A. Mở đầu
Tăng trởng kinh tế nhanh va bền vững, ổn định và cải thiện nền đời sống nhân
dân . Đó là những mục tiêu trong những mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm
2001_2005 đã đợc Đảng cộng sản thông qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9. Mục
tiêu tổng quát trên đã đợc cụ thể hóa thành định hớng phát triển và thành các nhiệm vụ chủ
yếu, trong đó có một nhiệm vụ không kém phần quan trọng đó là Tiếp tục đổi mới và lạnh
mạnh hóa hệ thống tài chính, tiền tệ tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia thực
hành triệt để tiết kiệm , tăng tỷ lệ chi Ngân sách dành cho đầu t phát triển, duy trì ổn
định các cân đối vĩ mô, phát triển thị trờng vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Trong năm 2003 qua ghi dấu ấn vàng, nền kinh tế tiếp tuc tăng trởng với tốc độ cao
đứng đầu khu vực, tạo đà phát triển nhanh chóng và bền vững. trong sự phát triển vợt bậc ấy
luôn có một phần dóng góp lớn của tài chính quốc gia. Bởi thực tế trong tất cả các nền kinh
tế trên thế giới cũng nh nền kinh tế ở Việt Nam là bất kì chiến lợc phát triển hệ thống tài
chính.
Do tính quan trọng của tài chính trong nền kinh tế là điều không thể phủ nhận. Trong
nền kinh tế phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng phát triển, ngời làm kinh tế nếu có một
cái nhìntổng quan về xu hớng phát triển chung của toàn nền kinh tế nhất thiết đòi hỏi phải
có nhiững hiểu biết chung về tài chính. Là một sinh viên chuyên nghành Ngân hàng_tài
chính, em muốn có những hiểu biết thêm về nghành học, vì vậy em đã chọn đề tài : Tài
chính trong nền kinh tế thị tr ờng định h ớng XHCN ở Việt Nam không với tham vọng
có thể nói đợc tất cả các vấn đề trong hệ thông tài chính ở Việt Nam mà chỉ muốn sơ qua
nhng lý luận chungvề tài chính, công cụ tài chính và thực trạng về tình hình tài chính ở Việt
Nam hiện nay.
Trong quá trinh làm đè tài em đã nhận đợc sự hớng dẫn và giúp đỡ rất nhiệt tình của
GS.TS Phạm Quang Phan, nhng do trình đọ lý luận cũng nh hiểu biết về chuyên môn còn
rất hạn chế, vì vậy mà bài làm không tránh khỏi sự thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ nhiệt tình của thày và mong thày góp ý cho những thiếu sót trong bài.
Xin chân thành cảm ơn.
1
B. Nội dung
I. Bản chất và chức năng của quan hệ tài chính
1. Bản chất của tài chính
Việc xác định đúng bản chất của tài chính có ý nghĩa khá quan trọng, tạo cơ sỏ
cho việc phân biệt phạm trù này với phạm trù khác. Nắm vững đợc bản chất tài chính giúp
ta có những hiểu biết sâu sắc hơn từ đó có thể sử dụng tốt hơn phạm trù tài chính trong phát
triển kinh tế và xã hội.
Trên bề mặt của hiện trờng xã hội tài chính đợc cảm nhận nh những nguồn lực tài
chính, những quỹ tiền tệ khác nhau đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể
trong xã hội. Hơn thế nữa nói tới tài chính, ngòi ta không chỉ thấy tiền tệ ở trạng thái tĩnh,
mà thấy những lợng tiền tệ nhất định đang vận động tạo nên sức mua. Có thể thấy rõ điều
này nếu nh chúng ta nghiên cứu quá trình sản xuất xã hội. Nh chúng ta biết sản xuất xã hội
là quá trình tát sản xuất không ngừng qua các khâu: sản xuất phân phối-trao đổi-tiêu
dùng. Suy cho cùng mục đích của sản xuất là phục vụ tiêu dùng và tiêu dùng chính là chính
là nguyên nhân để sinh ra sản xuất. Để thõa mãn nhu cầu hết sức phong phú và đa dạng thì
sản phẩm sản xuất ra phảI tất yếu thông qua phân phối và trao đổi hay nói cách khác phân
phối và trao đổi là khâu nối liền sản xuất và tiêu dùng, do sản xuất quyết định nhng đồng
thời nó cũng tác động mạnh mẽ tới sản xuất và tiêu dùng.
ở trong mỗi một giai đoạn lịch sử phát triển của chế độ loài ngời thì những quan
hệ phân phối và trao đổi đợc thực hiện theo những cách xác định cụ thể của sản phẩm lao
động. Nếu nh trong Kinh tế tự nhiên ngời ta phân phối trao đổi trực tiếp bằng sản phẩm thì
trong điều kiện của kinh tế hàng hóa tất cả những quan hệ phân phối trao đổi dợc thực hiện
dới hình thức giá trị hay nói cách khác phân phối trao đổi thông qua tiền tệ.
Quá trình phân phối dới hình thức giá trị đợc thực hiện nh sau: Ngời sản xuất sau
khi tiêu thụ đợc sản phẩm của mình nhận đợc khoản tiền gọi là doanh thu tiêu thụ tức là giá
trị của hàng hóa đợc thực hiện. Để quá trình tái sản xuất tiếp diễn, ngời sản xuất phải sử
dụng doanh thu đó phân phối cho những nhu cầu cần thiết bù đắp chi phí khấu hao máy
móc thiết bị mua nguyên liệu, trả lơng cho ngời lao động trả lợi tức cổ phần, nộp thuế cho
Nhà nớc Phần còn lại là lợi nhuận của ng ời sản xuất để tiếp tục mở rộng sản xuất. Kết quả
của quá trình phân phối này là những ngời chủ mới (các doanh nghiệp, các chủ hộ gia đình,
Nhà nớc) có trong tay khoản tiền, song đến đấy không có nghĩa là kết thúc quá trình phân
phối mà đến lợt mình những đồng tiền trong tay doanh nghiệp, các hộ gia đình và Nhà nớc
tiếp tục đợc phân phối cho tất cả các nhu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Các quan hệ phân
phối đợc thực hiện dới hình thức quan hệ tiền tệ là quan hệ tài chính. Nh vậy quan hệ tài
chính là nhng quan hệ kinh tế rất phức tạp đan xen nhau, chằng chịt nhng không hỗn loạn.
Tất cả các quan hệ tài chính trên theo nguyên tắc nhất định vận động theo các hớng nhất
định có phát sinh phát triển và thay đổi chuyển hóa cho nhau.
2
Với sự phân tích nh trên, có thể xác định bản chất của tài chính trên những khía
cạnh: sự vận động độc lập tơng đối của nguồn tài chính để trực tiếp (hay không qua thị tr-
ờng) tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nh mặt trực quan của tài chính. Đằng sau những
hiện tợng bề mặt đó là các quan hệ kinh tế trong phân phối của các xã hội dới hình thức
phân phối các nguồn tài chính. Việc tạo và sử dụng các quỹ tiền tệ là phơng thức phân phối
đặc thù giúp phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù phân phối khác nhau nh giả cả tiền
lơng Từ đó xác định nội dung kinh tế của phạm trù tài chính nh sau: Tài chính là hệ thống
các quan điểm kinh tế nhất định biểu hiện dới hình thức tiền tệ, phát sinh trong quá trình
phân phối để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm phát triển sản xuất và nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Trong đời sống thực tế thật khó phân biệt tài chính và tiền tệ. Trong trừu tợng hóa
khoa học tài chính gắn với tiền tệ, song chúng vẫn là những phạm trù khác nhau, cần phân
biệt. Tiền tệ về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hóa với những chức
năng thớc đo giá trị, phơng tiện lu thông, phơng tiên thanh toán, phơng tiện cất giữ. Tài
chính không phải là tiền tệ, với bản chất và chức năng nh vậy, mà là phơng thức vận động
độc lập tơng đối của tiền tệ, mà đặc tính riêng cuả nó trong lĩnh vực phân phối là tạo lập và
sử duụng các quỹ tiền tệ khác nhau trong các mục đích tích lũy và tiêu dùng khác nhau.
Ngoài ra tài chính không phải là toàn bộ các quan hệ kinh tế nói chung mà chỉ bao gồm các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối hay quan hệ phân phối. Nhng tài chính
cũng không gồm toàn bộ các quan hệ phân phối mà chỉ gồm các quan hệ phân phối trong
việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Mặt khác bản chất của tài chính còn thể hiện rõ hơn qua các chức năng của nó.
2. Chức năng
Nói tới chức năng của tài chính là nói đén khả năng khách quan phát huy tác dung
xã hội của nó. Trong đời sống xã hội tài chính có 2 chức năng phân phối và giám đốc.
2.1 Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là các vốn có sẵn nằm trong phạm trù tài chính và biểu hiện
bản chất của tài chính trong đời sống kinh tế xã hội khi phân phối của cải vật chất dới hình
thức giá trị. Chính nhờ vào chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho các bộ phận của
cải xã hội đợc đa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo nhng nhu cầu khác
nhau, những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
Đối tợng phân phối ở đây là của cải xã hội dới hinh thức giá trị là những nguồn lực
tài chính, là tiền tệ đang vận động một cách độc lập với t cách phơng tiện thanh toán và ph-
ơng tiện cất trữ, trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Chủ thể phân phối có thể
khác nhau: Nhà nớc( các cơ quan và tổ chức của nó), doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, hộ
gia đình hay cá nhân dân c. Việc phân phối các nguồn tài chính bị chi phối bởi quyền sở
hữu hoặc quyên sử dụng của các chủ thể đối với các nguồn tài chính trong lĩnh vực chính trị
3
của Nhà nớc , quan hệ xã hội trong các tổ chức xã hội trong cộng đồng dân tộc và quốc tế.
Đối tợng phân phối của tài chính là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội. Hơn nữa
các nguồn tài chính có trong nớc không chỉ bao hàm các nguồn tài chính dới hình thức tiền
dân tộc, tiền giấy mà còn bao hàm cả lĩnh vực tiền tệ lịch sử của nó, là vàng dới chức năng
phơng tiện cất trữ hay tiền tệ thế giới. Trong điều kiện nên kinh tế mở và quốc tế hóa đời
sống kinh tế, các nguôn tài chính hiện có trong nớc bao gồm cả các nguồn tài chính khác
vào hình thức nhoại tệ do quan hệ kinh tế_tài chính đối ngoại đợc sử dụng ở trong nớc.
Phân phối của tài chính nh đã biết mang đặc điểm chủ yếu là luôn gắn liền với sự
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định cùng với đặc điểm đó, phân phối của tài
chính con mang những đặc điểm sau:
- Thứ nhất phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dới hình thức giá
trị, không đi kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Nói khác đi phân phối của tài chính là sự
phân phối dới hình thức giá trị, không đi kèm sự vận động ngợc chiều của hai hình thái giá
trị nh trong mua bán hàng hóa. Thông qua chức năng phân phối của tài chính các quỹ tiền tệ
nhất định đợc hình thành hoặc đợc sử dụng, nhng chính trong các quá trình đó, bản chất của
tài chính phân phối dới hình thức giá trị vẫn không thay đổi. Các quỹ tiền tệ đợc hình thành,
đựơc khuếch trơng, đợc sử dụng đợc thu nhỏ vì những mục đích nhất định. Trong mối quan
hệ kế tiếp giữa lĩnh vực phân phối va trao đổi hay phân phối và tiêu dùng trong quá trình tái
sản xuất xã hội, sự phân phối của tài chính diễn ra ở chính ngay điểm tiếp giáp của các lĩnh
vực đó. đó là khi việc thanh toán tiền mua, bán hàng hóa hay dịch vụ đợc thực hiện và việc
đó biểu lộ việc sử dụng hay hình thành các quỹ tiền tệ khác nhau
- Thứ hai phân phối của tài chính bao ham cả các quá trình phân phối lần đàu
(giữa những ngời tạo ra sản phẩm xã hội , thu nhập quốc dân) và quá trình phân phối lại,
trong đó bao trùm rộng lớn tính đặc trng là phân phối lại.
Phân phối lần đầu:
Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là sự phân phối đợc tiến hành trong lĩnh vực sản
xuất trong nhữnh chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất giữa các doanh
nghiệp với ngời lao động va Nhà nớc, khoản trả lợi tức cổ phần, phần còn lại là lợi nhuận
của các doanh nghiệp dùng để mở rông sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp.
Nh vậy qua phân phối lần đầu sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dới hình thức
giá trị mới chỉ hình thành nên những phần thu nhập cơ bản. Dừng lại ở đó cha thể đáp ứng
đợcnhhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội. Do đó nảy sinh nhu câu khách quan của xã hội đối
với tái phân phối (phân phối lại) .
Phân phối lại:
4
Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản sử dụng quỹ tiền tệ
chứa đựng những nguồn lực tài chính đã đợc hình thành trong phân phối lần đàu ra phạm vi
xã hội rộng hơn hoặc theo những chi tiết cụ thể hơn trong mục đích của các quỹ tiền tệ. Sự
chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội trong khu vực sản xuất vật chất và sự tôn tại
phts triển của khu vực không sản xuất vật chất đã ràng buộc quy mô rộng lớn của quá trình
phân phối lại của cải xã hội dới hình thức giá trị. Bản thân quá trình sử dụng các quỹ tiền tệ
đã đặc trng hoàn toàn là quá trình phân phối lại, bên cạnh đó sự hình thành hàng loạt các
quỹ tiền tệ mới cũng mang nhiều đặc trng đó. Vì thế tính chất phân phối lại là tính chất chủ
yếu bao trùm của chức năng phân phối của tài chính. Để hình dung rõ hơn đối tợng cà kết
quả của việc thực hiện chức năng phân phối của tài chính, cần xem xét quá trình phân phối
qua các lĩnh vực hoạt động của hệ thống tài chính.
2.2 Chức năng giám đốc
Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc
bằng đồng tiền với việc thực hiên chức năng thứơc đo giá trị và phơng tiện thanh toán của
tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ trong quá trình thực hiên chức năng phân phối, sự
kiểm tra có thể dới dạng: xem xét tính cần thiết quy mô của viếc phân phối các nguồn lực
tài chính, hiêu quả của việc phân phối qua quỹ tiền tệ (tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ).
Chủ thể của giám đốc, kiểm tra cũng là các chủ thể phân phối. Đối tợng kiểm tra
ở đay là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quá trình vận động của các
nguồn tài chính. Đó là đối tợng của chức năng phân phối. Kết quả của kiểm tra là phát hiện
và giúp cho việc hiệu chỉnh các quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân
phối của cải xã hội dới hình thức giá trị theo việc sử dụng các quỹ tiền tệ.
Vì các nguồn tài chính là của cải xã hội dới hình thức giá trị nên kiểm tra, giám
đốc tài chính là kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền. Chức năng giám đốc của tài chính là
chức năng mà nhờ vào đó có thể kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo
lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo những mục đích đã định. Phân phối và giám đốc
là các chức năng cơ bản của tài chính, là biểu hiện hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Ngay
trong quá trình phân phối bằng việc sử dụng tài chính_ quá trình vận động của nguồn tài
chính để tạo lập, để sử dụng các quỹ tiền tệ các quỹ tiền tệ đã luôn có sự cần thiết và khả
năng kiểm tra sát sao các quá trình đó. Chức năng phân phối và giám đốc thông qua các chủ
thể vận dụng để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính nh công cụ cực kì quan trọng
phục vụ tốt cho mục đích đề ra trong từng thời kì.
3. Vai trò của tài chính trong từng thời kì kinh tế.
Vai trò của kinh tế đợc phát huy nhiều hay phụ thuộc vào trình độ khai thác quản
lý và sử dụng các chức năng của tài chính, phụ thuộc vào thể chế kinh tế và nền kinh tế,
trong thời kì quá đọ lên chủ nghĩa xã hội, tài chính có những vai trò (tác dụng) sau đây:
Điều tiết kinh tế
5
Nhà nớc thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng : phân phối và
giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, Nhà nớc nắm đợc thực tế hoạt động
của nền kinh tế tử đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách
phân phối, Nhà nớc điều tiết kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nớc có thể sử dụng biện
pháp đầu t thêm vốn , bổ xung vốn đẩy mạnh những nghành phát triển kém và các lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nớc cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn đầu t và
hỗ trợ để hạn chế phát triển những nghành và những khâu cha cần thiết Đồng thời Nhà n -
ớc cũng có thể thông qua việc nâng cao và hạ thấp thuế suất để diều tiết hoạt động đầu t
kinh doanh giữa các nghành. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển, cân đối theo các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô.
Xác định và tăng c ờng các quan hệ kinh tế xã hội
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội các doanh nghiệp thuộc một thành phần
kinh tế đều đợc tự chủ về vốn kinh doanh thông qua vốn tự có, các loại vốn tín dụng và một
phần do chiếm dụng vốn lần nhau, dẫn đến tình trạng nợ nần đay da làm rối loạn tài chính.
Để làm lành mạnh hóa quan hệ tài chính một mà Nhà nớc cần có những biện pháp điều
chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách thuộc các doanh nghiệp thanh toán nợ
nần trong thời gian ngắn. Mặt khác Nhà nớc còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra
đời các thị trờng chứng khoán và hớng dần chúng phát triển đúng hớng.
Tích tụ và tập trung cung ứng vốn cho các nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại
hóa
Trong nền kinh tế quốc dân luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai
chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nớc ra nớc ngoài và ngợc lại,
từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vục sản xuất và t nớc ngoài về tronh nớc. Nếu Nhà nớc có
chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói
trên trong các quá trình nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu t phát
triển, giẩm bớt các chi phi không cần thiết và thu hút nhiều vốn đầu t nớc ngoài. Đây là
nhiệm vụ cực kì quan trọng nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
xây dựng co sử vật chất, kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Tăng c ờng tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh
Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu_chi tài chính và phân phối thu nhập, theo
nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý vhính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữ Nhà n -
ớc, doanh nghiệp và ngời lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh, thông qua giám đốc tài chính mà duy trì kỉ luật tài chính, góp phần đảy lùi
những lãng phí tham ô.
Hình thành quan hệ tích lũy tiêu dùng hợp lý
6
Trong nền kinh tế thị trờng nhiêu thành phần kinh tế, việc phân phối thi nhập đợc
thực hiện theo nhiều nguyên tắc khác nhau trong đó có nguyên tắc phân phối theo vốn hay
theo tài sản, có khả năng dẫn đến sự phân phối không công bằng, không hợp lý, chính vì
vậy Nhà nớc cần thờng xuyên thực hiện phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bớc
cho phù hợp với định hớng XHCN. Nhà nớc có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập
ngời có thu nhập cao hỗ trợ ngời thu nhập thấp hoặc có thể thành lập các quỹ xóa đói giảm
nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho ngời nghèo, nâng lơng cho ngời lao động và các nghành
co thu nhập thấp.
Củng cố liên minh công nông, tăng cờng vai trò của Nhà nớc và an ninh quốc
phòng
Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền tài chính lành mạnh theo hớng
tăng trởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc cho
việc củng cố liên minh công nông_tri thức nền tảng cho việc tăng cờng vai trò của Nhà nớc
và an ninh quốc phòng.
4. Các công cụ tài chính
Đại đa số đều rất coi trọng công cụ tài chính và sử dụng công cụ tài chính để điều
tiết Nhà nớc ở tầm vĩ môđối với nền kinh tế thị trờng. Trớc hết từ cách đặt vấn đề vị trí của
Bộ tài chính là quan trọng vào bậc nhất trong các Bộ điều hành nền kinh tế và đời sống xã
hội. Điều đó thể hiện khi thành lập nội các mới, vị Tổng thống hay Thủ tớng của đất nớc
đều chọn ngời làm Bộ trởng tài chính là việc tối cần thiết và nếu không nói là cấcp bách
nhất. Bởi lẽ hâu hết các biện pháp đợc củng cố hay ủng hộ về mặt tài chính thì mới có cơ
may thành công, đặt mục tiêu trứơc. Trong số các công cụ tài chính để Nhà nớc điều tiết ở
tầm vĩ mô, đới với nền kinh tế đáng quan tâm đầu tiên đó là Ngân sách Nhà nớc
4.1 Ngân sách Nhà n ớc
Sự phát triển của nền kinh tế đa thành phần với quan hệ hàng hóa tiền tệ, quan hệ
thị trờng và cơ chế tự chủ là chính tự chịu trách nhiệm ngày càng đợc củng cố, việc hoàn
thiện và đổi mới cơ cấu quản lý kinh tế tài chính nói chung và Ngân sách Nhà nớc nói riêng
là việc cần thiết và cấp bách. Một trong những nguyên nhân đó là phải xác định vai trò của
Nhà nớc trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội (thông qua công cụ Ngân sách Nhà
nớc ) cho phù hợp với cơ chế mới. Trong cơ chế này sẽ không tồn tại hình thức quản lý bằng
mệnh lệnh thông qua bộ máy điều hành thông suốt từ TW tới tận cơ sở. Thay vào đó Nhà n-
ớc sẽ ban hành hệ thống pháp luật thống nhất và sử dụng triệt để các công cụ khác để thực
hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội trong đó công cụ tài chính đặc biệt là công cụ Ngân
sách có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên muốn sử dụng tốt công cụ này cần thiết phải
có nhận thức mới các vấn đề có liên quan đến ngân sách khái niệm về Ngân sách và yêu cầu
phải đổi mới Ngân sách trong cơ chế thị trờng. Có sự điều tiết của Nhà nớc.
4.1.1Khái niệm về Ngân sách Nhà nớc và các đặc trng
7
Xung quanh khái niện Ngân sách có rất nhiều quan điểm và ý kiến nhng phần lớn
các quan điểm và ý kiến đều xuay quanh các nội dung là đều cho răng Ngân sách là bảng
liệt kê các khoản chi tiêu và thu nhập của một cơ quan, bộ, Nhà nớc trong một thời gian
nhất định. Từ những ý kiến này ta có thẻ rút ra một số nét đặc trng của Ngân sách nh Ngân
sách là bảng liệt kê, trong đó dự kiến và cho phép thực hiện các khoản thu, chỉ bằng tiền của
một chủ thể nào đó (Nhà nớc, bộ, xí nghiệp )Ngân sách tồn tại trong một khoảng thời gian
nhất định một năm. Nh vậy về mặt khái niệm có thể hiểu Ngân sách Nhà nớc là dự toán
thu_chi bằng tiền của Nhà nớc trong khoảng thời gian một năm. Nhng những khoản thu chi
Ngân sách Nhà nớc khác với bất kì hình thức thu_chi của các chủ thể khác một mặt Nhà n-
ớc dựa vào quyền lực của mình để huy động đóng góp của xã hội đẩm bảo hài hòa giữ lợi
ích kinh tế của Nhà nớc và các thành viên trong xã hội Nếu Nhà n ớc huy động quá cao thì
sản xuất đình trệ, nên kinh tế không phát triển, nếu thấp thì không đáp ứng đợc nhu cầu về
tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế xã hội đã đợc giao phó.
Mặt khác các khoản thu chi của Nhà nớc ban hành đợc thực hiện bằng pháp luật và luật
định (về thu có luật thuế và các văn bản luật khác, về chi có các tiêu chuẩn định mức). Để
phục vụ trực tiếp cho xã hội thực hiện chức năng của Nhà nớc trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Nh vậy mỗi cá thể kinh tế có một nét đặc thù riêng do đó tác động và ảnh hởng
của nó tới cơ chế, chính sách thu_chi Ngân sách Nhà nớc cũng khác nhau.
4.1.2 Cơ cấu Ngân sách Nhà nớc
Cơ cấu Ngân sách Nhà nớc bao gồm các khoản thu và chi. Các khoản thu gồm có:
các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nớc, các
khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân ,các khoản viện trợ, các khoản do Nhà nớc vay
để bù đắp bội chi đợc đa vào cân đối Ngân sách của Nhà nớc, các khoản thu khác theo pháp
luật. Các khoản chi Ngân sách Nhà nớc gồm có các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, các
khoản chi đảm bảo quốc phòng an ninh, đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nớc, các khoản
chi trả nợ của Nhà nớc, các khoản chi dự trữ Nhà nớc (từ 3%_5% tổng số d)
Trong hệ thông tài chính Ngân sách Nhà nớc là bộ phận chủ đạo là đièu kiện vật chất
quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nớc do hiến pháp quy định, đợc cơ cấu bởi
các khoản nh trên.
4.1.3 Thực trạng và cơ chế quản lý Ngân sách Nhà nớc trong thời gian qua
Cơ chế quản lý Ngân sách Nhà nớc có thể đợc hiểu là tổng hợp các hình thức và
phơng pháp điều hành Ngân sách trong toàn bộ hệ thống Ngân sách Nhà nớc, cơ chế này
bao gồm các bộ phận chủ yếu là thu_chi, phân cấp lập quyết định phân bổ chấp hành quyết
toán và tổ chức bộ máy quản lý Ngân sách Nhà nớc. Quá trình vận hành của cơ chế quản lý
Ngân sách Nhà nớc rất phức tạp, xuất hiện và tồn tại nhiều mối quan hệ những mối quan hệ
này phụ thuộc chặt chẽ vào nội dung và tính chất của cơ chế, cơ chế thay đổi tất yếu sẽ kéo
theo sự thay đổi của những mối quan hệ trong cơ chế. Vì vậy việc nghiên cứu sử lý các mối
quan hệ này phải đợc xem xét đánh giá kĩ để có biện pháp khắc phục và hoàn thiện nhằm
8
đáp ứng nhu cầu cơ chế quản lý Ngân sách Nhà nớc phải phù hợp với nền kinh tế theo cơ
chế thị trờng.
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang chủ trơng phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc thì cơ chế về
thu nh trớc đây không còn phù hợp và bộc lộ những nhợc điểm lớn là hệ thống chính sách
thu ban hành không đồng nhất, chủ yéu ban hành bằng văn bản pháp quy dới luật, chuă
đúng với hiến pháp nên tính pháp ký không cao, hiệu lực thi hành bị hạn chế. Cụ thể các sắc
thuế cha bám sát đợc những đặc thù trong kinh doanh cha phản ánh hết và cha thể lờng hết
đợc những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thị trờng. Ngoài ra một tồn tại lớn nhất về
chính sách hiện nay là: chính phủ và các cơ quan chức năng cha tập trung hệ thống hóa
đựơc các chế độ thu khác có tính chất thuế nh các loại thuế và lệ phí vẫn còn tình trạng các
địa phơng các ngàh tự đặt ra các chế độ thu rất tùy tiện, về thuế suất của một số luật thuế
đối với một số nghành nghề, mặt hàng kinh doanh cũng còn bất hợp lý cha phù hợp với thực
tế hoạt động của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế. Trong quá trình thực thi các
sắc thuế mới cha đảm bảo tính công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế bởi kinh tế
ngoài quốc doanh, cácdn t nhân còn một số doanh nghiệp lấy sổ sách chứng từ không theo
luật, thậm chí cố tình tìm cách lợi dụng những sơ hở của cơ chế chính sách để trốn thuế.
Những tồn taih trên vẫn còn nhiều bức xúc trong cơ chế thu Ngân sách. Bên cạnh đó thực
trang thu Ngân sách Nhà nớc cũng thiếu tính hệ thống, nhất quán và không công bằng giữa
các đối tợng thực tế đã tạo ra nhiều sơ hở gây thiệt hại, thất thoát tiền vốn Ngân sách rất lớn.
Việc cấp phát vốn và quản chi Ngân sách Nhà nớc không dựa vào diịnh mức tiêu chuẩn (do
các định mức tiêu chuẩn quá lạc hậu) cho từng đối tợng, gây khó khăn cho công tác quản lý
và tạo điều kiện cho việc chi tiêu tự do vợt quá xa định mức tiêu chuẩn của Nhà nớc. Trách
nhiệm và quyền hạn của thủ trởng đơn vị với việc quản lý vốn Ngân sách còn lỏng lẻo. Thực
chất là nay Nhà nớc giao cho đơn vị một khoản tiền dới hình thức khoán trắng cho đơn vị,
đơn vị tự lo sử dụng vốn và cũng do có khoản tài chính không kiểm tra (kiểm tra không hết)
việc chi tiêu dẫn đến kỉ cơng tài chính cha đợc coi trọng làm thất thoát một lợng không nhỏ
tiền vốn trong Ngân sách Nhà nớc .
Trong thực tế nhiều năm qua công tác quản lý Ngân sách Nhà nớc chỉ tập trung vào
một số ngành chức năng, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Ngân sách Nhà nớc có nhiều tồn
tại không phù hợp với cơ chế mới, vừa chồng chéo trùng lặp lại không lại hết chức năng vốn
có nhng lại bao biện công việc của cơ quan khác, quản lý vừa phiền hà, vừa không chặt chẽ
làm công tác quản lý Ngân sách Nhà nớc kém hiệu quả, Ngân sách Nhà nớc bị cắt khuc
không phát huy đợc vai trò đièu tiết vĩ mô làm cho Ngân sách Nhà nớc luôn luôn trong tình
trạng bị động, căng thẳng dẫn đến chi tiêu quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Ngân sách
Nhà nớc hầu nh chỉ biết tìm cách đáp ứng sự thiếu, sự tác động trở lại hoặc hớng dẫn tiêu
dùng hợp lý.
Theo điều lệ chấp hành Ngân sách Nhà nớc quy định. Khi dự án Ngân sách Nhà
nớc đã đợc quốc hội phê chuẩn, nó trở thành bắt buộc nói pháp nhân và thế nhân phải
9
nghiêm chỉnh chấp hành. Tiếc rằng trong thực tế điều này lại rất ít đợc chú ý các cơ quan
hành pháp do phạm không ít sai sót trong việc tự ý thay đổi nhiệm vụ kế hoạch Ngân sách
(cho giảm mức thu và bổ xung các khoản chi)các biện pháp phổ biến nh trốn thuế lậu thuế.
Thêm vào đó do báo cáo quyết toán của các đơn vị địa phơng còn cha đầy đủ, nhiều thiếu
sót, không chính xác, phần lớn dựa vào số thực tế đã cấp phát ra mà không mà không hề căn
cứ vào số thực chi của đơn vị cơ sở, vì vậy việc duyệt quyết toán Ngân sách Nhà nớc của
Quốc hội cũng chỉ mới mang tính hình thức, chung chung. Nh vậy công tác quyết toán
Ngân sách Nhà nớc về thực chất không có ý nghĩa thiết thực đối với yêu câu quản lý nền
kinh tế của đất nớc.
Công cụ tài chính Ngân sách Nhà nớc là một công cụ mạnh để Nhà nớc điều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế bên cạnh những thay đổi đáng kể tiến bộ phù hợp với công việc đổi mới và
phát triển kinh tế của đất nớc hiện nay vẫn tôn tại nhiều bất cập đáng qan tâm không thể chỉ
giải quyết một sớm một chiều đợc.
4.2 Thuế
4.2.1 Khái niệm về thuế
Sau gần 20 năm thực hiện đờng lối đổi mới do Đảng khởi xớng, hệ thống thuế đã
thực hiện đợc nhiều cuộc cải cách thay đổi góp phần hoàn thiện từng bớc hệ thống thuế ở n-
ớc ta.
Thuế là một hình thức phân phối lại của Nhà nớc sử dụng để động viên một phần thu
nhập của các pháp nhân và thế nhân là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh mà Nhà n-
ớc bắt buộc mọi ngời dân hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp cho Ngân sách để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của mình khoản nộp về thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần
đợc hoàn trả một cách gián tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Thuế là
một phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của
Nhà nớc và sự xuất hiện của sản phẩm thặng d. Để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của mình và
của xã hội, Nhà nớc phải dùng quyền lực để tham dự vào việc phân phối một phần sản phẩm
xã hội, đặt ra chế độ thuế buộc mọi ngời dân phải đóng góp. Phơng thức động viên tài chính
đầu tiên xuất hiện đó là thuế.
Cùng với sự phát triển của phơng thức sản xuất xã hội, sự ohát triển ngày càng cao
của kinh tế hàng hóa, tiền tệ, sự ra tăng mạnh mẽ của quyền lực Nhà nớc dã phát sinh ra nh-
ng chi tiêu to lớn và nảy sinh những biến đổi về thuế và các quan hệ về thuế dới hình thức
giá trị đợc hình thành và phát triển có tính hệ thống. Với những bớc tiến trên của lich sử chỉ
dùng thuế không đủ, Nhà nớc đã phát hành công trái hoặc phát hành thêm giấy bạc nhng
thuế vẫn là phơng thức động viên tài chính chủ yếu của Nhà nớc thuộc các chế độ khác
nhau.
10
Hiện nay thuế đã thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nớc ta, chiếm xấp xỉ 85% tổng
số thu Ngân sách. Nó đã đảm bảo đợc các khoản chi thờng xuyên và trả nợ Ngân sách Nhà
nớc. Điều này chứng minh vai trò quan trọng của thuế đối với tài chính của nớc ta.
4.2.2 Hệ thống thuế
Hệ thông thu Ngân sách hiện bao gồm 10 sắc thuế, các loại phí, lệ phí và các
khoản thu ngoài thuế phát sinh chủ yếu từ quyên sở hữu của Nhà nớc. Hệ thống thuế nớc ta
đã bắt đầu hình thành theo các nhóm chính : thuế thu nhập(trực thu), thuế tài sản (thuế nhà,
đất ..), thuế tiêu dùng (gián thu) và các loại thuế, phí khác, tơng đơng với cách phân loại của
IMF nên cha có bớc đi chiến lợc rõ nét để khai thác thế mạnh của từng loại thuế trong từng
thời kì, cha xác định rõ giai đoạn nào thì u tiên phát triển thuế gián thu, dựa tên cơ sở nào.
Trên thực tế còn cha quan tâm đúng mức tới việc hoàn thiện các sắc thuế trực thu nhất là
thuế thu nhập cá nhân.
So với thế giới hệ thống thuế ở nớc ta còn có những điểm cha hiện đại, tính hội nhập
còn thấp, có những sắc thuế cần bổ xunng thêm, có những sắc thuế cần sửa đổi thì mới có
thể đáp ứng các yêu caùu ổn định nguồn thu Ngân sách Nhà nớc, phù hợp với sự phát triển
của kinh tế thị trờng và định hớng xã hội chủ nghĩavà xu thế hợp tác quốc tế.
4.2.3 Vai trò của thuế
Thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà n ớc
Huy động nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nớc là vai trò chủ yếu
của nhiều chính sách thuế. Bất kì Nhà nớc nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan tẻọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
bộ máy quyền lực Nhà nớc
Qua gần 2 năm thi hành đổi mới hệ thống thuế, vai trò huy độnh nguồn thu cho Ngân
sách Nhà nớc đã đợc tthực hiện và phts huy mạnh mẽ trong thực tiễn cuộc sống. Thuế đã đ-
ợc ban hành dới hình thức pháp luậtvà pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thế đã đợc
nâng lên rõ rệt nên đã có tác dụng nâng cao quyền lực của Nhà nớc trong việc thu thuế và ý
thức trách nhiệm nghĩa vụ của ngời nộp thuế. Nguôn thu về thuế đã tăng lên đáng kể chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số thu Ngân sách và đáp ứng đợc nhu cầu chi thơng xuyên và trả nợ
nớc ngoài của Ngân sách Nhà nớc, góp phần chống lạm phát và ổn định vật giá. Năm vừa
qua là năm các pháp lệnh về thuế đợc thực hiện nghiêm túc thanh công và số thu về thuê so
với các năm trớc tng 78%, chiếm xấp xỉ 80% số thu Ngân sách.
Tuy nhiên qua kiểm nghiệm trong thực tế hệ thông thuế mới cũng con bộc lộ một
số tồn tại là cha bao quát hêt đợc nguồn thu, chính sách thuế còn phức tạp cha tạo điều kiện
thuận lợi cho việc huy độnh về thuế, còn nhiều kẽ hở cho tạo cho các đối tợng có thể trốn
tránh nghĩa vụ nộp thuế, tình trạng thất thu còn phổ biến, chính sách thuế của ta còn phức
tạp, cha rõ ràng và cha phù hợp với điều kiện và trình độ của ngời thu và nộp thuế. Tính chất
trực thu và gián thu còn lẫn lộn trong các sắc thuế, cha có sự phân biệt rõ ràng. Do mỗi sắc
11
thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cung một lúc nên các thuế suất thờng rất phức tạp à
có nhiều loại thuế suất khác nhau. Ngoài ra nội dung luật thuế và các văn bản hớng dẫn là
không xác định rõ những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ xác định các mức thuế khác nhau
nên đã gây ra khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở cho chính sách, dễ gây tùy tiện
và tiêu cực khi thực hiện.
Thuế góp phần điều chỉnh kinh tế
Ngoài việc huy động nguôn thu cho Ngân sách Nhà nớc thuế cò có vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hởng trực tiếp tới giá cả,
đén quan hệ cung cầu đến cơ cấu điều trị và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế căn
cứ vào tình huống cụ thể , Nhà nớc có thể chủ đông điều hành về thuế, lúc hoàn cảnh kinh
tế quá thịnh thì việc tăng thuế có tác dụng ức chế sự tăng trởng của tổng nhu cầu,làm giảm
bớt sự tăng trơng kinh tế, lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút sản xuất suy thoái thì việc hạ thấp
thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, từ đó xúc tiến phục hng tình trạng kinh tế.
Nh vậy thông qua cơ chế thuế Nhà nớc có thể chủ động phát huy tác dụng điều hành nền
kinh tế, co hẹp vào lúc hoàn cảnh quá thịnh hoặ khuếch trơng vào lúc hoản cảnh suy thoái.
Thuế có tác dụng trực tiếp đến giá cả đến thu nhập vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà n ớc có
thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu t. Khi ban hành một sắc thuế do những yêu
cầu về mặt kinh tế chính trị và xã hội Nhà nớc ta đều có những quy định về đối tợng phạm
vi thuế. Các quy định này xét bề ngoài là một sự cỡng chế, nhng bên trong nhằm mục đích
điều chỉnh những quan hệ kinh tế xã hội nhất định.
Việc phân biệt thuế suất đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoặc các nghành
nghề sản xuất kinh doanh những quy định u đãi thuế với một số nghành vùng lãnh thổ, tự nó
đã góp phần điều chỉnh việc bỏ vốn kinh doanh này vào ngành nghề này hay nghành nghề
khác của doanh nghiệp mà không cần có sự hô hào vận động của Nhà nớc, bởi vì ngời nộp
thuế tự họ phải tính toán tới việc đầu t vốn vào đâu sẽ có lợi và ngợc lại, chính sách thuế
hiện hành thể hiện rõ quan điểm của Nhà nớc ta là khuyến khích nghành sản xuất, dịch vụ,
thơng mại. việc quy định thuế lợi tức u đãi đối với các dự án đầu t thuộc các lĩnh vực đợc
Nhà nớc khuyến khích nh sản xuất hàng hóa xuất khẩu đầu t vào những vùng có điều kiện
kinh tế không thuận lợi nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách đồng bộ trong cả n ớc
theo hớng có lợi cho nền kinh tế quốc dân.
Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng dịch vụ thiết yếu, phổ thông
Nhà nớc tác động làm cho giá cả hạ tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng qua đó cho phép
doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. áp dụng thuế suất cao đối với hàng hóa xa xỉ, dịch
vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng và sản xuất. Nh vậy thuế
không những có ảnh hởng tới quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế
theo ý muốn của Nhà nớc.
Với chế độ mộy chính sách thuế thông nhất đối với mọi thành phần kinh tế, điều
này phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trờng, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh
12