời điểm đó, DHDA vẫn còn
nhiều hạn chế do thiếu tư liệu và ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ II.
Ngày nay, DHDA được ứng dụng trong mọi cấp từ giáo dục phổ thông, đào tạo nghề
cho tới cấp đại học ở nhiều nước phát triển trên thế giới.
Ở Việt Nam, PPDHTDA đã được bộ Giáo dục và đào tạo kết hợp với công ty Intel Việt

Nam triển khai thí điểm tại nhiều trường học trên cả nước theo chương trình Dạy học
cho tương lai của Intel (Intel Teach to the Future). Chương trình này hướng dẫn GV sử
dụng Internet thiết kế trang web và triển khai các dự án cho HS.
Những công trình nghiên cứu liên quan tới DHDA ở Việt Nam của các tác giả thời gian
gần đây như: bài viết “Dạy học theo dự án – một phương pháp có chức năng kép trong
đào tạo giáo viên” của Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), đề tài
“Những định luật cơ bản của dòng điện không đổi” cho HS lớp 11 theo quan điểm
DHDA của Nguyễn Văn Nghĩa (2006), đề tài “Tổ chức DHTDA một số nội dung kết
thúc chương “Sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng ”theo Sách giáo khoa Vật lí lớp 9
nhằm phát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của HS trong học tập” của Trần
Thúy Hằng (2006), đề tài “DHTDA và vận dụng trong đào tạo giáo viên môn Công
nghệ phần kinh tế gia đình” của Nguyễn Thị Diệu Thảo (2007),…
So sánh đặc trưng của DH truyền thống và DH mới
Tiêu chí so sánh DH truyền thống DH mới
Quan niệm Học là quá trình tiếp thu và
lĩnh hội, qua đó hình thành
kiến thức, kĩ năng, tư tưởng,
tình cảm.
Học là quá trình kiến tạo, HS tìm
tòi, khám phá, phát hiện, luyện
tập, khai thác và xử lí thông tin,
…, tự hình thành hiểu biết, năng
lực và phẩm chất.
Bản chất Truyền thụ tri thức, truyền thụ
và chứng minh chân lí của GV
Tổ chức hoạt động nhận thức cho
HS. Dạy HS cách tìm ra chân lí.
Mục tiêu Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Học để đối phó
với thi cử. Sau khi học xong

những điều đã học thường bị
bỏ quên hoặc ít khi dùng đến.
Chú trọng hình thành các năng lực
(sáng tạo, hợp tác, ), dạy phương
pháp và kĩ thuật lao động khoa
học, dạy học. Học để đáp ứng
những yêu cầu của cuộc sống hiện
tại và tương lai. Những điều đã
học cần thiết, bổ ích cho bản thân
HS và sự phát triển xã hội.
Nội dung Từ SGK + GV Từ nhiều nguồn khác nhau:
SGK, SGV, các tài liệu khoa học
phù hợp, thí nghiệm, thực tế gắn
với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và
môi trường địa phương.
- Những vấn đề HS quan tâm.
Phương pháp Các phương pháp diễn giảng,
truyền thụ kiến thức một chiều
Hình thức tổ chức Cố định: Giới hạn trong lớp
học.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp,
hiện trường, trong thực tế,…, học
cá nhân, học đôi bạn, học theo cả
nhóm,
 Mô hình DHTDA là một mô hình DH tích cực.
2. Quan niệm DHTDA
a. Cơ sở của khái niệm tiếp cận dự án trong DH

Từ đầu thế kỉ trước, Dewey và S.Charles Peirce đã đưa ra những cơ sở cho DHDA và
khẳng định rằng, tất cả mọi người dù già hay trẻ đều học bằng hoạt động thông qua
những mối quan hệ với môi trường. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, việc học tập còn thiếu
tính tự chủ, thiếu nguồn tư liệu trong lớp học,… Điều đó làm hạn chế những thành quả
trong DH mà xã hội đòi hỏi ở nhà trường.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ điện tử, DHTDA có nhiều đặc điểm
phù hợp hơn với sự phát triển của chính trị, kinh tế, văn hóa và những mối quan hệ đa
chiều mang tính toàn cầu, XH trở thành XH tri thức, trong đó con người không chỉ có học
thức hơn, trí tuệ hơn, có khả năng sáng tạo hơn mà còn năng động hơn trong công việc.
Do vậy, DH phải chuẩn bị tốt nhất cho người học thích ứng với sụ phát triển của XH, đặc
biệt là trong hợp tác với người khác. DHTDA do Dewey đề xướng đã cho thấy tính thích
hợp, tính hiệu quả trong việc cho phép HS phát triển những tiềm năng sẵn có và đảm bảo
một cách thích đáng vai trò của họ trong XH.
Động cơ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong học tập. Nhiều nhà sư phạm đã chỉ ra rằng:
Việc đặt HS trong tình huống tự khám phá thế giới và chia sẻ những kết quả của quá trình
khai thác kiến thức, tiến trình giải quyết vấn đề như trong DHDA bằng một trong những
cách tốt nhất để kích thích và duy trì động cơ học tập. Chính qua tiến trình này mà những
phát hiện về thế giới dần dần có ý nghĩa, nó phù hợp với nguyên tắc sư phạm: sự học tập
nảy sinh trong hành động. Các nhà nghiên cứu khoa học về nhận thức (Lave, 1998;
Brown, Colin, 1989) cũng chỉ ra rằng: Trong DH, GV phải phát huy vai trò tích cực của
HS, đề ra cho họ các tình huống học tập và đòi hỏi ở họ sự chịu trách nhiệm trong hoạt
động hợp tác. DHDA bằng cách tiếp cận nhằm làm cho HS kiên trì theo đuổi một tiến
trình mục đích trong những tương tác XH mà họ đã hiểu rõ mục đích cần đạt được.
b. Khái niệm dự án
Thuật ngữ dự án (project) được hiểu là một đề án, dự thảo hay kế hoạch cần thực hiện để
đạt mục đích đặt ra. Khái niệm dự án được sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, nghiên
cứu khoa học cũng như trong quản lí XH và được sử dụng trong lĩnh vực giáo dục – đào
tạo như một PP hay hình thức DH.
Theo Phạm Đức Quang – Phạm Trịnh Mai, khái niệm dự án được hiểu là tập hợp của
những hoạt động khác có nhau liên quan với nhau theo một lôgic, một trật tự xác định

nhằm vào những mục tiêu xác định, được thực hiện bằng những nguồn lực nhất định
trong những khoảng thời gian xác định.
Dự án có tính mục tiêu, tạm thời, hệ thống và duy nhất.
c. Khái niệm DHTDA
Từ đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mĩ đã xây dựng cơ sở lí luận cho PP dự án (Project
method) và coi đây là PPDH quan trọng để thực hiện DH hướng vào người học nhằm
khắc phục nhược điểm của DH truyền thống.
Ban đầu nó chỉ được áp dụng khi dạy môn kĩ thuật ở các trường ĐH và cao đẳng. Dần
dần nó được sử dụng rộng rãi trong các môn học khác ở trường phổ thông và trở nên phổ
biến, nhất là các nước phát triển.
DHTDA là một mô hình DH lấy HS làm trung tâm. Nó giúp phát triển kiến thức và các
kĩ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích HS tìm tòi,
thực hiện hóa những kiến thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm
của chính mình.
Tóm lại, DHTDA gọi tắt là DHDA được hiểu là một PP hay một hình thức DH, trong đó
người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực
tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ
quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm
tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
Chương trình DHTDA được xây dựng dựa trên những câu hỏi định hướng quan trọng,
lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh thực tế.
Bài học thiết kế theo dự án chứa đựng nhiều kĩ thuật DH khác nhau, có thể lôi cuốn được
mọi đối tượng HS, không phụ thuộc vào cách học của họ. Thông thường HS sẽ được làm
việc với các chuyên gia và những thành viên trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu
sâu nội dung hơn. Các phương tiện kĩ thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học. Trong
quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác nhau để giúp HS tạo
ra những sản phẩm có chất lượng.
Quá trình DHTDA được các nhà nghiên cứu miêu tả như sau:
1. Xác định một vấn đề phù hợp với HS.
2. Liên kết vấn đề với thế giới của các em.

3. Tổ chức chủ đề xung quanh vấn đề, dự án chứ không phải môn học
4. Tạo cho HS cơ hội để xác định phương pháp và kế hoạch học tập để giải quyết vấn
đề.
5. Khuyến khích sự công bằng bằng cách tạo ra các nhóm học tập.
6. Yêu cấu tất cả HS trình bày kết quả học tập dưới hình thức một dự án hoặc chương
trình.
d. DHTDA có liên hệ thế nào đối với việc khám phá tìm hiểu
“Quá trình khám phá tìm hiểu bao gồm một loạt các hoạt động để thỏa mãn óc tò mò
bẩm sinh của con người về thế giới. Trong bối cảnh giáo dục, việc khám phá tìm hiểu này
mang một ý nghĩa cụ thể hơn. GV sẽ áp dụng việc khám phá tìm hiểu như một chiến lược
DH nhằm khuyến khích HS đặt câu hỏi, lập kế hoạch, tiến hành tìm hiểu, quan sát và suy
nghĩ về những gì mình đã khám phá. Tuy nhiên, đây không phải là một định nghĩa khô
cứng. Ngay cả trong một lớp học riêng lẻ, các hoạt động tìm hiểu cũng có thể diễn ra một
các liên tục, từ những hoạt động theo định hướng của GV đến những hoạt động mở rộng
theo sở thích của HS” (Intel)
Sẽ dễ dàng hơn nếu coi DHTDA là một tập con trong DH khám phá. Một nghiên cứu về
DHTDA đã kết luận rằng những dự án như vậy thường tập trung vào những câu hỏi hoặc
vấn đề thôi thúc HS phải đối mặt và chiến đấu với những khái niệm và nguyên tắc trọng
tâm của môn học. Hơn nữa, những hoạt động chính trong dự án đã bao hàm quá trình
khám phá tìm hiểu và kết cấu kiến thức của HS. HS thường vẫn có sự lựa chọn khi thiết
kế dự án cho phép các em theo đuổi ý thức và trí tò mò của mình. Trong quá trình trả lời
những câu hỏi do chính bản thân đặt ra, HS có thể khám phá tìm hiểu thêm về các chủ đề
vốn chưa được GV đặt ra như mục tiêu DH.
* Mô hình DHTDA làm thay đổi lớp học truyền thống
Theo báo cáo về chuyên môn của chương trình Dạy học cho tương lai Intel đã mô tả lớp
học trong đó GV áp dụng hiệu quả mô hình DHTDA như sau:
- Không có một giải pháp định sẵn cho một vấn đề.
- Một không khí học tập chấp nhận sai sót và thay đổi.
- HS ra quyết định trong khuôn khổ chương trình.
- HS thiết kế quá trình tìm kiếm giải pháp.

- HS có cơ hội thực hành
- Việc đánh giá diễn ra liên tục.
- Có sản phẩm cuối và được đánh giá chất lượng.
f. GV sẽ phải đương đầu với những thách thức nào?
- Nhận diện các tình huống để đem lại thành công cho dự án.
- Cấu trúc những vấn đề thành những cơ hội học tập.
- Hợp tác cùng đồng nghiệp để thực hiện các dự án liên môn.
- Quản lí quá trình học.
- Tích hợp công nghệ hợp lí.
- Phát triển các phương pháp đánh giá thực tế
GV cần sẵn sàng chấp nhận những rủi ro để có thể vượt qua những thử thách ban đầu.
3. Đặc điểm của DHTDA.
Các nhà sư phạm Mĩ đầu thế kỉ XX khi xác lập cơ sở lí thuyết cho PPDH này đã đưa ra 3
đặc điểm cốt lõi của DHDA. Đó là: Định hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng
sản phẩm.
Có thể cụ thể hóa đặc điểm của PPDH TDA như sau:
- Chủ đề của dự án gắn liền với hoàn cảnh: Chủ đề của dự án nên xuất phát từ tình
huống thực tiễn của xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống.
Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng
của người học.
- Có ý nghĩa thực tiễn XH: Các dựa án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà
trường với thực tiễn đời sống, XH. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện
dự án có thể mang lại những tác động XH tích cực.
- Chú ý đến hứng thú của người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập
phù hợp khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được
tiếp tục trong quá trình thực hiện dự án.
- Dự án học tập mạng nội dung phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của
nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề phức hợp.
- Định hướng hoạt động thực tiễn: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa
nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông

qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng
hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
- Tính tích cực cao của người học: Trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và
tự lực vào các giai đoạn của quá trình DH. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích
tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng
dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của
HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
- Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có
sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.
DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các
thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng XH khác tham gia
trong dự án. Đặc điểm này được gọi là học tập mang tính XH.
- Tạo ra sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản
phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số
trường hợp, các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực
tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố và giới thiệu.
1.4. Phân loại DHTDA.
PHTDA có thể phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Dưới đây là một số cách
phân loại:
a. Phân loại theo chuyên môn
- Dự án trong môn học: Trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
- Dự án liên môn: Trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn học khác nhau.
- Dự án ngoài chuyên môn: Các loại dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học.
b. Phân loại theo sự tham gia của người học
Dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm HS là hình thức DH chủ
yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự
án cho một lớp học.
c. Phân loại theo sự tham gia của GV
Dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV.
d. Phân loại theo quĩ thời gian

- Dự án nhỏ: Thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 – 6 giờ học.
- Dự án trung bình: Dự án trong một hoặc một số ngày (ngày dự án) nhưng giới hạn là
một tuần hoặc 40 giờ học.
- Dự án lớn: Thực hiện với quĩ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (40 giờ học), có thể
kéo dài nhiều tuần (tuần dự án).
e. Phân loại theo nhiệm vụ
- Dự án tìm hiểu: Là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
- Dự án nghiên cứu: Nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, các quá
trình.
- Dự án kiến tạo: Trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế
hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày,
biểu diễn, sáng tác.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Dự án có tính tổng hợp là dự án
kết hợp nhiều hoạt động khác nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại
các dạng dự án theo đặc thù riêng.
1.5. Vai trò của GV và HS trong DHTDA
- GV
+ Hướng dẫn cộng đồng người học, tạo thuận lợi, kích thích hứng thú của HS và làm cho
họ hiểu rõ tiến trình học tập. Khác với lớp học truyền thống, GV đóng vai trò chủ đạo,
nắm giữ tất cả kiến thức và truyền tải đến HS. Với DHTDA, GV chỉ đóng vai trò như
một nhà tư vấn, một học viên cộng tác.
+ Những thông tin mà GV đưa ra, theo Vygoski phải mang tính nhận thức và siêu nhận
thức. Thông tin mang tính nhận thức nhằm hướng dẫn HS dần dần có thể tự lực hoàn
toàn, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ học tập của bản thân
(lập kế hoạch, định hướng điều chỉnh, kiểm tra và đánh giá). Thông tin siêu nhận thức
nhấn mạnh đến việc làm chủ những kiến thức “công bố” được và “thực hiện” được. Để
HS phát triển thói quen lập luận và khả năng áp dụng một cách mềm dẻo những khái
niệm đã học, những kiến thức đó phải có sự liên kết với nhau.
+ GV cần tạo ra sự hỗ trợ cần thiết trước những lần HS “rẽ sai” trên con đường hoàn
thành dự án, có thể bằng các chỉ dẫn hoặc bằng các sản phẩm mẫu, các tài liệu, các

nguồn thông tin, các chuyển giao công việc, các phiếu đánh giá…
+ GV phải tập trung hơn vào việc tạo cơ hội học tập, tiếp cận với thông tin, làm mẫu và
hướng dẫn HS đồng thời cũng phải tạo ra môi trường học tập thúc đẩy phương pháp học
tập theo kiểu cộng tác giữa các thành viên trong nhóm HS.
- HS:
+ HS đóng vai trò là những “chuyên gia” thuộc các ngành nghề khác nhau trong xã hội
để có thể tham gia ngày càng tích cực vào việc thực hiện mục đích học tập. Trong một
dự án học tập, HS không chỉ tham gia vào quá trình quản lí một phần mà còn quản lí
tổng thể dự án. Tức là, trong quá trình học tập, HS được tham gia quyết định và tự quyết
định các giai đoạn của quá trình DH, đặc biệt là trong việc xây dựng kế hoạch và thực
hiện dự án. Trong chừng mực có thể, HS có thể tham gia xác định và đánh giá dự án.
+ HS được giao những nhiệm vụ cụ thể, gắn với đời sống thực tế, HS hợp tác làm việc
với nhau trong các nhóm, phát huy tối đa năng lực cá nhân khi đảm nhận những vai trò
khác nhau.
+ HS phải thể hiện thành quả của mình thông qua các bài thuyết trình, sản phẩm, trang
web,… Những sản phẩm cuối cùng giúp HS thể hiện khả năng diễn đạt và làm chủ quá
trình học tập.
1.6. Tiêu chuẩn của một dự án theo PPDHTDA
Có rất nhiều kiểu dự án được tiến hành trong lớp học. Một dự án được coi là thành công
khi nó đạt được sự cân bằng giữa khả năng thực hiện của HS với ý đồ thiết kế của GV,
chỉ rõ những công việc HS cần làm. Dưới đây là một số tiêu chuẩn giúp nhận diện rõ thế
nào là bài học theo dự án hiệu quả:
+ HS là trung tâm của quá trình DH: Bài học theo dự án được thiết kế cẩn thận, lôi
cuốn HS vào những nhiệm vụ mở và có tính thực tiễn cao. Các nhiệm vụ của dự án kích
thích khả năng quyết định, niềm cảm hứng, say mê của HS trong quá trình thực hiện và
tạo ra sản phẩm cuối cùng. HS lĩnh hội kiến thức bài học thông qua việc tìm hiểu và tự
quyết định mức độ hoàn thành các nhiệm vụ của dự án. GV giữ vai trò hỗ trợ hay hướng
dẫn. HS hợp tác, làm việc với nhau trong các nhóm, phát huy tối đa năng lực cá nhân khi
đảm nhận những vai trò khác nhau.
+ Dự án được chuẩn bị và lên kế hoạch chu đáo: Để dạy tốt và đảm bảo HS tham gia

tích cực vào quá trình học, GV cần lên kế hoạch và chuẩn bị bài hiệu quả. Nếu như mục
tiêu là nhằm giúp HS đạt được trình độ cao, cho dù GV dạy theo PP nào đi chăng nữa
cũng cần phải có kế hoạch và sự chuẩn bị thích hợp. DHTDA cũng không nằm ngoại lệ.
Để thành công, GV phải phác họa các dự án cụ thể trong đầu. Nếu không bám sát vào
các mục tiêu DH, mục đích của dự án sẽ mơ hồ và kết quả học tập mong đợi từ phía HS
có thể bị hiểu sai lệch. Khi thiết kế dự án, điều quan trọng là phải chắc chắn rằng việc lập
kế hoạch hành động sẽ giúp HS nhận diện được mục tiêu học tập dự kiến. Bằng việc
điểm lại mục đích, mục tiêu và chuẩn của chương trình, GV sẽ lựa chọn các bài học ưu
tiên trong chương trình.
Về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm các bước:
• Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách sử dụng các chuẩn nội dung và
những kĩ năng bậc cao mong muốn.
• Thiết kế bộ câu hỏi khung.
• Lập kế hoạch đánh giá.
• Thiết kế các hoạt động.
+ Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn: Những dự
án tốt được phát triển dựa trên những nội dung cốt lõi của chương trình đáp ứng các
chuẩn quốc gia và địa phương. Dự án có các mục tiêu rõ ràng gắn với các chuẩn và tập
trung vào những hiểu biết của HS sau quá trình học. Từ việc định hướng vào mục tiêu,
GV sẽ lựa chọn hình thức DH phù hợp, lập kế hoạch đánh giá và tổ chức các hoạt động
dạy và học. Kết quả của dự án được thể hiện kết tinh trong sản phẩm và quá trình thực
hiện nhiệm vụ, ví dụ phần thuyết trình đầy thuyết phục hay ấn phẩm thông tin thể hiện sự
lĩnh hội các chuẩn nội dung và mục tiêu DH.
+ Dự án được định hướng theo Bộ câu hỏi khung chương trình: Câu hỏi khung chương
trình sẽ giúp các dự án tập trung vào những hoạt động DH trọng tâm. HS được giới thiệu
về dự án thông qua các câu hỏi gợi mở những ý tưởng lớn, xuyên suốt và có tính liên
môn. HS sẽ buộc phải tư duy sâu hơn về các vấn đề về nội dung của môn học theo các
chuẩn và mục tiêu.
Có ba dạng câu hỏi khung chương trình: Câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi
nội dung. Câu hỏi khái quát là các câu hỏi rộng, có tính mở, đề cập đến những ý tưởng

lớn và các khái niệm xuyên suốt. Câu hỏi loại này thường mang tính liên môn, giúp HS
hiểu được mối quan hệ giữa các môn học. Các câu hỏi bài học được gắn trực tiếp với dự
án, hỗ trợ việc tìm kiếm lời giải cho câu hỏi khái quát. Các câu hỏi bài học thể hiện mức
độ hiểu những khái niệm cốt lõi về dự án của HS. Các câu hỏi nội dung thường mang tính
thực tiễn cao, bám sát các chuẩn và mục tiêu đề ra.
+ Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên: Ngay từ khi triển khai
dự án, các kết quả dự kiến cần phải được làm rõ và phải luôn được rà soát nhiều lần để
kiểm chứng mức độ lĩnh hội bằng các phương pháp đánh giá khác nhau. HS sẽ được xem
mẫu và hướng dẫn trước để thực hiện công việc có chất lượng nhất, phải biết rõ điều gì
đang chờ đợi ngay từ khi bắt đầu dự án. Cần phải tạo cơ hội để rà soát, phản hồi hay điều
chỉnh trong suốt quá trình thực hiện dự án.
+ Dự án có liên hệ với thực tế: Dự án phải gắn với đời sống thực tế của HS, có thể mời
các chuyên gia bên ngoài cùng tham gia để tạo ra những tình huống DH. HS có thể thể
hiện việc học của mình trước những đối tượng thực tế, liên hệ với các nguồn lực cộng
đồng, tham khảo các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, hoặc trao đổi thông qua công
nghệ hiện đại.
+ Dự án được hoàn thành đúng thời hạn, không vượt quá kinh phí dự trù
+ Dự án không gây ra những tác động xấu cho môi trường, cho XH, đảm bảo sự phát
triển bền vững cho tương lai.
+ Dự án không gây ra ảnh hưởng tới sức khỏe, tới kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức
của HS.
1.7. Ưu, nhược điểm của PPDHTDA
DHTDA mang lại rất nhiều lợi ích cho cả GV và HS. Ngày càng nhiều các nghiên cứu lí
luận ủng hộ cho việc áp dụng PPDHTDA trong trường học để khuyến khích HS, giảm
thiểu hiện tượng bỏ học, thúc đẩy các kĩ năng học tập hợp tác và nâng cao hiệu quả học
tập.
* Đối với HS, những lợi ích từ DHTDA bao gồm:
- Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập, phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của HS, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
- Kiến thức thu được tương đương hoặc nhiều hơn so với những mô hình DH khác do

khi được tham gia vào dự án, HS sẽ chịu trách nhiệm hơn trong học tập so với các hoạt
động truyền thống khác trong lớp học. Vì vậy, DHTDA sẽ kích thích động cơ và hứng
thú học tập của người học, điều đó giúp cho họ có thể vượt qua được những khó khăn
trong khi giải quyết các vấn đề, đặc biệt là những vấn đề mang tính phức hợp.
- Có cơ hội phát triển những kĩ năng phức hợp, như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề,
hợp tác và giao tiếp.
- Dự án mang tính thực tiễn, vì vậy HS được tham gia vào những hoạt động đời thường
có ý nghĩa vượt ra khỏi phạm vi lớp học.
- HS có thể sử dụng thông tin của những môn học khác nhau để giải quyết vấn đề.
- Phát triển năng lực tự đánh giá.
* Đối với GV, những lợi ích mang lại là nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác với
đồng nghiệp, cơ hội xây dựng các mối quan hệ với HS. Bên cạnh đó, nhiều GV cảm thấy
hài lòng với việc tìm ra được một mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các đối tượng HS
đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn trong lớp học. GV cũng nhận thấy
rằng người được hưởng lợi nhiều nhất từ DHTDA là những HS không học tốt được theo
cách DH truyền thống.
b. Nhược điểm
- DHTDA không những đòi hỏi chuẩn bị công phu, mà còn đòi hỏi người dạy và người
học có thói quen phù hợp mới có hiệu quả.
Thời gian DHTDA thường kéo dài vì vậy rất khó áp dụng cho một tiết học bình thường.
- DHTDA đòi hỏi vấn đề nêu ra phải có cấu trúc mở. Điều đó yêu cầu khi giải quyết
vấn đề phải sử dụng đến kiến thức liên ngành. Vì vậy, không phải môn nào, nội dung
gì cũng có thể áp dụng được DHDA.
- Không thích hợp trong việc truyền thụ những tri thức lí thuyết có tính hệ thống.
- Đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
- Để DHDA, GV phải nắm vững kiến thức chuyên môn, kiến thức liên ngành. Do đó,
nhiều GV sẽ cảm thấy phải chịu áp lực trong việc thực hiện chươg trình giảng dạy
mới.
- Nhiều HS có thể sẽ gặp khó khăn khi chủ động định hướng quá trình học tập.


2.3. Những khó khăn khi áp dụng DHTDA vào DH môn Công nghệ 11
DHTDA là một PPDH mới mặc dù đã được áp dụng ở một số môn học nhưng chưa phổ
biến. Vì vậy, khi áp dụng vào DH môn Công nghệ sẽ gặp phải không ít khó khăn:
- DHTDA đòi hỏi sự thay đổi tư duy của cả GV và HS, cách thức học và dạy mới sẽ là
một khó khăn bởi lẽ PPDH truyền thống đã in sâu trong cách dạy và học của thầy và
trò. DHTDA đòi hỏi GV phải lập kế hoạch và nội dung dự án khá công phu, phải
thực sự tâm huyết với nghề. Đối với HS cần thay đổi nhận thức đây là một PP học
mới đòi hỏi phải phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo và khả năng hợp
tác làm việc trong nhóm.
- Thời gian cần để chuẩn bị và tiến hành dạy và học theo dự án đòi hỏi nhiều hơn trong
khi thời lượng quy định cho môn CN 11 chiếm tỉ trọng khá khiêm tốn so với các môn
học khác.
- Kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ dạy và học còn nghèo nàn, lạc hậu. Trong khi đó,
môn CN11 là môn học có tính ứng dụng, hầu hết các nội dung môn học đều gắn với
thực tiễn sản xuất công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị - đây là lĩnh vực còn mới
mẻ đối với HS phần đông ở nông thôn. Vì vậy, để triển khai PPDHDA có hiệu quả
đòi hỏi nhà trường phải có đủ các trang thiết bị cần thiết: mô hình, vật thật, nhà
xưởng, công cụ lao động, nguyên vật liệu,… Mặt khác, từ nhận thức ban đầu về
PPDH mới, GV và HS sẽ không tránh khỏi bỡ ngỡ và lúng túng nên việc tìm kiếm
mô hình và những ví dụ thích hợp để áp dụng trong DHTDA sẽ gặp không ít khó
khăn.
- Trong chế độ học và thi cử hiện hành, HS còn mang nặng ý thức đối phó học để thi
nên chưa có thái độ học tập đúng mức đối với bộ môn Công nghệ.
- Việc tổ chức học còn mới lạ, đòi hỏi HS phải là chủ thể trong quá trình học, phải rèn
luyện PP tự học, tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng
tác giữa các thành viên trong nhóm. Kết quả làm việc phải được thể hiện bằng sản
phẩm vật chất hoặc phi vật chất.
Từ những khó khăn mang tính khách quan và chủ quan nêu trên, chỉ có lòng quyết tâm
và nhiệt huyết cao của đội ngũ GV phụ trách bộ môn cộng với sự quan tâm và tạo điều
kiện của nhà trường và toàn ngành thì PPDH TDA mới mang tính khả thi.

2.4. Quy trình thiết kế một dự án theo PPDH TDA
Trong các tài liệu hiện nay, có rất nhiều quy trình khác nhau về DHDA được đưa ra,
trong đó có sự khác nhau về phân chia các giai đoạn. Tuy nhiên, về cơ bản có thể chia ra
thành 5 giai đoạn bao gồm: Quyết định chủ đề, xác định mục tiêu dự án; Lập kế hoạch
dự án; thực hiện dự án; Giới thiệu sản phẩm; và đánh giá.
* Giai đoạn 1: Quyết định chủ đề, xác định mục tiêu dự án
Ý tưởng về đề tài của dự án học tập có thể liên quan đến nhiều nguồn tư liệu và được
chuẩn bị trong những hoàn cảnh rất khác nhau. Trước hết, cần đặt câu hỏi: Đề tài đề cập
đến vấn đề gì? Nội dung mà đề tài đề cập có bám sát chương trình của môn học và mang
tính thực tiễn không?
Đề tài dự án có thể nảy sinh từ sáng kiến của GV, của HS hoặc nhóm HS. Ý tưởng về
một dự án có thể xuất hiện trong quá trình thảo luận khi HS biểu thị sự quan tâm đặc biệt
tới một câu hỏi hay một vấn đề.
Việc lựa chọn đề tài cần làm nổi lên mục đích học tập và những tiêu chuẩn đánh giá.
Mục đích cần dẫn đến những kết quả, những sản phẩm mà qua đó HS biểu thị cái họ đã
học được. Các tiêu chuẩn cho phép đánh giá các kết quả HS đã đạt được và cho phép họ
thực sự làm chủ trong những tình huống học tập đã cho. Trong việc lựa chọn đề tài của
dự án, HS phải hình dung ra sản phẩm để từ đó bắt đầu vạch kế hoạch, đưa ra những
biện pháp để thực hiện.
Trong giai đoạn này GV cần chia nhóm và giao nhiệm vụ cho HS: việc chia nhóm và
giao nhiệm vụ là khâu tổ chức lớp học. GV là người chủ trì việc chia nhóm và giao
nhiệm vụ, tuy nhiên cần tạo điều kiện cho HS có thể tự chọn nhóm làm việc. Việc giao
nhiệm vụ cần hết sức cụ thể, có thể gợi ý HS thực hiện các hồ sơ dự án nhằm thuận tiện
trong việc theo dõi quá trình làm việc và đánh giá dự án.
HS là chủ thể hình thành ý tưởng và xác định mục tiêu dự án: Quá trình hình thành ý
tưởng cũng là yếu tố quyết định tới tính hứng thú và sự sáng tạo của HS đối với dự án.
HS cần hết sức độc lập và phát huy tính tự lực trong giai đoạn này. Việc xác định rõ ràng
mục tiêu dự án giúp HS có định hướng tốt trong suốt quá trình thực hiện dự án.
- Đối với GV:
Việc cụ thể hóa các hoạt động chuẩn bị của GV nhằm hướng dẫn HS thực hiện dự án

trong giai đoạn này được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Bài học được triển khai thành dự án
Xuất phát từ nội dung bài học, GV xác định các nội dung kiến thức, và kĩ năng HS cần
đạt được, phải có ý đồ tổ chức bài học thành dự án và suy nghĩ về ý tưởng dự án.
+ GV phải luôn nhìn thấy những vấn đề thực tiễn đang diễn biến trong cuộc sống xung
quanh có liên quan đến nội dung bài học.
+ Lựa chọn các nội dung thích hợp và chỉnh sửa chúng cho phù hợp với mục tiêu dự án
đề ra.
+ Góp phần hướng nghiệp cho HS.
Bước 2: Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
Bộ câu hỏi định hướng sẽ cung cấp một cấu trúc trong việc đặt câu hỏi xuyên suốt của
dự án, phát triển tư duy cho HS ở các cấp độ. Bộ câu hỏi giúp dự án tạo ra sự cân bằng
giữa việc thấu hiểu nội dung và khám phá ý tưởng hấp dẫn khiến việc học trở nên phù
hợp với HS. Bộ câu hỏi định hướng bao gồm các câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và
câu hỏi nội dung hướng dẫn việc tiếp thu bài học.
+ Câu hỏi khái quát:
• Giới thiệu khái quát, đầy đủ những ý tưởng xuyên suốt của môn học. Câu hỏi
khái quát cung cấp cầu nối giữa các bài, phạm vi môn học, thậm chí cả khóa
học trong một năm.
• Đưa ra nhiều câu trả lời. Đối với các câu hỏi loại này, câu trả lời thường
không có trong một cuốn sách. Chúng thường là những câu hỏi khái quát về
thực tế.
• Thu hút sự quan tâm của HS với yêu cầu tư duy bậc cao; câu hỏi khái quát
bắt buộc HS phải tư duy, phân tích và biết liên hệ những kiến thức đã được
học với cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ:
1. Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu thiếu đi các phương tiện, thiết bị phục vụ
cho sinh hoạt, sản xuất?
2. Trên các phương tiện GTVT đường bộ, nguồn động lực được sử dụng gồm có
những loại nào? Loại nào được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay?

Câu hỏi khái quát có thể dẫn đến những câu hỏi quan trọng khác. Những câu hỏi đó sẽ
mở rộng vấn đề, mở rộng tính phức tạp và phong phú của chủ đề, gợi mở hướng nghiên
cứu chứ không dẫn đến những kết luận sớm hay những câu trả lời mơ hồ.
Một câu hỏi khái quát có thể không phải lúc nào cũng là cách dễ dàng tiếp cận đến một
vấn đề nào đó cho dù có tính bao quát và kích thích sự hứng thú. Câu hỏi khái quát có khi
lại mang tính quá tổng quát, trừu tượng và khó tiếp cận đối với HS. Vì vậy, những câu
hỏi cụ thể hơn thường được sử dụng để hướng dẫn thực hiện một bài học cụ thể nào đó.
+ Câu hỏi bài học: Là những câu hỏi thường gắn với nội dung một bài học cụ thể và vì
vậy sẽ phù hợp hơn câu hỏi khái quát.
Các câu hỏi bài học có những đặc điểm riêng:
• Có đáp án mở, lôi cuốn các em vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể đối
với từng chủ đề, môn học hoặc bài học.
• Đưa ra những vấn đề hoặc kích thích thảo luận nhằm bổ trợ cho câu hỏi khái
quát.
• Khuyến khích khám phá, duy trì hứng thú, cho phép HS trả lời theo cách tiếp
cận sáng tạo, độc đáo. Các câu hỏi loại này kích thích HS tự kiến giải quyết
các vấn đề.
Ví dụ:
1) Kể tên các ngành, lĩnh vực có sử dụng ĐCĐT?
2) Nêu nguyên tắc về ứng dụng ĐCĐT.
Câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học đưa ra lí do căn bản của việc học, giúp HS nhận
thức được “vì sao” và “như thế nào”, khuyến khích tìm hiểu, thảo luận, và nghiên cứu.
Chúng giúp HS trong việc cá thể hóa suy nghĩ và phát triển khả năng nhận thức đối với
một chủ đề. Câu hỏi bài học được thiết kế tốt sẽ giúp HS tư duy phê phán, thúc đẩy trí tò
mò, thúc đẩy cách học thông qua đặt câu hỏi trong chương trình. Để trả lời những câu hỏi
như thế, HS phải xem xét kỹ các chủ đề, xác lập ý nghĩa nội dung rồi mới xây dựng câu
trả lời cụ thể từ những thông tin thu thập được.
Sự khác biệt giữa câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát không quá rõ ràng, ngược lại
chúng được xem như là một thể thống nhất. Điểm mấu chốt không phải là để ngụy biện
về việc cho trước một câu hỏi, đó là câu hỏi bài học hay câu hỏi khái quát mà là để chú

trọng đến mục đích lớn hơn của nó, đó là: định hướng cho việc học, khuyến khích người
học, liên kết đến nhiều câu hỏi cụ thể hơn, nhiều câu hỏi tổng quát hơn và hướng dẫn
khám phá, khai thác những ý tưởng hay, quan trọng.
+ Câu hỏi nội dung: Giúp HS xác định “ai”, “cái gì”, “ở đâu”, và “khi nào” cũng như hỗ
trợ cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học bằng cách nhấn mạnh vào việc hiểu các chi
tiết trong bài. Các câu hỏi này giúp HS tập trung vào những thông tin xác thực cần phải
tìm hiểu để đáp ứng các tiêu chí về nội dung và những mục tiêu học tập.
Đặc điểm chung của câu hỏi nội dung:
• Điển hình là có câu trả lời phải rõ ràng, phải đúng hay cụ thể, thường được
xếp vào loại câu hỏi “đóng”.
• Sắp xếp theo những tiêu chuẩn về nội dung, mục tiêu dạy học, hỗ trợ cho các
câu hỏi khái quát cũng như câu hỏi bài học.
• Kiểm tra khả năng ghi nhớ của HS dựa trên các thông tin, thường xuyên HS
phải xác định: ai, cái gì, ở đâu và khi nào.
• Đòi hỏi các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng đọc hiểu để trả lời.
Ví dụ:
1) Động cơ lắp trên xe máy có gì giống và khác so với động cơ đốt trong lắp trên ô tô?
2) Nêu vai trò của hệ thống truyền lực trên ô tô, xe máy?
Bước 3: Thiết kế dự án
Trước một nội dung dự định thực hiện một dự án, GV cần phải nghiêm túc trả lời các
câu hỏi:
- Vấn đề mà dự án nêu ra có vai trò gì trong cuộc sống hiện tại? Nếu vấn đề được giải
quyết thì đối tượng được hưởng lợi là ai? (HS đóng vai trò là các nhà tư vấn về việc
lựa chọn các phương án tối ưu để giải quyết vấn đề mà dự án đề cập tới)
- Đưa ra dự án (HS đóng vai là các nhà lập dự án) gồm: Mục tiêu của dự án, công việc
chính cần thực hiện, địa điểm thực hiện dự án, kết quả dự án thu được.
Từ ý tưởng dự án và nội dung kiến thức cần học, HS thiết kế 3 bài tập để trả lời bộ câu
hỏi định hướng, gồm bài trình diễn (sử dụng phần mềm Microsoft PowerPoint), một áp
phích hay tờ rơi (Sử dụng phần mềm Microsoft Publisher, ), một trang web (sử dụng
phần mềm Microsoft Publisher).

Bước 4: Thiết lập tài liệu hỗ trợ HS
GV chuẩn bị những hỗ trợ cần thiết cho HS trong quá trình thực hiện các bài tập được
giao.
Các bài tập mẫu, nội dung bài học, các nguồn tài liệu tham khảo, các mẫu phiếu phân
công công việc trong nhóm, các mẫu phiếu đánh giá từng sản phẩm,…
Bước 5: Chuẩn bị các điều kiện thực hiện dự án
Trao đổi, thu thập ý kiến của đồng nghiệp, vận động mọi người tham dự, chuẩn bị kinh
phí, cơ sở vật chất cần thiết,…
- Đối với HS
Trong giai đoạn này, HS dưới sự hướng dẫn của GV xuất phát từ những yêu cầu trong
thực tiễn cuộc sống, những vấn đề mà các thông tin đại chúng thường xuyên đề cập,
hoặc cũng có thể trong quá trình tìm hiểu, thảo luận để trả lời bộ câu hỏi định hướng của
GV mà HS nảy ra những ý tưởng mới cần phải giải quyết, từ đó xác định mục đích của
dự án. Vì xuất phát từ thực tế nên các chủ đề có thể đơn giản nhưng mang tính thực tiễn
cao.
* Giai đoạn 2: Xây dựng kế hoạch
- Hoạt động của GV:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho HS trong quá trình xây dựng kế hoạch, GV cần cung cấp
những thông tin tham khảo và những định hướng cần thiết cho dự án, đặc biệt cần cung
cấp những tiêu chí đánh giá cho các bài tập cụ thể nhằm giúp HS có được định hướng
đúng đắn khi xây dựng kế hoạch.
- Hoạt động của HS:
Xuất phát từ yêu cầu cụ thể của dự án, các em sẽ thảo luận, thống nhất xây dựng kế
hoạch thực hiện dự án. Với những đối tượng HS mới làm quen với hình thức DHTDA
thì trong giai đoạn này cần được sự gợi ý của GV. Việc xây dựng kế hoạch thực hiện đòi
hỏi các em phải hoạt động tập thể sau khi đã tìm hiểu, tham khảo các dự án khác, mỗi dự
án khác nhau có cách xây dựng kế hoạch khác nhau, song các kế hoạch đều phải dựa trên
cơ sở tiêu chí đánh giá sản phẩm, cần chỉ ra được thời gian tiến hành thiết kế dự án, các
bước cần tiến hành để thực hiện dự án, các đối tượng hướng tới và phân công cụ thể
công việc cho thành viên trong nhóm tùy thuộc vào trình độ của mỗi cá nhân. Kể cả việc

chuẩn bị những kiến thức về tin học phục vụ cho việc trình bày dự án sau này.
* Giai đoạn 3: Thực hiện dự án
- Hoạt động của GV
Theo dõi sát sao quá trình thu thập, xử lí thông tin. Trong giai đoạn này, GV cần kiểm
tra tính chính xác của các nguồn thông tin, đặc biệt cần ý thức cho HS về bản quyền của
các thông tin, cụ thể là HS phải biết ghi lại tác giả các nguồn thông tin đã thu thập.
- Hoạt động của HS
Trên cơ sở kế hoạch xây dựng ở trên, trong bước thực hiện các em làm các công việc cụ
thể được giao như thu thập thông tin, xử lí thông tin của từng cá nhân, sau đó phải làm
việc theo nhóm và theo kế hoạch. Bước cuối cùng của việc thực hiện dự án là kết hợp lí
thuyết với thực hành để hình thành sản phẩm.
* Giai đoạn 4: Giới thiệu sản phẩm
- Hoạt động của GV
Tổ chức cho HS trình bày kết quả học tập trước lớp và tổ chức cho các nhóm trao đổi ý
kiến, đặt ra các câu hỏi yêu cầu chủ dự án giải trình. GV cũng có thể đặt ra các câu hỏi
cho các chủ dự án nhằm hoàn thiện dự án cho HS.
- Hoạt động của HS:
Tùy theo tính chất, đặc thù của sản phẩm mà các nhóm lựa chọn phương pháp trình bày
dự án cho phù hợp. Có thể trình bày trực tiếp (đối với bài trình bày đa phương tiện) hoặc
trình bày gián tiếp (đối với ấn phẩm trang web HS). Mục đích cần đạt được là từng nhóm
phải bảo vệ có sức thuyết phục dự án của mình, giải trình lí do lựa chọn dự án, tính khả
thi và khả năng áp dụng vào cuộc sống của dự án. Đây là nội dung cơ bản của dự án,
đồng thời rèn luyện cho HS kĩ năng phát biểu ý tưởng của mình tới người nghe và những
kiến thức thu hoạch được qua quá trình thực hiện dự án.
* Giai đoạn 5: Đánh giá
GV hướng dẫn cho HS theo các tiêu chí đánh giá sản phẩm. Trên cơ sở đó, HS tự đánh
giá quá trình triển khai dự án và mức độ sản phẩm đạt được của nhóm mình. Đồng thời
có nhận xét, đánh giá kết quả hoàn thành dự án của các nhóm khác. Từ đó, HS sẽ rút ra
được những kinh nghiệm và phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc triển khai các
dự án sau có kết quả cao hơn.

2.5. Định hướng vận dụng DHTDA vào nội dung chương trình Công nghệ 11 THPT
Như trên ta đã phân tích vai trò, tác dụng của việc đổi mới PPDH theo hướng DH tích
cực, lấy HS làm trung tâm, DHDA là một trong những PPDH tích cực đang được ứng
dụng ở mức độ, phạm vi khác nhau và bước đầu đã mang lại hiệu quả đáng ghi nhận.
Trong các môn học của bậc THPT, Công nghệ là môn học ứng dụng – gắn với cuộc
sống sôi động hàng ngày. Việc kết hợp “học và hành” có rất nhiều yếu tố thuận lợi để
thực hiện. DHDA đối với môn học Công nghệ cho phép khai thác tối đa ưu thế của
PPDH này và đặc điểm nổi bật của môn học.
Đặc biệt chương trình Công nghệ 11 có những nội dung rất gần gũi với đời sống thực tế.
Đây là điều kiện lí tưởng để khơi nguồn cảm hứng trong hoạt động học tập của HS. Ví
dụ như HS muốn biểu đạt hình dáng của một ngôi nhà, một công trình kiến trúc nào đó,
các em cần có kiến thức nhất định về Vẽ kĩ thuật, hoặc muốn tìm hiểu về một sản phẩm
nào đó được ra đời như thế nào, nội dung kiến thức phần phương pháp gia công sẽ giúp
các em khám phá điều lí thú này. Một lĩnh vực khác đặc biệt thu hút sự quan tâm, ham
muốn tìm hiểu của HS đó là Động cơ đốt trong (ĐCĐT) được ứng dụng trong thực tế ra
sao? ĐCĐT lắp đặt trên các thiết bị tĩnh tại và trên các phương tiện cơ động có đặc điểm
gì giống và khác nhau?
Trong phạm vi có hạn, luận văn này tác giả chỉ xin đi vào chuyên đề: DHDA đối với
phần khái quát về ĐCĐT và một vài lĩnh vực trong ngành GTVT.
2.6. Thiết kế và áp dụng dự án về vai trò của ĐCĐT trong đời sống XH nói chung và
ứng dụng của nó trong ngành GTVT đường bộ nói riêng.
2.6.1. Những hoạt động của GV trước khi tiến hành bài dạy
- Bám sát nội dung chương trình để có dự án phù hợp.
- Chuẩn bị các tài liệu có liên quan đến DHDA, các tài liệu liên quan đến nọi dung dự
án.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học theo dự án.
- Lập kế hoạch bài học, bao gồm các công việc sau:
+ Xác định nội dung kiến thức HS cần nắm được sau khi học xong dự án.
+ Dự trù khoảng thời gian cần thiết: 5 tiết/2.5 tuần (trong đó thời gian thảo luận và quyết
định chủ đề và xây dựng kế hoạch là 1 tiết, thời gian thực hiện và báo cáo kết quả trong

4 tiết.)
+ Gợi mở, định hướng để HS làm quen với PPDHTDA.
2.6.2. Thiết kế dự án “Vai trò của ĐCĐT trong đời sống XH nói chung và …”
- Vị trí của dự án trong chương trình
Thời gian tiến hành dự án
- Mục tiêu chung của dự án:
- Nhiệm vụ của dự án
- Qui trình thực hiện
+ Giai đoạn 1: Xác định chủ đề và mục tiêu của dự án
Trong giai đoạn này, việc cụ thể hóa các hoạt động của GV được thực hiện theo 5 bước:
Bước 1: Bài học được triển khai thành dự án
Bước 2: Xây dựng bộ câu hỏi định hướng gồm: câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu
hỏi nội dung.
Câu hỏi khái quát: Giúp HS liên hệ giữa kiến thức đã được học với thực tiễn đời sống.
Câu hỏi bài học: Để trả lời cho câu hỏi khái quát, GV hướng HS vào những câu hỏi cụ
thể hơn (= câu hỏi bài học).
Câu hỏi nội dung hỗ trợ HS trả lời cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học. Với các câu
hỏi này giúp HS tập trung vào những thông tin xác thực cần phải tìm hiểu để đáp ứng
các mục tiêu mà dự án đề ra.
Bước 3: Thiết kế dự án
• Chủ đề dự án
• Mục tiêu của dự án
• Giải pháp thực hiện dự án: Tổ chức học tập (Chia lớp thành các nhóm, mỗi
nhóm cử một nhóm trưởng và một thư kí); Phân công thực hiện (căn cứ vào
yêu cầu, nội dung của dự án, nhóm trưởng nghiên cứu, phân công công việc
cho các thành viên. Thư kí có nhiệm vụ cập nhật và tổng hợp kết quả thực
hiện theo kế hoạch); Địa điểm thực hiện dự án (ở nhà và ngoài XH – ngoài
thời gian học ở lớp và số tiết làm việc trên lớp theo chương trình).
• Kết quả dự án cần thu được: Đối với HS THPT, yêu cầu các em thiết kế 2 bài
tập để trả lời bộ câu hỏi định hướng, gồm bài trình diễn (sử dụng phần mềm

Microsoft PowerPoint), một áp phích hay tờ rơi (sử dụng phần mềm
Microsoft Publisher,…)
Bước 4: Thiết lập tài liệu hỗ trợ HS
HỖ TRỢ HS LÀM TỜ RƠI
1) Ý tưởng: Quảng bá sản phẩm (bao gồm: ôtô, xe máy, với vai trò là một giám đốc
phòng Marketting. Thông qua đó HS hiểu được ứng dụng của ĐCĐT trên thực
tế).
2) Tài nguyên: Tìm kiếm tài nguyên trong các trang web sau để tìm hình ảnh và thư
mục: www.google.com.vn , www.home.com.vn
3) Tài liệu tham khảo: SGK Công nghệ 11, tạp chí, tài liệu liên quan.
Ngoài ra HS cần tìm hiểu thêm về phần mềm Publisher.
KẾ HOẠCH GIÚP CHO BÀI TRÌNH BÀY ĐA PHƯƠNG TIỆN

“tên dự án”
Nhóm
Lớp
Ngày … tháng… năm…
Bài trình diễn phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Tối thiểu phải có … slide
- Mỗi nội dung có ít nhất một hình ảnh hoặc sơ đồ minh họa nội dung câu trả lời.
- Nội dung gồm … phần chính có hình ảnh minh họa cho mỗi nội dung:…
- Một số slide mẫu
Tài liệu tham khảo:
SGK, tra cứu bằng công cụ internet: Một số từ khóa tra cứu.
Lấy các tài liệu liên quan trên trang web ….

PHIẾU ĐÁNH GIÁ TỜ RƠI
(hệ số điểm 30%)
Nhóm:
Lớp

Ngày … tháng… năm…
Tiêu chí Đánh giá của GV
Điểm Xếp loại
Nội dung (hệ số 50%)
Trình bày (hệ số 50%)
1. Trình bày khoa học
2. Bài viết sinh động
3. Các hình ảnh minh họa cụ thể, hấp dẫn
4. Diễn đạt tạo hướng gợi mở, suy nghĩ cho người
đọc
5. Các kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin được
phát huy tốt nhất (sử dụng mẫu, chỉnh sửa mẫu, kết
hợp màu sắc)
Điểm trung bình
Ghi chú: Xếp loại giỏi: điểm từ 8 – 10; Loại khá: điểm từ 6,5 – 7,9: Trung bình: điểm từ
5,0 – 6,4; Loại yếu: điểm từ 3,5 – 4,9; Loại kém: điểm từ 0 – 3,4.
PHIẾU ĐÁNH GIÁ BÀI TRÌNH BÀY POWERPOINT
(hệ số điểm 70 %)
Nhóm
Lớp
Ngày … tháng… năm…
Tiêu chí Đánh giá của GV
Điểm Xếp loại
Nội dung (hệ số 50%)
Hình thức trình bày (hệ số 50%)
1. Chất lượng hình ảnh minh họa
2. Vị trí sử dụng hình ảnh
3. Các sơ đồ
4. Thông tin trên các trang trình diễn
5. Người trình bày

Điểm trung bình
Ghi chú: Xếp loại giỏi: điểm từ 8 – 10; Loại khá: điểm từ 6,5 – 7,9: Trung bình: điểm từ
5,0 – 6,4; Loại yếu: điểm từ 3,5 – 4,9; Loại kém: điểm từ 0 – 3,4.

Bước 5: Chuẩn bị các điều kiện thực hiện dự án
GV liên hệ phòng thực hành máy tính, nếu điều kiện cho phép GV liên hệ cơ sở sửa
chữa, sản xuất, chế tạo, lắp ráp ôtô, xe máy.
HS thu thập các tài liệu tranh ảnh, những bộ phận, cơ cấu, mô hình, động cơ nếu có để
phục vụ cho việc thực hiện dự án.
Giai đoạn 2: xây dựng kế hoạch thực hiện
Trước khi dạy học 2 tuần, GV gợi mở ý tưởng dự án theo nội dung môn học, lựa chọn dự
án, nêu những nhiệm vụ mà HS cần chuẩn bị cho bài học theo PP DHDA cũng như các
tiêu chí đánh giá cho các bài tập cụ thể.
HS tự xây dựng kế hoạch thực hiện dự án: những nội dung cần tìm hiểu, lên danh mục
các tư liệu cần tham khảo, những cơ sở thực tế phục vụ cho dự án, …
HS xây dựng kế hoạch thời gian gồm … tuần làm việc tự lực ngoài giờ, … tiết làm việc
trên lớp (trong đó … tiết các nhóm thảo luận để hoàn thiện dự án, … tiết báo cáo kết quả
thực hiện dự án).
Các nhóm tiến hành phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên bao gồm các
công việc: tìm kiếm tài liệu, tiếp cận các nguồn thông tin có thể có, liên hệ những cơ sở
thực tế thuận lợi có thể tiếp cận phục vụ cho dự án,… và các phương tiện cần thiết khác.
Tổ trưởng tổng hợp các ý kiến và công việc chuẩn bị của nhóm để bổ sung, hoàn chỉnh
các nội dung mà khi thực hiện dự án phải làm.
Giai đoạn 3: Thực hiện kế hoạch
- GV kiểm tra, nhận xét về công tác chuẩn bị của các nhóm và yêu cầu HS hoàn thiện
những nội dung còn thiếu sót.
- HS nghiên cứu SGK, tra cứu Internet phát triển kiến thức về “dự án”
- Nhóm trao đổi và thiết kế bài trình diễn ….
Giai đoạn 4: Giới thiệu sản phẩm
HS trình bày, báo cáo quá trình thực hiện và kết quả của dự án.

Giai đoạn 5: Đánh giá
HS tự đánh giá quá trình, và kết quả thực hiện theo các tiêu chí mà GV đã đưa ra ở giai
đoạn 1, đồng thời rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo.
GV nhận xét, đánh giá quá trình thực hiện và chất lượng của dự án.
2.6.3. Tổ chức dạy học theo dự án
Muốn tổ chức dạy học cho dự án …, GV cần soạn kế hoạch DHTDA và các phiếu đánh
giá trước thời gian triển khai dự án. Việc tổ chức dạy học được thể hiện qua kế hoạch
DH của GV trong bảng sau:
Tổng quan bài dạy:
Người soạn bài:
Họ và tên:
Tiêu đề dự án:
Thời gian thực hiện:
Bộ câu hỏi định hướng:
Câu hỏi khái quát:
Câu hỏi bài học:
Câu hỏi nội dung:
Tóm tắt bài dạy: - Nội dung
- Ý tưởng dự án
- Bài tập: bài tập trình diễn, bản tin/ ấn phẩm
- Lĩnh vực môn học
- Mục tiêu bài dạy/ kết quả học tập
- Các bước tiến hành bài dạy: Trước khi tiến hành bài dạy, Trong khi
thực hiện bài dạy: GV thực hiện bài
giảng, chia nhóm HS, định hướng thực
hiện bài dạy.
- Bài tập trình bày đa phương tiện: GV làm phiếu đánh giá bài trình
diễn PowerPoint, ấn phẩm HS và
phiếu trợ giúp HS làm bài trình diễn,
làm tờ rơi (ấn phẩm).

HS nghiên cứu SGK, tra cứu Internet phát triển kiến thức về nội dung “dự án”
+ Nhóm trao đổi và thiết kế bài trình diễn:
+ Lập dàn ý và thiết kế bản tin (dùng phần mềm MS.Pulisher).
- Kết thúc bài dạy: GV công bố kết quả đánh giá, trao đổi thông tin với HS
Hoàn thành tất cả các thủ tục văn phòng …
Ước tính thời gian cần thiết: … tuần nghiên cứu với … các nhóm thực hiện và hoàn
thành dự án, 2 tiết báo cáo trước lớp.
Kĩ năng cần có: - Khai thác và sử dụng máy tính, internet.
- Sử dụng các phần mềm PowerPoint, Publisher.
- Đọc tài liệu trình bày vấn đề, làm việc theo nhóm.
Tài liệu, trang thiết bị, phần mềm ứng dụng: Máy tính kết nối Internet, Máy chiếu, Phần
mềm PowerPoint, Microsoft Pulisher; (Tài liệu sách in, Tài nguyên Internet, tài liệu
khác: từ thực tiễn cuộc sống).
Điều chỉnh cho các đối tượng học khác nhau
+ HS tiếp thu chậm: Tham gia trong mỗi nhóm với công việc như đánh máy các bài trình
bày, các bài báo; trang web; nêu lại cho nhóm các kiến thức trong SGK.
+ HS trung bình: Tham gia các nhóm, ghi lại các ý kiến đã được thảo luận cũng như đề
xuất các kết luận khi kết thúc thảo luận. Tham gia tìm kiếm, tải các thông tin trên
Internnet, tóm tắt kiến thức SGK. Tham gia tạo hiệu ứng cho các bài trình bày; xử lí
tranh ảnh cho các bài tập; tham gia lập trang web.
+ HS năng khiếu: Đóng vai trò làm trưởng nhóm. Đưa ra những kết luận chính của cả
nhóm. Chịu trách nhiệm biên tập nội dung bài trình bày, bài báo và quản lí trang web.
- Đánh giá HS:
+ Đánh giá qua quan sát thực hành trên lớp, trên phòng máy và thái độ khi tham gia thảo
luận trong nhóm.
+ Đánh giá chủ yếu qua các trình bày dựa trên phiếu đánh giá.
+ Giao cho nhóm trưởng trách nhiệm chấm điểm các thành viên trong nhóm sau đó báo
cáo lại.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Trên cơ sở nghiên cứu, xác lập qui trình chung thực hiện một dự án theo PP DHDA, GV

lập ra kế hoạch chuẩn bị và các bươc hướng dẫn HS thực hiện dự án. Từ đó vận dụng để
xây dựng dự án: “…”. Thông qua thực hiện dự án này, HS sẽ nắm được ….
Đồng thời trên cơ sở đó khơi dậy sự hứng thú trong học tập và lòng say mê tìm hiểu, liên
hệ kiến thức đã được học với hiện thực đời sống. Với PP DHDA này, HS còn được làm
quen với tính hợp tác trong công việc, tính năng động của mỗi cá nhân và khả năng tìm
kiếm, phân tích, tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. HS cũng được trau dồi kĩ
năng báo cáo một chuyên đề nào đó một cách mạch lạc, rõ ràng, xúc tích.
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính đúng đắn của giả thuyết khoa học là vận dụng
PP DHTDA theo quy trình đã đề xuất ở một số nội dung chương trình CN 11 sẽ góp phần
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của HS nhằm nâng cao chất lượng DH.
Ngoài ra thực nghiệm sư phạm còn nhằm mục đích đánh giá tính khả thi của tiến trình
thực hiện được xây dựng dựa trên cơ sở lí luận. Từ đó, bổ sung, sửa đổi để PPDH này
ngày càng phù hợp với thực tiễn DH ở nước ta.
Thông qua thực nghiệm sư phạm có thể đánh giá được hiệu quả phát triển năng lực sáng
tạo, mức độ nắm vững kiến thức của HS trên cơ sở các hoạt động học tập.
3.2. Đối tượng thực nghiệm sư phạm
Việc thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại trường … Thời điểm tiến hành thực
nghiệm là … tại lớp … (lớp thực nghiệm – dạy theo PP DHTDA) và lớp … (lớp đối
chứng – dạy theo PP truyền thống). Trình độ HS ở hai lớp thực nghiệm và đối chứng
tương đương nhau.
3.3. Nội dung thực nghiệm sư phạm
Tổ chức thực nghiệm theo 5 giai đoạn của tiến trình DHDA để hình thành cho HS kiến
thức phần:…
3.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
GV tiến hành chia HS thành 4 nhóm (Nhóm I: … HS, nhóm 2: … HS, nhóm 3: … HS,
nhóm 4: … HS). Trong quá trình chọn nhóm tránh sự sai lệch, mất cân bằng về giới,
trình độ có thể xảy ra nếu lựa chọn theo tổ bởi trong quá trình phân tổ GV chủ nhiệm đã
tính đến các yếu tố này.

GV hướng dẫn HS cách làm việc theo nhóm: HS đặt tên gọi cho nhóm của mình, phân
công nhóm trưởng, thư kí, phân công công việc cho các thành viên trong nhóm, kết hợp
giữa làm việc cá nhân, làm việc nhóm và giữa các nhóm với nhau.
Trong quá trình làm thực nghiệm, GV và HS thường xuyên liên lạc với nhau bằng nhiều
hình thức như: gặp gỡ trực tiếp, qua thư điện tử, qua điện thoại,… để trao đổi và giải đáp
những vướng mắc mà HS gặp phải trong khi thực nghiệm dự án.
3.5. Kế hoạch thực nghiệm sư phạm
Mặc dù các tổ đều phải chuẩn bị nội dung của dự án, nhưng đến khi báo cáo kết quả thực
hiện thì phân ra mỗi tổ trình bày mỗi phần khác nhau một cách khác nhau một cách ngẫu
nhiên (vì thời gian hạn hẹp). Các nhóm nhận xét, bổ sung và rút kinh nghiệm cho nhau.
Tiết 1, tuần 1: Tổ chức cho HS thảo luận để trả lời câu hỏi khái quát và câu hỏi bài
học:
Các nhóm HS thảo luận, thống nhất câu trả lời, sau đó đại diện các nhóm, nhận xét bổ
sung, từ đó dẫn dắt để đưa ra các câu hỏi nội dung hướng HS vào nội dung các bài trong
phần:…………
Nhóm trưởng phân công cho các thành viên trong nhóm về tìm hiểu các thông tin liên
quan để trả lời câu hỏi cho các câu hỏi nội dung. GV có thể gợi ý cho HS các nguồn tài
nguyên tham khảo: SGK, các trang web, báo, tạp chí…
Các thành viên trong nhóm trao đổi thông tin với nhau thông qua các hộp thư trên mạng
internet hoặc các giờ nghỉ giải lao giữa 2 tiết.
GV yêu cầu các nhóm về nhà lập kế hoạch dạng đề cương bài trình diễn đa phương tiện.
Tiết 2, tuần 1: Các nhóm trình bày đề cương bài trình diễn đa phương tiện. Thảo luận về
đề tài và hình thức trình bày ấn phẩm. Báo cáo trước lớp kết quả thảo luận.
GV nhận xét về ý tưởng của các nhóm, đưa ra những điều chỉnh cần thiết về nội dung và
hình thức trình bày. Yêu cầu các nhóm về nhà hoàn thiện đề cương ấn phẩm.
Tiết 3, tuần 2: Các nhóm trình bày đề cương ấn phẩm: tiêu đề, nội dung, hình ảnh minh
họa,… Nhận xét, đóng góp, hoàn thiện thêm cho đề cương ấn phẩm của nhóm bạn.
HS trao đổi trong nhóm về tiến độ hoàn thành bài trình diễn đa phương tiện và ấn phẩm
đồng thời tiếp thu những định hướng của GV để nội dung bài trình diễn đa phương tiện
và ấn phẩm được ấn phẩm được ấn phẩm để chuẩn bị cho 2 tiết báo cáo cuối cùng trước

lớp.
GV yêu cầu HS tiếp tục hoàn thiện bài trình diễn và ấn phẩm để chuẩn bị cho 2 tiết báo
cáo trước lớp.
GV phát cho các nhóm tiêu chí đánh giá bài trình bày đa phương tiện và ấn phẩm, yêu
cầu HS căn cứ vào đó để hoàn thiện bài tập của nhóm mình.
Tiết 4, tuần 2. Tiết 5, tuần 3:
Từng nhóm trình bày bài trình diễn đa phương tiện và ấn phẩm theo sự phân công của
GV. Các nhóm còn lại nhận xét, rút kinh nghiệm, cho điểm vào phiếu đánh giá.
GV tổng hợp các bài báo cáo của các nhóm, ý kiến tham luận, đưa ra những nhận xét
chung về mức độ hoàn thành bài tập của từng nhóm, đánh giá vai trò của các thành viên
trong nhóm thông qua quá trình làm việc. Công bố điểm cho từng nhóm.
3.6.2. Kết quả điều tra ý kiến của HS về DHTDA
Nhận xét của HS Số HS trả lời Tỷ lệ trả lời
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
Căng thẳng
Bảng : Ý kiến của HS về khả năng áp dụng DHDA cho các phần khác của môn …
Ý kiến của HS Số HS trả lời Tỷ lệ trả lời (%)

Không
Bảng: Mong muốn của HS về việc tiếp thu được học thep PP DHTDA
Nhận xét của HS Số HS trả lời Tỷ lệ trả lời

Không
Bảng: Nhận xét của HS về khó khăn khi thực hiện dự học theo dự án
Nhận xét của HS Số HS trả lời Tỷ lệ trả lời
Mất nhiều thời gian
Khó khăn về tài liệu và

trang thiết bị
Khó khăn về khả năng làm
việc nhóm
Không có khó khăn gì
Bảng: Những điều HS thu được sau khi học theo dự án
Nhận xét của HS Số HS trả lời Tỷ lệ trả lời (%)
Kĩ năng khai thác và tìm
kiếm thông tin
Kĩ năng học tập và làmm
việc theo nhóm
Kĩ năng giao tiếp, trình bày
trước đám đông
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản VN (2006), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB
Chính trị quốc gia.
2. Lê Văn Hồng (2006), “Đặc điểm, cấu trúc của dự án và kết quả việc vận dụng vào
dạy học môn kĩ thuật số.”
Tạp chí Giáo dục, số 133, tr 31 – 32
3. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), “Sử dụng phương pháp dạy học dự án trong hoạt
động hướng nghiệp.”
Tạp chí Giáo dục số 179, trang 21 – 22
4. Dự án Intel teach of future tại Việt Nam: www.intel.com
5. Nguyễn Thành Long (2007), Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành mới
nhất, NXB Lao động, HN.
6. Nguyễn Trọng Khanh, Lê Huy Hoàng, Đặng Xuân Thuận (2006), Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên GV THPT – chu kì III (2004 - 2007). NXB Đại học sư phạm Hà Nội

×