Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

đề tài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.69 KB, 29 trang )

B XÂY D NGỘ Ự
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HCM



TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

GVHD: LÊ THỊ THANH BÌNH
SVTH : HUỲNH HỒNG ÂN
MSSV : 09510301928
LỚP : XD09A2
Thành Phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2011
MỤC LỤC
nguồn:
1/
2/ www.tapchicongsan.com.vn
3/
4/
5/
6/
7/
8/

A- MỞ BÀI :
Hiện nay tình hình thế giới đang có những biến đổi sâu sắc, xu thế hội


nhập và hợp tác cùng phát triển đã, đang dần xác lập và sẽ là sự lựa chọn của
thế giới trong thời gian tới. Quá trình cải cách kinh tế là thử thách lớn nhất
đối với tất cả các dân tộc và các chế độ muốn thay đổi mô hình hoạt động
kinh tế của mình. Có nhiều xu hướng khác nhau, song có một chủ đề chung là
chuyển nền kinh tế sang định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo chính trị ở
nhiều nơi trên thế giới đã đi đến kết luận rằng : nhìn chung, thị trường đảm
bảo cho nền kinh tế tăng trưởng một cách vững chắc. Tuy nhiên, cách thức để
đạt được mục tiêu đó cũng rất khác nhau và vì thế mỗi quốc gia sẽ tự phải
tìm cho mình một con đường riêng,thích hợp với mình,dựa trên nền tảng lịch
sử, văn hoá dân tộc
Với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam cũng chọn cho
mình một con đường phát triển kinh tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam đã chọn cho đất nước của mình con đường phát triển nền kinh tế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bắt đầu
là đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là mốc quan trọng đánh dấu
bước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Đến đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định:
chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Đó là con đường phát triển tất yếu phù hợp với những điều kiện khách
quan vốn có. Cũng xác định,việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa sẽ đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, vươn lên một nền
kinh tế hiện đại, ngang tầm với các nước trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

B- NỘI DUNG: NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
I- SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1. quan niêm về kinh tế thị trường:

1.1. Nền kinh tế thị tr ường định hướng x ã hội chủ nghĩa ?
Như chúng ta đã biết Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
tên gọi một hệ thống kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam sáng tạo và chủ
trương triển khai tại Việt Nam từ Thập niên 1990
Cho đến nay, Đảng Ta cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể
và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà chỉ có giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền
xã hội hội nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là
hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử, thêm vào đó, công tác lý luận ở
Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo kịp thực tiễn và đang được
hoàn thiện. Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam khóa 10, Đảng mới ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng
1 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Và, tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ có nghị quyết số
22/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực
hiện nghị quyết 21-NQ/TW.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là trình độ
phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Hay còn nói, kinh tế thị trường là kinh tế
hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu
vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Điều kiện ra đời và
tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát
triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Kinh tế hàng hoá phát triển ở hai trình độ
khác nhau:
Ở giai đoạn thấp, còn gọi là kinh tế hàng hoá giản đơn, dựa trên sở hữu tư
nhân nhỏ về tư liệu sản xuất, kết hợp với sức lao động cá nhân, trình độ lao
động thấp, năng suất lao động không cao.

Giai đoạn cao, kinh tế hàng hoá phát triển với qui mô lớn dựa trên cơ sở
sản xuất lớn bằng máy móc, năng suất lao động cao, bao gồm kinh tế hàng
hoá TBCN và kinh tế hàng hoá XHCN. Kinh tế hàng hoá qui mô lớn vận
động theo yêu cầu các qui luật kinh tế khách quan trên thị trường người ta gọi
là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường về cơ bản chúng có cùng nguồn
gốc và bản chất nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng khác nhau về trình
độ phát triển.
Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã hội, trình độ và qui mô
thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản
xuất và sức mua của xã hội. Theo Mác, “thị trường nghĩa là lĩnh vực trao
đổi”. Lê Nin cho rằng, “khái niệm thị trường hoàn toàn không thể tách rời
khái niệm phân công lao động xã hội … Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã
hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường. Qui mô của thị
trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hoá”.
Sau hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hơn 20 năm
qua, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN.
1.2 Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị tr ường định hướng x ã
hội chủ nghĩa ?
1 – Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế
phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến
nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi
dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển
tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.

Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của
nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc
lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất
công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng
buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo
quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập
đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn
giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất
yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh
hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự
điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện
đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ
nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”…, tức là phải có sự can
thiệp trực tiếp của nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn,
nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự
giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn
mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể
hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn
hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây là tất yếu khách quan, là quy
luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì
dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2 – Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản,
muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức
sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp,
và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô

đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và
đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật
(muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị
trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc
đã không thành công.
Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ
trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách
cộng sản thời chiến”. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện
ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách
kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo
V.I.Lê-nin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu
về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ và phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời
gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi
phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt
đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của V.I.Lê-nin
về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục
thực hiện sau khi Người qua đời. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ
suốt một thời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất
nước bằng mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế
hoạch hóa tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại
và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang
phát triển tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới
lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có cái gì “chưa ổn”, cũng đã đưa ra

những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị
trường”,… nhưng không được chấp nhận.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của
mô hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác
lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn
thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy
chính trị mới”, họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây
chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại
thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90
của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc
phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu
dẫn đến sự sụp đổ.
3 – Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã
hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát
vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa
xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật
không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước
khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả
quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh.
Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ
đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm
đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản,
nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội
không đúng với thực tế Việt Nam.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại
hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh
doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm
lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách
xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi,
thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công
sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một
bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành
phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ
nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ
hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của
Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng
hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn

minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó
cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm
“kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính
thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại
hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm
nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.3 Những ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường
1. Những ưu điểm (đặc trưng) của kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp
muốn đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về
tổ chức quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo ra
sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Ưu điểm:
- Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm
cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành
công hay thất bại để phát triển không ngừng.
- Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người
quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém
hiệu quả.
- Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong
kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
2. Những khuyết tật của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch
vụ được mở rộng và coi như là hàng hoá. Thị trường năng động, luôn luôn đổi
mới mặt hàng, công nghệ.

Song ngoài những ưu điểm nêu trên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số
khuyết tật sau:
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh
toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm,
không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công
cộng” (đường xá, các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít,
nghèo nhiều, bất công xã hội.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có
tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có
sự can thiệp của Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị
trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng
chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn
có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị
trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát
của kinh tế thị trường, đồng thời kính thích đối với sản xuât thông qua trao
đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.
1.4. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa nền kinh tế thị tr ường
TBCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm giống và khác với
kinh tế thị trường TBCN.
Sự giống nhau biểu hiện ở chỗ, xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai
kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ
thống các qui luật : qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui
luật lưu thông tiền tệ … Đồng thời, cả nền kinh tế thi trường ở các nước
TBCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đều là các nền kinh tế
hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết ( quản lí ) của nhà nước.
Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Không

có nền kinh tế thị trường thuần tuý (hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị
trường.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền
kinh tế thị trường TBCN là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của
nhà nước và sự can thiệp này là do bản chất của nhà nước quyết định. Được
thể hiện qua những điểm sau:
+ Về chế độ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt
độngtrên nền tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty
tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Còn cơ chế thị trường trong nền kinh tế định hướng XHCN lại hoạt động
trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu. Trong đó chế độ công
hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước.
Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh tế nhà nước
phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh
vực an ninh quốc phòng … mà các thành phần kinh tế khác không có điều
kiện thực hiện.
+ Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lí, trong nền kinh tế
thị truờng TBCN, sự quản lí của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong
khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhẳm bảo đảm môi trường kinh tế
- xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của
chế độ bóc lột TBCN. Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thì sự can thiệp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền
lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Về cơ chế vạn hành, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền
kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế

nhiều thành phần hướng tới đích XHCN theo phương châm nhà nước điều tiết
vĩ mô.Ngược lại, kinh tế thị trường TBCN hoạt động dưới sự quản lí của
Đảng tư sản cầm quyền.
+ Về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội.
Vấn đề công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường TBCN chỉ được đặt ra
khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra
nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của CNTB. Trong kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không
chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hoá mà còn là mục tiêu của chế
độ xã hội mới.
+ Về phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và
công bằng bình đẳng trong xã hội. Tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường
định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau :
Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ
thể kinh tế có được lợi nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị - xã hội bình
thường cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và
nguyên tắc kinh tế hàng hoá: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng
… trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính.
Ba là, điều tiết phân phối thu nhập : nhà nước cần có chính sách giảm
khoảng cách chênh lệch giữa lớp giàu và lớp nghèo. Mặt khác, có biện pháp
bảo vệ thu nhập chính đáng của toàn xã hội.
Một xu hướng đáng lưu ý là tuy nhà nước TBCN đã có ý thức tự điều
chỉnh, dung hoà lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau để giảm
bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh
tế. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi phối điểu tiết của
các qui luật kinh tế của CNTB, của lợi ích giai cấp nên sự điều tiết của vẫn

còn nhiều bất cập. Sự can thiệp của nhà nước nhằm bảo đảm mục tiêu phát
triển và công bằng chỉ có thể thực hiện được với một nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Đó là nhà nuớc XHCN.Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh
tế thị trường thành công nhất đều không thể phát triển một cách tự phát nếu
thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền kinh tế thị trường nguyên
thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đờn có thể hoạt động một cách
có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh
tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp
của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền
kinh tế thị trường. Trong các nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước
có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc
dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều tiết của Nhà nước vẫn là
một trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Theo đó, thị trường tự do
với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ trong các lý thuyết kinh tế.
1.5.Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Như chúng ta đã khẳng định ở trên nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được hiểu là nền kinh tế thị trường có sự định hướng và điều
tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước có một vai .trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh
tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định
"các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể
hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh
tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước
thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy.
Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu
quả của sự can thiệp đó.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực
như: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố

an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi
trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo
dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh
tranh một cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền…
2. Cơ sở khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1. C ơ sở :
Các Mác đã nêu ra hai điều kiện để hình thành sản xuất hàng hoá – giai
đoạn sơ khai của kinh tế thị trường là có sự sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và sự phân công lao động xã hội. Sau này, cụ thể hoá hơn và thích nghi
trong điều kiện thị trường cạnh tranh quyết liệt, chúng ta đê cập rõ hơn các
điều kiện hoạt động của thị trường là quyền chiếm hữu tài sản khác nhau và
lợi ích của người sản xuất kinh doanh khác nhau, tạo động lực cạnh tranh trên
thị trường. Cơ sở khách quan được thể hiên ở nhũng điểm sau :
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hành
hoá được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phát triển trong từng khu
vực, từng địa phương. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở
tính phong phú, đa dạng về chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra
trao đổi trên thị trường.
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu : sỏ hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ
thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực
được hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế
còn khác nhau về trình độ kĩ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chứcquản lí,
nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản phẩm cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong kinh tế đối ngoại, đặc biệt
trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc.

Vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng
hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải teo nguyên
tắc ngang giá.
2.2. Vai trò, tác dụng của nền kinh tế thị tr ường định hướng XHCN .
Đồng thời, với những điều kiện khách quan vốn có của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn mang lại nhưng tác dụng to lớn đối với sự phát triển
kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế nước ta từ khi bước vào thời kì quá độ lên
CNXH còn mang nặng tính tự túc tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển
sẽ phá dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã
hội hoá sản xuất.Biểu hiên :
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản suất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản
xuất phải cải tiến kĩ thuật để giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu, nhờ đó
có thể cạnh tranh và đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế,
kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối
lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hoá. Đến lượt nó, sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao
động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế, phát huy được tiềm năng, lơi
thế của từng vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản
xuất. Do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao, đồng
thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ
cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng yêu cầu của đất nước.
Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế
thị trường trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng

sản xuất xã hội. Không ai phủ nhận sự khách quan của chúng trong nhiều chế
độ khác nhau. Không còn ai cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của
CNTB.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã khẳng định:
“Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của
nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng
CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là tất yếu kinh tế đối với nước ta.
Một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta
thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là
con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả
tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta
đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác
định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng XHCN. Thực tiễn những
năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, chúng ta đã khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút
được vốn, kĩ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất,
góp phần quyết định vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương
đối cao trong thời gian qua.
II- NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
1. Đặc tính chung thống nhất của kinh tế thị trường.
Thị trường có những đặc trưng chủ yếu sau :
Thứ nhất, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh, nhưng có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế
tham gia thị trường nhằm giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi.
Trong đó, tất yếu sẽ có người được và người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt

cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, giá cả do thị trường quyết định. Giá cả là phạm trù kinh tế
trung tâm, là công cụ quan trọng thông qua cung cầu để kích thích và điều tiết
hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Sự biến động
của cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị trường và ngược lại, giá cả
thị trường cũng điều tiết cung cầu. Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ
và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thứ ba, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị
trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác
động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
Thứ tư, đối với nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ
mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách
kinh tế. Tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một thị
trường hoàn chỉnh – thị trường xã hội thống nhất, là một thị trường đồng bộ
giữa các loại thị trường ( thị trường lực lượng sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn,
kĩ thuật, sức lao động… ) và có luật pháp thương mại chi phối.
Có ba hình thái thị trường : Một là, thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị
trường có nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm đồng nhất, gia nhập
hoặc rời bỏ thị trường rất dễ dàng và doanh nghiệp là người chấp nhận giá;
Hai là, thị trường độc quyền là thị trường chỉ có một người bán, sản phẩm là
độc nhất, gia nhập hay rời bỏ thị trường là khó khăn; Ba là, thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo là thị trường độc quyền hai người hay độc quyền nhóm,
cạnh tranh có tính độc quyền.
Trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước, căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ
quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai với số lượng
là bao nhiêu.
2. Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế thị
trường XHCN nhưng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì,
chúng ta còn đang trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa đầy đủ yếu tố
XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một
mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, do
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của
CNXH, cho nên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
những đăc trưng bản chất dưới đây :

2.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị tr ường:
Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị
trường nước ta với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính
trị, mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định
hướng chi phối sự vân động phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH,
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
Nước ta thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy
sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền
với xoá đói giảm nghèo.
2.2. Nền kinh tế thị tr ường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai tr ò chủ đạo .
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính
nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định
hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền
kinh tế thị trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều

có một cơ sở kinh tế tương ứng của nó. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – XHCN ở nước ta.
Mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế
- xã hội riêng, chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự
thống nhất còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị
trường nước ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau. Chúng ta
xác định, ngoài việc củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế
độ công hữu, chúng ta còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên
chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn. Các
đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật,
vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau để phát triển. Tuy nhiên, vì dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo
lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi
ích chung của xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát
triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò của mình.
2.3. Trong nền kinh tế thị tr ường định hướng x ã hội chủ nghĩa, thực hiện
nhiều hình thúc phân phối theo thu nhập, trông đó lấy phân phối theo
lao động là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân
phối do quan hệ sản suất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kì quá
độ lên CNXH, có nhiều cế độ sở hữu cùng tồn tại. Mỗi chế độ sở hữu có
nguyên tắc phân phối tương ứngvới nó, vì thế trong thời kì quá độ tồn tại cơ
cấu đa dạng về hình thức phân phối theo thu nhập
Trong cơ chế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo
thu nhập sau : phân phối theo lao động, theo nguồn vốn, theo giá trị sức lao
động, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa
kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN là ở chỗ
xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Đây là đặc
trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thực

hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được
xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên CNXH.
Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây
dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải
thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội
2.4. C ơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước XHCN.
Cơ chế thị trường có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có không ít những
mặt khuyết tật. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của
các nước trên thế giới đều có sự quản lí của nhà nước để nhằm hạn chế những
mặt khuyết tật đó. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều
là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong
cơ chế vận hành nền kinh tế của ta là ở chỗ Nhà nước quản lí nền kinh tế
không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước XHCN. Sự quản lí của Nhà
nước XHCN nhằm đưa nền kinh tế đi theo đúng hướng XHCN, vì vậy phải
tăng cường vai trò quản lí của nhà nước thông qua các công cụ quản lí vĩ mô.
Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên
tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Đây là hai phương tiện khác nhau để điều
tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lí đối
với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh
tế. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn
vĩ mô. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển
kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực
hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn
cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được
hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.
2.5. Nền kinh tế thị tr ường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở,

hội nhập.
Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng khép kín
trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta
trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, Vì vậy, mở
cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta
nhằm thu hút vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến của các
nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội
lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại
theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng
đa phương hoá các hình thúc đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị
trường trong nước và thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo
vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong thời gian tới, vẫn tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại. Phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng
ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm
nhập thị trường thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc,
tranh thủ cơ hội để mở ra thị trường mới, cải thiện môi trường đầu tư và bằng
nhiều hình thức thu hút vồn đầu tư của nước ngoài.
III - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam.
1.1. Trình độ phát triển kinh tế thị trường nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kém phát
triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường. Đây thể hiện thực trạng nền kinh tế yếu kém
của nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường. Điều đó được biểu hiện :
Cơ sở vật chất, kĩ thuật còn ở trình độ thấp bên cạnh một số lĩnh vực, một

số cơ sở kinh tế đã được trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại thì vẫn còn
nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, lao động thủ công vẫn
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và thế giới.
Kết cấu hạ tầng đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc…
vẫn còn lạc hậu, chưa phát triển dẫn đến sự giao lưu giữa các vùng , các dịa
phương bị chia cắt, tách biệt nhau nên không thể khai thác hết được tiềm
năng, thế mạnh của các vùng, các địa phương.
Do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động
kém phát triển, chuyển dịch cơ cấu chậm. Nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn
lực lượng lao động, khoảng 70%, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các
ngành công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu ở thị trường trong
nước cũng như thị trường nước ngoài. Do cơ sở vật chất, kĩ thuật và công
nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Do đó, khối lượng hàng hoá nhỏ bé,
chủng loại hàng hoá chưa nhiều, chất lượng hàng hoá chưa cao, giá cả cao, vì
thế khả năng cạnh tranh yếu.
1.2. Thị tr ường dân tộc thống nhất đang trong quá tr ình hình thành ch ưa
đồng bộ .
Giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng
trong nước vào một mạng lưới lưu thông thống nhất.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực : hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu…
Thị trường hàng hoá sức lao động mới hình thành. Nét nổi bật của thị
trường này là sức cung về lao động có tay nghề nhỏ hơn sức cầu, trong khi đó
cung về lao động giản đơn lại vượt quá cầu, nhiều người có sức lao động
không tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều
trắc trở, thủ tục rườm rà, nhiều vướng mắc. Thị trường chứng khoán ra đời
nhưng có ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia.

1.3. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị tr ường .
Do vậy, chính vì điều đó, nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất
hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàn hoá nhỏ phân tán
còn phổ biến.
1.4. Sự hình thành thị tr ường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối
ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh tr ình độ
phát triển khoa học kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước
khác.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước nói
chung cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng
đó là xu thế tất yếu khách quan. Vì vậy, chúng ta cần chủ động hội nhập,
chuẩn bị tốt để tham gia vào khu vực hoá, toàn cầu hoá, thực hiện đa phương
hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực,
nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân định
hướng đi lên CNXH.
1.5. Quản lí nhà n ước về kinh tế -x ã hội còn yếu .
Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực
hiện chưa nghiêm.
2. Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ ( sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể ) bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trên cơ sở
này, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế.
Trong những năm tới, cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần

hoá và đa dạng hoá sơ hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không
cần nắm 100% vốn. Đẩy mạnh việc đổi mới khoa học kĩ thuật và công nghệ.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó kinh tế hợp
tác làm lòng cốt. Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển cả ở thành
thị và nông thôn. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những
ngành nghề sản xuất mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà
nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và
ngoài nước.
2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đai hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ
khoa học kĩ thuật, trên c ơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động x ã hội.
Sự phát triển của phân công lao động xã hội do sự phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội
cần đẩy mạnh cônh nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại. Cùng với việc trang bị kĩ thuật và
công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tiến hành phân công lao động và phân
bổ dân cư trong cả nước, hình thành cơ cấu hợp lí cho phép khai thác tốt nhất
các nguồn lực đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của
toàn bộ nền kinh tế.
2.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy và chính sách về hình
thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường được khởi nguồn từ Đại hội
lần thứ VI của Đảng với tư tưởng giải phóng sức sản xuất hàng hoá và lưu
thông hàng hoá bằng việc thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tư duy này tiếp tục được làm
rõ ở Đại hội Đảng lần VII, VIII. Đến đại hội lần IX của Đảng vạch rõ ràng và
dứt khoát hơn chủ trương xây dựng đồng bộ các loại thị trường theo định
hướng XHCN.
Sự cần thiết phải hình thành đồng bộ các loại thị trường được biểu hiện:

Thực tiễn ở các nước chuyển đổi và ở nước ta thời gian qua cho thấy dù muốn
hay không, một khi đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, có nghĩa là đã chấp nhận sự hiện hữu của thị trường với đầy
đủ các loại thị trường. Chúng ta cần xây dựng đầy đủ các loại thị trường để
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị
trường mà được phân bổ vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinht tế một
cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, chúng ta phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trường.
Phát triển thị trường hàng hoá - dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản
xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành thị trường sức lao động
có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát
triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng, phát triển thị
trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị
trường đi đôi với khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám
sát của nhà nước, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, có biện pháp
hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Phương pháp tiếp cận để xây dựng đồng bộ các loại thị trường :
Việc xây dựng đồng bộ không có nghĩa là phải cùng một lúc xây dựng
đầy đủ các loại thị trường mà được tiến hành từng bước, có thử nghiệm, rút
kinh nghiệm và làm tiếp. Cần hiểu quá trình phát triển đồng bộ các loại thị
trường là một quá trình liên tục, kiên định và cần có thời gian, không thể nóng
vội cũng không được ngập ngừng, do dự, gây ra chậm trễ va tổn thất mọi mặt.
2.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới để thu hút vốn, kĩ
thuật và công nghệ hiện đại, khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước.

Nhưng cần quán triệt nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào
nội bộ của nhau, mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình
thức kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại,
giảm nhập siêu, ưu tiên nhập tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất.
2.5. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp.
Sự ổn định về chính trị là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở
nước ta hiện nay cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Đồng thời, sự đồng bộ về hệ thông pháp luật là công cụ để nhà
nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo hành lang pháp lý
cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà
nước.
2.6. Xoá bỏ c ơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản
l ý kinh tế của nhà n ước.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng
hoá ở nước ta. Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, cần
nâng cao năng lực của các cơ quan luật pháp, hành pháp và tư pháp, có hệ
thông chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thận lợi cho hoạt
động kinh tế, hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ
không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính
sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền lương và giá cả.
Hiện nay, mặc dù nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta còn ở
trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất, kĩ thuật còn lạc hậu, thấp kém,
nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp
lại nguyên vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước : Kinh tế hàng hoá
giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do
chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng nền
kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩâ theo kiểu rút ngắn.

Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá để phát
triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, xây dựng tương đối được cơ sở vật chất
kĩ thuật, nắm bắt kịp thời với tốc độ phát triển chung của thế giới. Nhà nước
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện
định hướng XHCN.
3. Mục tiêu phát triển từ nay đến 2020.
Qua hơn một thập kỉ trăn trở, tìm tòi, vừa thử nghiệm trong nước vừa
quan sát thế giới, từng bước chuẩn xác hoá quan niệm trong tư duy, hoạt động
trong thực tiễn, cách diễn đạt bằng ngôn từ cho đến Đại hội IX năm 2001,
chúng ta đã xác định rằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ đi lên CNXH.
Phát riển nền kinh tế thị trường ấy là đường lối chiến lược lâu dài của Đảng
và Nhà nước ta.
Bước vào thế kỉ mới, tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều
thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với những khó khăn thách thức lớn. Thế và lực
nước ta mạnh hơn nhiều so với trước. Chính trị xã xã hội ổn định, quan hệ sản
xuất được đổi mới phù hợp hơn. Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình
thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phù
hợp và đang phát huy trong việc phát triển kinh tế và đời sông xã hội. Tuy
nhiên, trình độ phát triển nước ta còn thấp, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh còn kém, qui mô sản xuất nhỏ bé, mức thu nhập và tiêu dùng dân cư
thấp. Vấn đề đặt ra là phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc đặc
biệt là trí tuệ người Việt Nam.
Cũng vì những thuận lợi và khó khăn đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra
mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2020 :
Mục tiêu tổng quát từ 2001 – 2020 : Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường,

thể chế kinh tế thị trường XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước
ta trên trường quốc tế được nâng cao.
IV - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ SAU NHỮNG NĂM THỰC HIỆN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM
1.Thành tựu
Kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển theo con đường đổi mới
Nhìn lại quãng đường đã qua từ khi đất nước ta hoàn toàn giải phóng
30/4/1975 Việt Nam đã có những bước tiến dài trên con đường đổi mới đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp sang nền kinh tế phát triển toàn diện với cơ cấu nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông nghiệp không ngừng giảm trong khi tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ không ngừng tăng. Tỷ trọng trong GDP của
ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 đến năm 2008 ước còn
20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%;
đến năm 2008 tăng đến 41,6%. Riêng tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến
động nhiều.
Thứ hai, chuyển đổi từ một nền kinh tế với hai bộ phận chủ yếu (kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể) sang nền kinh tế nhiều thành phần, coi tất cả
các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã đóng
được vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đã được sắp xếp lại, cổ
phần hóa, đầu tư khoa học - công nghệ và đổi mới công nghệ sản xuất, nâng
cao chất lượng mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh và phục vụ tốt đời
sống nhân dân. Kinh tế hợp tác đã được đổi mới và tổ chức lại. Khu vực kinh
tế tư nhân đã dần dần có vị trí tương xứng trong nền kinh tế, được coi là thành
phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất, là một động
lực chủ yếu của tăng trưởng.
Thứ ba, tăng cường kinh tế đối ngoại, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc

tế. Tính từ năm 1988 đến nay, nước ta đã thu hút được gần 180 tỷ USD vốn
FDI và riêng trong 3 năm gần đây là 114 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD trong năm 1990 lên 56,6 tỷ USD năm 2009 và dự
kiến đạt 60 tỷ USD năm 2010. Thành tựu có tính chiến lược quan trọng và
thể hiện sự phát triển cao và đổi mới đúng hướng của nền kinh tế nước nhà là
Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
vào ngày 7/11/2006.
Thứ tư, hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế và trình độ quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp được nâng cao. Nền kinh tế thị trường được xây
dựng, điều hành và vận động ngày càng theo đúng quy luật của nó. Nhà nước
từng bước tập trung vào các chức năng định hướng, ban hành và thực thi một
hệ thống chính sách phù hợp với cơ chế thị trường. Bộ máy quản lý nhà nước
được chấn chỉnh. Cải cách hành chính bước đầu có kết quả. Đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế được sắp xếp lại và được nâng cao
trình độ mọi mặt.
Cụ thể về 3 măt quan trọng là tăng trưởng mức sống và đối ngoại có
những thành tựu to lớn
+ Tăng trưởng GDP
Kiên trì đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong
suốt thời gian dài.
Năm 2009, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế
tăng trưởng âm, thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng dương 5,32%.
Trong vòng 25 năm qua, GDP của Việt Nam từ mức dưới 20 tỉ USD đã
lên đến khoảng 85 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu từ 1 hoặc 2 tỉ USD đã lên
đến 64 tỉ USD, đầu tư nước ngoài từ chỗ không có gì lên đến con số khó
tưởng tượng là 98 tỉ USD, trong đó thực hiện trên 40 tỉ USD.
Trên con đường hội nhập, Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực
của Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA), Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và Diễn đàn kinh tế Á-Âu ASEM

35 năm sau ngày thống nhất, từ một nền kinh tế lạc hậu, thiếu thốn, Việt
Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất khu
vực.
+ Chất lượng cuộc sống
Tất cả các thành tựu cuối cùng cũng là để phục vụ nhân dân. Phát triển
kinh tế, đối ngoại rộng mở cũng chỉ nhằm tới mục tiêu cuối cùng là nhằm
đảm bảo ấm no, hạnh phúc cho người dân. Đây là quan điểm xuyên suốt của
Đảng, Nhà nước trong suốt quá trình phát triển thời gian qua.
Về lương thực từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1990, Việt Nam đã
đáp ứng đủ nhu cầu lương thực thực phẩm trong nước, có dự trữ và xuất khẩu,
và đến nay luôn đứng trong tốp đầu danh sách quốc gia xuất khẩu gạo
Năm 1990, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới
với thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức dưới 100USD. Đến nay, GDP
bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 1.200USD, vượt qua ngưỡng
nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Kinh tế thị trường, dù theo định hướng XHCN vẫn không tránh khỏi
những “tác dụng phụ” có nguy cơ dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo,
gia tăng khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Vì thế, phát triển
kinh tế gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội luôn song hành trong các chính
sách lớn của Việt Nam. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình
xóa nghèo nhanh và bền vững của Việt Nam đã và đang tạo ra những bước
chuyển biến tích cực trong đời sống của người dân và được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao.

×