Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

đề tài ''''các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.33 KB, 21 trang )


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI

CÁC DI SẢN VĂN HÓA
VẬT THỂ VÀ PHI VẬT THỂ

MỤC LỤC


BÀI LÀM


I Khái niệm
1.1 Văn hóa vật thể
Văn hố vật thể là một bộ phận của văn hoá nhân loại, thể hiện đời
sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt
động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ
vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Văn hóa vật thể quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối
tượng thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu
tự nhiên thông qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật
chất giúp cho cuộc sống của con người.
Trong VHVT, người ta sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên
năng lượng, dụng cụ lao động, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống
của con người, phương tiện giao thông, truyền thông, nhà cửa, cơng trình
xây dựng phục vụ nhu cầu ăn ở, làm việc và giải trí, các phương tiện tiêu
khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế... Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đều
là kết quả lao động của con người.


1.2 Văn hóa phi vật thể
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những cơng cụ, đồ vật, đồ
tạo tác và các khơng gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các
nhóm và trong một số trường hợp là cá nhân công nhận là một phần di sản
văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn


hóa phi vật thể được cộng đồng, các nhóm khơng ngừng tái tạo để thích nghi
với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch
sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua
đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo
của con người.

1.3 Tổ chức nào công nhận di sản vật thể và phi vật
thể, nó được xuất hiện từ bao giờ, điều kiện công nhận
là như thế nào?
Tổ chức công nhận là UNESCO hay còn gọi là tổ chức Giáo
dục,Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc.
Đây là 1 tổ chức được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc
ký kết Công ước thành lập của UNESCO. Ngày 4 tháng 11 năm 1946, Cơng
ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận: Úc, Brasil,
Canada, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ai Cập,
Pháp, Hy Lạp, Ấn Độ, Li Băng, Mexico, New Zealand, Na Uy, Các Tiểu
vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh và
Hoa Kỳ.
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của
tổ chức, bao gồm:
-


Khuyến khích sự hiểu biết và thơng cảm lẫn nhau giữa các dân tộc

thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp
định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngơn
ngữ và hình ảnh:


-

Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa

bằng cách:

o

Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động
giáo dục theo yêu cầu của từng nước;

o

Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình
đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ
hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;

o

Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi
tồn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
-


o

Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:

Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và
các cơng trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu
quan về các Công ước quốc tế cần thiết;

o

Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động
trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực
giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ
thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;

o

Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản
phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích
hợp.
Thời điểm xuất hiện và điều kiện được công nhận:


Di sản văn hóa vật thể hay cịn gọi rộng hơn là: Di sản thế giới là di
chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần
thể kiến trúc hay thành phố... do các nước có tham gia Cơng ước di sản thế
giới đề cử cho Chương trình quốc tế Di sản thế giới, được cơng nhận và
quản lý bởi UNESCO.
Sau đó Chương trình quốc tế Di sản thế giới sẽ lập danh mục, đặt tên
và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản

nhân loại chung. Những vị trí được đưa vào danh sách di sản thế giới có thể
được nhận tiền từ Quỹ Di sản thế giới theo một số điều kiện nào đó. Chương
trình này được thành lập bởi Cơng ước về Bảo vệ di sản văn hóa và thiên
nhiên thế giới, gọi tắt là Công ước di sản thế giới, nó được Đại hội đồng
UNESCO chấp nhận ngày 16 tháng 11 năm 1972.
Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại hay Kiệt tác truyền khẩu và
phi vật thể nhân loại là danh sách được UNESCO đưa ra để cơng nhận giá trị
của các di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới. Danh sách này được bắt đầu
năm 2001 với 19 di sản, năm 2003 danh sách có thêm 28 di sản. Danh sách
tiếp theo được lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2005.
Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách phải được
một hoặc nhiều quốc gia đề cử cho UNESCO trước khi được một ủy ban của
tổ chức này xem xét khả năng đưa vào danh sách.

II. Những di sản văn hóa vật thể và phi Vật
thể ở Việt Nam hiện nay
2.1 Di sản văn hóa vật thể


2.1.1 Quần thể di tích Cớ đơ Huế.
Cố đơ Huế là kinh đô một thời của Việt Nam, nổi tiếng với một hệ
thống những đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc nguy nga tráng lệ
gắn liền với cảnh quan thiên nhiên núi sông thơ mộng. Nằm ở bờ Bắc sông
Hương, tổng thể kiến trúc của cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng
với diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi ba vòng thành theo thứ tự
ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.Ba tòa
thành này được đặt lồng vào nhau, bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên
suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực
của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây,
được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu

tượng sẵn có tự nhiên.

Cố đơ Huế cịn là nơi lưu giữ rất nhiều những di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của
dân tộc Việt Nam.
Năm 1993, quần thể di tích Cố đơ Huế đã được UNESCO cơng nhận
là Di sản văn hóa thế giới.
2.1.2 Vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long là một di sản độc đáo vì nó chứa đựng những dấu tích
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi
cư trú của người Việt cổ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại
của thiên nhiên với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá mn hình vạn
trạng; nhiều hang động kỳ thú quần tụ thành một thế giới vừa sinh động vừa


huyền bí. Bên cạnh đó, vịnh Hạ Long cịn là nơi tập trung đa dạng sinh học
cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ
sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới... cùng với hàng nghìn
lồi động thực vật vơ cùng phong phú, đa dạng.
Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận vịnh Hạ Long là Di
sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000,
vịnh Hạ Long tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa
chất thế giới vì những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.
2.1.3 Khu di tích Mỹ Sơn.
Khu di tích Mỹ Sơn là khu vực đền tháp của người Chăm cổ, được
học giả người Pháp M.C.Paris tìm thấy trong chuyến thám hiểm vùng Đơng
Nam Á vào năm 1898. Tồn bộ khu di tích nằm lọt trong thung lũng Mỹ Sơn
thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà
Nẵng 68km về hướng Tây-Tây Nam.Được khởi công từ thế kỷ 4, Mỹ Sơn là
một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc,

điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi là một trong những
trung tâm đền đài chính của đạo Hindu (Ấn Độ giáo) ở khu vực Đông Nam
Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Năm 1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO cơng nhận là Di
sản văn hóa thế giới.
2.1.4 Phớ cổ Hội An.
Phố cổ Hội An thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đây là một khu
phố được hình thành từ thế kỷ 16-17, trước đây là thương cảng của miền


Trung. Đến nay khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng quần
thể di tích kiến trúc gồm nhiều loại hình như nhà ở, hội quán, đình chùa,
miếu, giếng, cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ kết hợp với đường giao thông
ngang dọc tạo thành các ô vng kiểu bàn cờ, mơ hình phổ biến của các đô
thị thương nghiệp phương Đông thời Trung đại. Cuộc sống thường ngày của
cư dân Hội An với những tập quán, sinh hoạt văn hóa lâu đời đang được duy
trì một cách khá bền vững, hiện là một bảo tàng sống về kiến trúc và lối
sống đô thị thời phong kiến.
Năm 1999, phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là Di sản văn
hóa thế giới.
2.1.5 Vườn q́c gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là một khu bảo tồn thiên nhiên
tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 85.754ha. Đặc trưng
của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, các loại hang động, sông ngầm
và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới. Đặc
biệt, ngoài hệ thống sinh cảnh thảm rừng và động vật hoang dã, vùng này
chứa đựng trong lòng nó cả một hệ thống trên 300 hang động lớn nhỏ được
mệnh danh là “vương quốc hang động”. Hệ thống động Phong Nha đã được
Hội nghiên cứu hang động hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có
giá trị hàng đầu thế giới với bốn điểm nhất có các sơng ngầm dài nhất, có

cửa hang cao và rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, có những
thạch nhũ đẹp nhất.
Năm 2003, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.


2.1.6 Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội.
Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội bao gồm Khu di
tích khảo cổ học 18 Hồng Diệu với diện tích hơn 47.000m2 và Thành cổ
Hà Nội với diện tích hơn 138.000m2, tạo thành một di sản thống nhất. Đây
là minh chứng rõ nét về một di sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện
trọng đại của lịch sử Việt Nam trong mối quan hệ với khu vực và thế giới; là
minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu
thổ sông Hồng trong suốt chiều dài lịch sử.Những tầng văn hóa khảo cổ, di
tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp
nhau liên tục của các vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư
tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hóa trong gần một
nghìn năm.
Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục
dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hóa như tại Khu Trung tâm
Hồng thành Thăng Long-Hà Nội.

2.2 Di sản văn hóa phi vật thể.
2.2.1 Nhã nhạc cung đình Huế
Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của
Việt Nam được thế giới công nhận. Trong phần nhận định về nhã nhạc, Hội
đồng UNESCO đánh giá Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa “âm nhạc tao
nhã”.Nhã nhạc đã đề cập đến âm nhạc cung đình Việt Nam được trình diễn
tại các lễ thường niên bao gồm các lễ kỷ niệm và những ngày lễ tôn giáo



cũng như các sự kiện đặc biệt như lễ đăng quang, lễ tang hay những dịp đón
tiếp chính thức.
Năm 2003, nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO cơng nhận là
Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

2.2.2 Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun.
Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun trải dài trên năm tỉnh
Tây Nguyên Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể
của không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau như Êđê, Bana,
Mạ… Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hóa
của các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn-Tây Nguyên. Mỗi dân tộc ở
Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản
nhạc của riêng dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới,
mừng nhà mới… Trải qua bao năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn
hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên.
Năm 2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun đã chính
thức được UNESCO cơng nhận là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và
truyền khẩu của nhân loại.
2.2.3 Quan họ Bắc Ninh.
Quan họ là một trong những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc
Bộ, Việt Nam; tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).
Nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca. Đến
nay, Bắc Ninh còn gần 30 làng Quan họ gốc, với hơn 300 làn điệu dân ca


Quan họ.Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao giá trị văn hóa
đặc biệt, tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng
xử văn hóa, bài bản, ngơn từ và cả trang phục của loại hình nghệ thuật này.
Năm 2009, UNESCO chính thức cơng nhận Quan họ là Di sản văn

hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
2.2.4 Ca trù.
Hát ca trù (hay hát “ả đào”, hát “cô đầu”) là bộ môn nghệ thuật truyền
thống của miền Bắc Việt Nam, rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa
ở khu vực này từ thế kỷ 15. Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (khơng chỉ
về cấu tạo mà cịn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu.
Về mặt văn học, ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói.
Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá về ca trù: Ca trù đã trải
qua một q trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn
trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền ở nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật
biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua các tổ chức giáo phường. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử,
xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối
với văn hóa Việt Nam.
Ngày 1/10/2009, ca trù của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.


2.2.5 Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội.
Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được cơng nhận
ngày 16/11/2010.
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức ở nhiều
nơi thuộc vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến cơng của người anh
hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân
gian Việt Nam. Có 2 hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội là hội Gióng Sóc Sơn ở
đền Sóc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn và hội Gióng Phù Đổng ở đền Phù
Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm đã được UNESCO cơng nhận là di sản
văn hóa phi vật thể của nhân loại.Giá trị nổi bật tồn cầu ở hội Gióng chính
là một hiện tượng văn hóa được bảo lưu, trao truyền khá liên tục và toàn vẹn

qua nhiều thế hệ. Mặc dù ở gần trung tâm thủ đô và đời sống cộng đồng trải
qua nhiều biến động do chiến tranh, do sự xâm nhập và tiếp biến văn hóa,
hội Gióng vẫn tồn tại một cách độc lập và bền vững, khơng bị nhà nước hóa,
thương mại hóa.

III. Cơng tác bảo tồn,duy trì và phát triển
Văn hóa vật thể và phi vật thể như thế nào ở Việt
Nam hiện nay
3.1.Văn hóa vật thể
Như ta đã thấy thì di sản văn hóa vật thể được xem là những di tích
của văn hóa cịn sót lại,đó là những cơng trình kiến trúc,di tích mà hiện tại
vẫn cịn tồn tại để chúng ta có thể nhìn thấy được,sờ thấy được.Việt Nam có


một nền văn hóa lâu đời chính vì vậy những di tích văn hóa vật thể cịn lại
đến ngày nay là vô cùng quý báu.Nhưng trước những thay đổi về khí hậu,sự
tác động của con người và tác động của thời gian đã khiến cho những di sản
này dần tới những nguy cơ biến đổi và có thể dẫn đến biến mất. Trước
những thực trạng như sự ô nhiễm ở Vịnh Hạ long là đáng báo động,hay sự
xuống cấp của các kiểu nhà cổ ở phố cổ Hội An cũng ngày một trầm trọng
nếu khơng có được những biện pháp thích đáng của các cơ quan chức năng
nhằm trùng tu và bảo tồn trong thời gian sắp tới.

3.2.Văn hóa phi vật thể
Ra đời từ quá khứ, vận hành cùng lịch sử cho đến ngày nay, dù ở giai
đoạn nào, văn hố phi vật thể cũng ln đồng hành và có ý nghĩa quan trọng
đối với đời sống tinh thần của mỗi cộng đồng, dân tộc. Do đó, muốn phát
huy ý nghĩa tích cực của văn hóa phi vật thể trong xã hội hiện đại thì trước
hết, cần quan tâm việc bảo tồn nó như thế nào.


Ðặc trưng dễ nhận biết của văn hóa phi vật thể là nó khơng tồn tại
dưới dạng vật chất, vật thể cụ thể (không kể một số hình thức đã được văn
bản hóa) mà tiềm ẩn trong trí nhớ, tâm thức của con người và chỉ bộc lộ
thông qua hành vi và hoạt động của con người. Nói cách khác, nếu văn hóa
vật thể được khách thể hóa, tức tồn tại như một thực thể ngồi bản thân con
người, thì văn hóa phi vật thể lại tiềm ẩn trong bản thân con người và thông
qua diễn xướng, các hiện tượng vốn tiềm ẩn ấy mới có thể bộc lộ, thể hiện ra
như một hiện tượng văn hóa.


Văn hóa nói chung, nhất là văn hóa phi vật thể, đều là của cộng đồng
(gia tộc, làng xã, địa phương, tộc người), nhưng tiềm ẩn trong trí nhớ và tâm
thức của từng con người cụ thể, qua sự tiếp nhận và thể hiện của từng con
người, cho nên nó mang dấu ấn cá nhân và vai trò sáng tạo của cá nhân rất
rõ rệt. Bởi thế sự sáng tạo, bảo tồn và trao truyền của văn hóa phi vật thể lại
phụ thuộc vào cuộc đời của từng cá nhân. Vì vậy, nó vừa mang tính bền
chắc (tiềm ẩn trong tâm thức dân tộc) lại vừa mỏng manh dễ bị biến
dạng(phụ thuộc cuộc sống của một cá nhân với bao may rủi, bất ngờ).
Cũng chính vì đặc trưng nêu trên, văn hóa phi vật thể khơng chỉ phụ
thuộc từng cá nhân, mà cịn phụ thuộc các nhóm xã hội khác nhau (nơng
thơn, đơ thị, già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nơng dân),... Tính cá nhân và tính
nhóm xã hội đã khiến cho văn hóa phi vật thể phong phú và đa dạng hơn
nhiều, nói cách khác tính dị bản của nó cao hơn so với văn hóa vật thể.
Từ những đặc tính trên ta thấy vai trị to lớn của giáo dục gia đình và
cộng đồng đối với việc trao truyền và tiếp nhận của mỗi cá nhân đối với các
di sản văn hóa phi vật thể, mà nhiều nhà nghiên cứu đã ví nó như là một
hình thức của "gien di truyền xã hội".
Sự phân biệt văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể là một sự giả định
chủ quan của con người, giúp con người có thể nhận thức bản chất thực tại
khách quan. Văn hóa với tư cách là khách thể, tồn tại và phát triển trên cơ sở

kết hợp hữu cơ giữa mặt vật thể và mặt phi vật thể. Mặt này là tiền đề tồn tại
của mặt kia và ngược lại. Do vậy, trong tư duy cũng như trong hoạt động
thực tiễn, tránh sự cô lập, đối lập một cách tuyệt đối giữa mặt vật thể và phi
vật thể của một hiện tượng văn hóa.


Văn hóa truyền thống nói chung, văn hóa phi vật thể nói riêng của
các tộc người ở nước ta, nhất là với các dân tộc thiểu số ở vùng núi còn chưa
được chú ý sưu tầm, nghiên cứu. Hơn thế nữa, các hiện tượng văn hóa phi
vật thể này lại đang đứng trước nguy cơ mai một, mất đi vĩnh viễn bởi thử
thách của thời gian, bởi sự phá hoại vơ ý thức của chính con người.
Cơng tác sưu tầm một số hiện tượng văn hóa dân gian tiêu biểu ở Tây
Nguyên gần đây như về sử thi và luật tục cho thấy, đối với các hiện tượng
ngữ văn truyền miệng này, nếu khơng nhanh chóng điều tra, sưu tầm thì sẽ
mất đi vĩnh viễn. Những người cịn nhớ được hàng chục bộ sử thi đồ sộ dài
hàng vạn câu, hiện nay số lượng có thể đếm trên đầu ngón tay và đều ở độ
tuổi khoảng 70.
Như đã phân tích, văn hóa phi vật thể vừa mang tính bền chắc lại vừa
mang tính mỏng manh, dễ bị thương tổn. Những đặc tính này gợi cho chúng
ta những cách thức hữu hiệu trong việc sưu tầm và bảo tồn các hiện tượng
văn hóa phi vật thể này. Những năm vừa qua, ngành văn hóa đã có cố gắng
lớn trong việc sưu tầm, nghiên cứu các hiện tượng văn hóa phi vật thể như
ngữ văn dân gian, diễn xướng dân gian, ứng xử và quan hệ xã hội, tri thức
dân gian...Tuy nhiên, việc sưu tầm, nghiên cứu còn chưa tuân thủ các
phương pháp khoa học nghiêm túc và chặt chẽ, do vậy chất lượng cơng tác
sưu tầm và nghiên cứu chưa cao.
Thí dụ, việc sưu tầm, nghiên cứu các hiện tượng văn hóa phi vật thể
chưa tuân thủ nguyên tắc diễn xướng một trong những môi trường cần thiết
để các hiện tượng văn hóa phi vật thể từ chỗ tiềm ẩn trong tiềm thức, tâm
thức con người bộc lộ ra như là một thực thể. Hay việc sưu tầm ca dao, dân

ca, truyện cổ, thành ngữ, tục ngữ của các dân tộc thiểu số vẫn chưa tuân thủ


nguyên tắc song ngữ, tức là được thể hiện bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của chủ thể
sáng tạo ra các hiện tượng văn hóa đó và ngơn ngữ phổ thơng.
Ngày nay, việc bảo tồn các hiện tượng văn hóa cổ truyền, trong đó có
văn hóa phi vật thể, cần được quan tâm nhiều hơn nữa trước nguy cơ bị mất
đi nhanh chóng trong sự biến đổi xã hội theo hướng CNH, HÐH. Có nhiều
cách bảo tồn, nhưng chung quy có hai hướng chủ yếu:
Bảo tồn trong dạng "tĩnh": Tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập các
dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học
nghiêm túc, chặt chẽ, "giữ" chúng trong sách vở, các ghi chép, mơ tả trong
các băng hình (vi-đê-ơ), băng tiếng (audio), ảnh...
Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ trong các
kho lưu trữ, các viện bảo tàng, các viện nghiên cứu ở trung ương và địa
phương. Ðó là "phiên bản" giúp chúng ta sau này căn cứ vào đó có thể
nghiên cứu, phục hồi các hiện tượng đã bị mai một. Thí dụ, những thập kỷ
vừa qua Trung Quốc tiến hành sưu tầm tất cả các hiện tượng ca, múa, nhạc
theo quy trình tỉ mỉ, nghiêm túc, rồi xuất bản thành sách.
Sau này, trải qua hàng trăm năm, nếu có hiện tượng ca, múa, nhạc
của dân tộc nào đó bị mất, thì căn cứ vào sách vở đã ghi chép có thể phục
hồi một cách dễ dàng.
Bảo tồn "động": Là bảo tồn các hiện tượng văn hóa phi vật thể đó
ngay trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng chính là mơi trường khơng chỉ
sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể, mà còn là nơi tốt nhất bảo
tồn, làm giàu và phát huy nó trong đời sống xã hội.


Tuy nhiên, hiện tại có một nghịch lý là nhiều hiện tượng văn hóa,
nhất là văn hóa phi vật thể vốn là của nhân dân sáng tạo ra, nay lại "xa lạ"

với chính họ, thậm chí chỉ tìm thấy trên sách vở của các nhà nghiên cứu. Do
vậy, để bảo tồn chúng trong đời sống, chúng ta phải đưa nó trở lại với nhân
dân, "xã hội hóa" nó. Hãy lấy thí dụ về việc phục hồi các lễ hội truyền thống
hiện nay.
Sau một thời gian dài, các di tích, đền, đình, chùa nay được tu bổ,
các lễ hội được mở lại sau mấy thập kỷ vắng bóng. Do vậy, từ cách bày đặt
cúng lễ trong di tích, đến các nghi lễ, sinh hoạt trong lễ hội đã bị quên lãng.
Từ đó dẫn đến một số hiện tượng sinh hoạt nghi lễ trong lễ hội được phục
hồi một cách méo mó, sai lạc. Nhiều nơi đã phải căn cứ vào việc sưu tầm,
nghiên cứu của các nhà khoa học trước đây để giúp cho việc phục hồi lễ hội
đúng quy cách đã định hình như trước kia.
Hiện tượng phục hồi các loại hình dân ca cổ truyền cũng đang được
thực hiện theo hướng phổ cập trở lại cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Như
cùng với dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản sử thi Tây
Nguyên, đã tiến hành thử nghiệm mở các lớp truyền dạy hát, kể sử thi, để
thế hệ nghệ nhân cao tuổi truyền lại việc diễn xướng sử thi cho thế hệ trẻ.
Như trên đã nói, văn hóa phi vật thể là văn hóa tiềm ẩn trong tâm
thức và trí nhớ của một số người, mà lâu nay chúng ta vẫn tôn vinh họ là
những nghệ nhân hay là những "báu vật sống". Do vậy, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa phi vật thể cịn đồng nghĩa với việc "bảo tồn" các "báu
vật sống" đó.


Ðó chính là việc Nhà nước, cộng đồng thừa nhận những tài năng dân
gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo những điều kiện tốt nhất trong hồn
cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khỏe mạnh, phát huy khả năng của mình
trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
thời kỳ CNH, HÐH ngày nay.




×