Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tại sao vai trò của nhà phê bình nghệ thuật không còn quan trọng nữa potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.15 KB, 16 trang )

Tại sao vai trò của nhà phê bình
nghệ thuật không còn quan trọng
nữa.
Bài viết của David Carrier
Người dịch: Vũ Kim Thư
Những ngôn từ mỹ học xuất hiện ở khắp nơi, vì chúng ta thường sử
dụng chúng ; đó là một phần trong cuộc sống của chúng ta.
Alexander Nahamas


Gần đây, khi đọc bài viết rất chi tiết tỉ mỉ có tên Tầm nhìn đơn độc:
Chủ nghĩa hiện đại và tính quan liêu trong cảm giác của Clement
Greenberg do Caroline Jones viết và một bài viết tiểu sử khác với
phong cách viết bộc trực của Alice Marquis có tên Sa Hoàng của nghệ
thuật : Sự phát triển và thoái trào của Clement Greenberg ( cả hai bài
viết đều đuợc viết năm 2006), tôi băn khoăn tự hỏi tại sao vẫn có nhiều
sự ngưỡng mộ đối với Clement Greenberg. Cách đây gần 30 năm khi
tôi mới bắt đầu viết lý luận phê bình, biên tập viên Joe Masheck của tạp
chí Artforum đã nói với tôi rằng cách nghĩ bộc trực thẳng thắn của
Greenberg không còn được sùng bái nữa. Mặc dầu giới phê bình mỹ
thuật đã vượt qua giai đoạn này, nhưng không một ai trong chúng ta
gây được một ảnh hưởng lớn như Greenberg dù là nhỏ nhất. Arthur
Danto là một nhà triết học nổi tiếng, người có nhiều bài viết hay in trên
tạp chí The Nation, một tạp chí được lưu hành rộng lớn , được nhiều
người ngưỡng mộ. Nhưng ông đã nói với tôi rằng các bài viết của ông
không có một sự ảnh hưởng nào tới thị trường nghệ thuật. Không hề
nghi ngờ rằng những bài viết bình luận trên các tạp chí như Newyork
Times hay Artforum không mang lại mấy tầm quan trọng thực tế đối
với sự nghiệp của các họa sỹ trẻ.Điều quan trọng giờ đây là nhận được
sự hỗ trợ của các ông bầu nghệ thuật, các giám tuyển, và các nhà sưu
tập. Ngày nay, phê bình nghệ thuật đóng một vai trò rất nhỏ trong toàn


bộ hệ thống thương mại. Như Jerry Saltz đã nói: “ Trong vòng 50 năm
trở lại đây, những gì các nhà phê bình nghệ thuật viết đã kém phần ảnh
hưởng đối với thị trường hơn cả bây giờ”. Đôi khi người ta lo ngại
rằng, phê bình nghệ thuật chỉ là sự quảng cáo những ý thích khác nhau
của mỗi người. Chúng ta thật may mắn ! Tôi nghi ngờ rằng không mấy
ai mua , trưng bày, hay bán các tác phẩm nghệ thuật dựa trên ý kiến từ
bài viết phê bình lý luận.

Vào cuối năm 1970, khi những người viết phê bình của tạp chí
Artforum rất khó tính đối với các tác phẩm nghệ thuật trưng bày trong
các gallery, tờ tạp chí này trở nên mỏng manh đến dễ sợ. Giờ đây, dày
cộp với các trang quảng cáo, tạp chí này chỉ đăng tải những bài phê
bình thân thiện. Không một tạp chí có tiếng nào muốn phân chia mảng
quảng cáo và nội dung biên tập quá rõ ràng, nhưng tất nhiên bất cứ một
ấn phẩm thương mại nào đều phụ thuộc vào các nhà quảng cáo. Quả
thật dễ gợi lại sự bồi hồi nhớ tiếc về một thời đã qua khi phê bình nghệ
thuật vẫn còn đóng vai trò quan trọng, như Tom Crow đã viết gần đây.

Sự tranh chấp gay gắt của tạp chí Artforum xưa vẫn luôn là sự mâu
thuẫn giữa suy nghĩ và tính thương mại. Chúng ta đã qua cái thời mà
thương mại mang một sự thông minh sáng suốt bao trùm và vượt trội
cả những nhà lý thuyết học.

James Meyer với bài viết tuyệt vời có tên Minimalism ( tạm dịch là
nghệ thuật đơn giản hóa) : Nghệ thuật và luận chiến của những năm 60
(xuất bản năm 2001) kể lại một câu chuyện về một cuộc tranh luận bàn
cãi dữ dội diễn ra trên những tạp chí hàng đầu . Nhưng kỷ nguyên với
cuộc tranh luận chống lại chủ nghĩa minimalism của Michael Fried
được xuất bản trên tạp chí Artforum đã qua rồi, cũng tựa như thời gian
khi Greenberg còn sống trong một căn hộ thuê tại phía Tây Central

Park. Vào thời đó, để sống một cách hà tiện tại khu Manhattan vẫn còn
dễ dàng. Gần đây cũng như vào năm 1980, khu vực làng phía Đông
nghèo khổ đã được phục hồi bởi những ông bầu nghệ thuật. Ngày nay,
nó là khu bất động sản vàng, các nghệ sỹ trẻ có được một xưởng vẽ nhỏ
cách xa Brooklyn đã được coi là may mắn lắm rồi. Và từ khi cuộc sống
của thành phố này trở nên vô cùng đắt đỏ, các nhà phê bình nghệ thuật
cần có một ngân quỹ riêng hoặc một công việc ổn định.

Greenberg gây được một sự ảnh hưởng lớn , bởi vì ông nhắm vào ủng
hộ những họa sỹ theo trường phái trừu tượng biểu hiện trong khi phần
lớn các nhà phê bình nghệ thuật khác lờ đi hoặc chế nhạo những nghệ
sỹ theo phong cách này. Thị hiếu đầy thử thách của Greenberg kèm
theo một học thuyết tại sao hội họa theo phong cách này lại quan trọng
đến vậy.

Cung cách của Pollock trong giai đoạn năm 1946-1950 đã hỗ trợ cho
chủ nghĩa Lập thể Phân tích từ giai đoạn của Picasso và Braque với
những bức cắt dán của năm 1912 và 1913, nó bao trùm những yếu tố
trừu tượng dứt khoát mà chủ nghĩa Lập thể Phân tích hướng tới.

Không ai đưa ra ý kiến như ông. Vào năm 1960, Fried, Rosalind
Krauss, và những đối thủ của họ đã cố gắng nắm giữ lấy vai trò của
Greenberg. Những đoạn trích ông viết với phong cách tranh luận rất
thoáng mang tính bỗ bã. Còn Fried và Kraus lại là những giáo sư, và do
vậy phong cách viết của họ mang tính tranh luận nghiêm túc. Khi Fried
viết về Anthony Caro và Krauss ca ngợi Richard Serra, họ sử dụng
ngôn ngữ nặng chất lý thuyết phê bình. Phong cách phê bình này đã
gây sự ảnh hưởng, do vậy đến năm 1980, các nhà phê bình cảm thấy
rằng họ cần gợi lên tầm quan trọng của Roland Barthes, Jacques
Derrida, và các nguồn thông tin khác. Tôi không thể chỉ trích họ, vì tôi

cũng thế. Anh cần trích dẫn những nhà văn của Pháp nếu anh được coi
là một au courant. Nhưng tới năm 1990, cách phê bình kiểu này không
còn được tin cậy nữa.

Fried và Krauss muốn thay đổi phê bình nghệ thuật theo cách ấy, vào
đầu thế kỷ 20, Alois Riegl, Erwin Panofsky, Aby Warburg, và Heinrich
Wolfflin đã thay đổi lịch sử mỹ thuật. Trước khi phong cách hàn lâm
của Đức chiếm lĩnh, các nhà phê bình mỹ thuật thường viết theo kiêu
bỗ bã, thoáng đạt. Những nhà phê bình giỏi như Roger Fry và Bernard
Berenson thường sử dụng ngôn ngữ học thuyết một cách thoáng đạt
giống như Greenberg. Nhưng sau khi các giáo sư phê bình chiếm lĩnh
làm thay đổi cách viết, bất cứ một nhà phê bình nghệ thuật nào sau này
đều phải trích dẫn và đưa vào những đoạn chú thích. Những nhà phê
bình tuyệt hảo như Bill Berkson, Robert Hughes, Carter Ratcliff, và
Peter Schjeldhal không bao giờ mang cách nghĩ như vậy vào bài viết
của họ. Nhưng chính vì cách viết của họ không mang chất học thuyết,
họ bị loại ra và bị gọi đơn thuần chỉ là những nhà báo thông thường.
Vào năm 1990, Dave Hickey đã trở thành nổi tiếng vì là một nhà phê
bình khá hiếm hoi, một nhà văn chuyên viết về nghệ thuật. Nhưng mặc
dầu có sự ảnh hưởng lớn của ông, một vai trò mẫu mực như vậy cũng
không thay đổi được tình hình. Thomas McEvilly và Arthur Danto , hai
vị giáo sư đáng kính này viết phê bình nghệ thuật theo một văn phong
thoải mái. Phong cách phê bình của McEvilly có ảnh hưởng lớn từ cách
nhìn hàn lâm của ông – Ông là người theo chủ nghĩa cổ điển có sự yêu
thích tìm hiểu triết học Ấn Độ giáo. Cũng giống như Danto, ông luôn
luôn đặt ra một đường ranh giới triệt để giữa học thuyết mỹ học và phê
bình lý luận. Những hoạt động của Danto với tư cách là một nhà triết
học và là một nhà phê bình nghệ thuật được phân chia rõ ràng. Những
đồng nghiệp triết học của ông phần lớn biết rất ít về thế giới nghệ thuật,
trong khi những đồng nghiệp phê bình nghệ thuật bạn ông lại không

hiểu nổi những bài viết tranh luận của ông về triết học.

Ngày nay, các nhà lịch sử mỹ thuật học cũng bắt đầu quay ra nghiên
cứu nghệ thuật đương đại. Với tư cách là một nhà phê bình ( cũng như
là một người nghiên cứu hàn lâm), tôi bắt đầu cảm thấy băn khoăn về
tình trạng này. Quả thật không sai chút nào khi người ta chê bai viết
lách theo phong cách “ hàn lâm”, vì văn phong này gần như làm người
đọc không thể hiểu được. Anh không cần biết viết hiệu quả như thế nào
để đạt được bằng Tiến Sỹ. Nhưng dường như điều thường xảy ra là các
nghệ sỹ đứng tuổi vẫn đang sống sẽ thu hút sự chú ý của các học giả
trẻ, đặc biệt là sau khi có rất nhiều bài viết về chủ nghĩa hiện đại. Và có
một nhu cầu , đặc biệt đối với các trường nghệ thuật , cần có các giảng
viên biết giảng về nghệ thuật đương đại. Bởi vì lịch sử mỹ thuật có một
nền tảng hàn lâm, các nhà lịch sử mỹ thuật có thể tự sống được. Còn
các nhà phê bình nghệ thuật lại nằm trong điều kiện khó khăn hơn
nhiều. Không giống như các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, những
nhà phê bình thường tự học. Đó là lý do tại sao tôi không chắc liệu việc
dạy sinh viên trở thành những nhà phê bình có phải là một ý tưởng tốt
hay không.

Không một nhà phê bình nào ngày nay đưa ra một lý do hợp lý giải
thích về nhân vật mà họ viết. Cũng như các nhà văn viết về nghệ thuật
không hề đưa ra một lý do thuyết phục nào để giải thích cho sự phán
xét của cá nhân họ. Những nhà phê bình có ảnh hưởng lớn trong thế
giới hàn lâmthường có liên quan đến tạp chí October của Krauss.
Nhưng gần đây khi Krauss, Yve-Alain Bois, Benjamin Buchloh, và Hal
Foster xuất bản cuốn nghiên cứu Nghệ thuật từ năm 1900: Chủ nghĩa
hiện đại, Phi hiện đại, Hậu hiện đại ( năm 2005), những ý kiến của họ
gây tranh luận lớn. Một cuốn sách mà dường như lờ đi vai trò của
Robert Mangold, Susan Rothenberg, và Sean Scully trong khi tập trung

rất kỹ càng vào Hans Haacke, Mary Kelly và Richard Prince giới thiệu
sự thống nhất của phê bình hiện đại. Nhóm Octobrist cũng gây ảnh
hưởng, bởi vì hơn bất cứ nhà phê bình nào khác, họ đã tạo ra những
học thuyết thử thách gây sự thu hút đối với những người viết hàn lâm.
Họ nắm giữ những vị trí quan trọng trong các trường đại học nổi tiếng
như Columbia, Havard, Princeton, và Viện nghiên cứu New Jersey . Và
do vậy cũng phải công bằng mà nói rằng nếu họ không tạo ra được một
lịch sử lẫy lừng đày thuyết phục thì chẳng còn ai khác có thể làm được.

Cảm giác của riêng tôi là khi chúng ta nhìn vào kỷ nguyên sau chủ
nghĩa trừu tượng biểu hiện, tất cả những phán xét đều chung chung cho
tất cả mọi người. Liệu Ellsworth Kelly, Jasper Johns và Robert
Rauschenberg – những nghệ sỹ lão thành này – có đứng ngang tầm với
de Kooning và Pollock trong cùng một sự đánh giá chung không ? Tôi
không chắc. Liệu Chuck Close, Brice Marden, Elizabeth Murray,
Robert Ryman và Gerhard Richter – năm nghệ sỹ này với triển lãm của
họ tại Bảo tàng MOMA – có phải là những danh họa đương đại không
? Tôi nghi ngờ điều này. Ngày nay, thế giới nghệ thuật đối mặt với sự
tăng tiến của hàn lâm. Tạp chí Artforum xuất bản cứ 10 năm 1 lần , và
sau hơn 40 năm hình ảnh của gần 400 nhân vật trên trang bìa. Chắc
chắn trong đó không có nhiều nghệ sỹ của thời đại chúng ta. Các nhà
sưu tập và các giám tuyển hay mua những tác phẩm nghệ thuật thời
thượng cần chuẩn bị sẵn sàng khai trừ thanh lọc một lượng lớn đồ sộ
trong bộ sưu tập của mình.

Greenberg rõ ràng giờ đây không còn là một mẫu hình lý tưởng cho các
nhà phê bình nghệ thuật nữa. Chúng ta thật sự không thể đưa ra những
phán xét tiên tri về thị hiếu hay cũng như không thể thuyết phục được
các học giả. Nhưng chúng ta có thể trở thành những người viết hay. Tại
sao không đọc Diderot, Baudelaire, Ruskin, Fry, và Greenberg trên tinh

thần như chúng ta thưởng thức George Eliot, Marcel Proust, và
Vladimir Nabokok. Chắc chắn rằng có một sự khác nhau giữa văn học
và phong cách viết đưa ra sự mô tả chân thực, hợp lý của những tác
phẩm nghệ thuật thực sự. Mọi người đều hiểu ý nghĩa của cách viết
sáng tạo, trong đó miêu tả những thế giới trong tưởng tượng hoặc
những nơi có khoảng cách xa với thế giới thực tế hàng ngày. Ngược lại,
những gì không quen thuộc với mọi người chính là sự mô tả đầy chất
thơ mang tính lý tưởng hóa về những tác phẩm nghệ thuật đang hiện
diện. Có lẽ mọi người lo rằng trong khi văn học có sự tự do để tạo nên
con người, nơi chốn và vạn vật thì những người viết phê bình nghệ
thuật phải miêu tả sự thật một cách trung thực sẽ ít tự do hơn. Nhưng
cuối cùng, những áng thơ hay cũng phải có vần và có những quy luật
định trước, và tiểu thuyết cũng cần theo những bố cục nhất định. Việc
các nhà phê bình phải thỏa mãn những quy luật ép buộc này không có
nghĩa rằng viết về nghệ thuật không tuân thủ được như vậy, cũng như
thơ ca và tiểu thuyết đều nắm giữ những quy luật thẩm mỹ hợp lý.

Lịch sử sẽ giải thích tại sao chúng ta chưa thực hiểu thế nào là một cách
viết hay. Những bài viết về Pierodella Francesca và Poussin hoàn toàn
không phải của những nhà phê bình thực sự. Để có sự phê bình , anh
cần có một cái gì đó giống như hệ thống triển lãm công chúng và một
thế giới nghệ thuật thương mại. Diderot đã viết về những salon nghệ
thuật, những nhóm triển lãm trước cách mạng Paris trông đợi trong
Biennales. Và Baudelaire cũng đề cập đến những cuộc triển lãm đó, tại
thời điểm chủ nghĩa hiện đại ra đời, khi các ông bầu nghệ thuật như
Arne Glimcher bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong việc trưng
bày nghệ thuật đương đại. Cũng như Ruskin và Fry, những bài viết phê
bình của họ về Turner và Cezanne đã cho họ một hiện diện giống như
người tiền nhiệm của Greenberg. Do vậy, nếu chúng ta chưa thật sự
hiểu đúng và thưởng thức được chất lượng thẩm mỹ của nghệ thuật phê

bình lý luận là vì so với viết văn, phê bình lý luận mỹ thuật vẫn còn là
một thứ gì mới mẻ.

Trong thực tế, các nhà phê bình phải đối mặt với hai tình huống khác
nhau, tạo thành hai thể loại phong cách viết – tương tự như tiểu thuyết
và thơ ca trong cách viết sáng tạo. Cách viết thứ nhất là khi một nhà
phê bình được mời đến một xưởng vẽ của một nghệ sỹ và được nghệ sỹ
đó mời viết một bài viết nói về sự phát triển trong quá trình sáng tác
của mình . Thường hiếm khi người ta gặp được nghệ sỹ lớn ( đây là
một kinh nghiệm đặc biệt diễn ra trong một lần với tôi), và do vậy có
thể quan sát được sự nghiệp và quan điểm nghệ thuật của nghệ sỹ này
trước khi thăng hoa. Khi tôi gặp Sean Scully, anh vừa mới nổi danh, và
đang trên đà sáng tác những tác phẩm đã làm anh nổi tiếng. Nhưng lúc
đó, anh chưa hề có một nhà tài trợ nghệ thuật nào. Trong hơn 26 năm,
chúng tôi đã có những sự trao đổi quý giá. Có thể nói một cách khác,
chúng tôi lớn lên cùng nhau. Quả thật bây giờ nghĩ lại khó mà có thể
sắp đặt lại quá trình này hay tổng quát lại. Nhưng khi một nghệ sỹ trở
nên nổi tiếng, và có nhiều cuộc phỏng vấn hơn, thì cửa sổ cơ hội để tiếp
xúc với họ ngày càng khó. Vào năm 1990, tôi đã có may mắn được gặp
Robert Mangold và Robert Ryman và viết về sáng tác nghệ thuật thời
kỳ đầu của họ. Nhưng cách nghĩ của họ đã rất vững chắc, do vậy tôi
quan tâm nhiều hơn đến cảm nhận của họ.

Cách viết thứ hai là thể loại phê bình nghệ thuật mang tính bình luận.
Anh bước chân vào gallery hay bảo tàng, nhặt lấy một tờ giới thiệu, và
đi tham quan qua các tác phẩm nghệ thuật, với các phán xét cá nhân bắt
đầu xuất hiện trong đầu. Điều thú vị nhất là tôi luôn để ý đến những
nghệ sỹ trẻ hoặc những nghệ sỹ lạ hoắc mà tôi không biết, sau đó tôi
phải tranh giành và tìm hiểu về họ. Đó là một cảm giác lạc lối vô cùng
thú vị khi tìm hiểu về một công việc nghệ thuật ai đó đang làm và tác

phẩm của họ có hay không. Thường khi viết về một nghệ sỹ, nhà phê
bình thường phán xét dựa trên chính kiến cá nhân đã có từ trước.Còn
khi viết về lịch sử mỹ thuật, anh lại cần phải tham khảo lại văn học lịch
sử mà lịch sử thì vô cùng rộng lớn. Tôi mất rất nhiều năm để viết xong
cuốn sách về Poussin, vì tôi cần kiểm chứng lại những kinh nghiệm cá
nhân về thị giác của mình đối chọi lại với một nền tảng lịch sử văn học
đồ sộ. Nhưng khi viết phê bình lý luận, anh phải phản ứng nhanh, thậm
chí đôi lúc phải giả vờ như anh là người đầu tiên được nhìn thấy và viết
về tác phẩm nghệ thuật này.Theo Baudelaire, Delacroix đã nói rằng nếu
anh không thể ký họa được một người đàn ông nhảy từ tầng năm trước
khi rơi xuống đất, anh sẽ không bao giờ trở thành nghệ sỹ được. Còn
tôi nói rằng: Nếu anh không thể viết được một bài bình luận trong một
buổi chiều ngay sau khi xem một cuộc triển lãm, có lẽ anh nên chi gói
mình trong phong cách viết hàn lâm lịch sử thì hơn.

Tôi không khỏi ngạc nhiên khi có nhiều người muốn viết phê bình lý
luận đến vậy. Đây là một sự nghiệp gian khổ - tạp chí Artforum đã lướt
và bỏ qua bao nhiêu bài viết hay của nhiều nhà văn. Làm phê bình nghệ
thuật là nghề rất khó kiếm sống được.Và nó khó gây được sự ảnh
hưởng. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng các nhà phê bình nghệ
thuật nên lên mặt răn dạy, lo lắng sợ hãi hay không coi trọng công việc
của mình một cách nghiêm túc. Giống như nghệ thuật ( ngay cả đối với
nghệ thuật phi thẩm mỹ) các nhà phê bình nghệ thuật sẽ gây nên sự yêu
thích chú ý khi các bài viết của họ trở nên hợp lý và phong cách viết
hay.Tất cả các nhà văn đều biết rõ sự thú vị trong cách viết đưa ra một
sự so sánh đối lập rất thông minh, tạo ra những đối chiếu đáng ngạc
nhiên và viết nên những câu văn với cách giải quyết bất ngờ cho người
đọc.Và tất cả những người đọc đều hiểu được cái cảm giác sung sướng
khi được đọc những đoạn văn viết đầy khéo léo đến vậy. Chúng ta chỉ
có rất ít những nhà phê bình nghệ thuật giỏi, Nhưng nhìn xem chúng ta

có tới bao nhiêu nghệ sỹ giỏi vẫn đang sống ?


David Carrier là một học giả thuộc Trung tâm nhân văn quốc gia tại
bang North Carolona trong năm 2006-07

Chú thích: 1. Lấy từ bài viết của Alexander Nehamas, Chỉ một lời hứa
của niềm hạnh phúc: Một nơi của cái đẹp trong một thế giới nghệ thuật
( Princeton , UP, 2007). Bài bình luận của tôi về Caroline Jones, Tầm
nhìn đơn độc và Alice Marquis , Sa hoàng của nghệ thuật đã xuất hiện
trong tạp chí Burlington .

2. Jerry Saltz, “ Sự im lặng của những ông bầu nghệ thuật”, Tạp chí
Những họa sỹ hiện đại ( tháng 9 năm 2006), 35.

3. Thomas Crow “ Sự thoái trào của phê bình lý luận”, tạp chí
ArtForum ( tháng 9 năm 1993), 188.

4. James Meyer, Minimalism: Nghệ thuật và luận chiến của những năm
60. ( Yale, Up, 2001)

5. Clement Greenberg, Nghệ thuật và văn hóa: Những bài luận phê
bình ( Boston, Beacon Press, 1961) , 218.

6. Những cuốn sách của Thomas McEvilly bao gồm Nghệ thuật và
những vấn đề khác: sự khủng khoảng trong bộ mặt văn hóa ( Kingston,
NY: McPherson và công ty, 1992) ; và Hình hài của cách nghĩ cổ xưa (
Newyork Allworth Press, 2002).

7. Tôi kể lại một phần câu chuyện phê bình này từ thời Greenberg

trong bài viết của Rosalind Krauss và tạp chí Lý luận phê bình triết học
Mỹ : Từ chủ nghĩa chính thống cho đến Hậu hiện đại ( Greenwood /
Praeger, 2002)

8. Thẩm mỹ của thành thị: Triết học và thực tiễn của hội họa trừu tượng
Mỹ năm 1980

( Trường đại học Park và London năm 1994) giới thiệu một số những
bài phê bình lý luận do tôi bình luận.

9. Tìm đọc bài viết của tôi về Sean Scully ( Thames and Hudson , 2004)

10. Viết về Mangold và Ryman thời kỳ đầu, tìm đọc bài của tôi“Robert
Magold – một cửa sổ màu xám (1964)” , tạp chí Burlington , 1125, số
CXXXVIII ( tháng 12 năm 1996), 826-8; và “ Robert Ryman và nguồn
gốc nghệ thuật của mình”, tạp chí Burlington ,1134, số CXXXIX (
tháng 9 năm 1997), 631 – 3.

11. Tìm đoc bài viết của tôi có tên Hội họa của Poussin: Một nghiên
cứu phương pháp luận mỹ thuật (Trường đại học Park và London năm
1993)

12. Bài viết này lấy cảm hứng từ tác giả James Elkin với bài viết Điều
gì đã xảy ra với lý luận phê bình nghệ thuật? ( Chicago: Prickly
Paradigm Press, 2003) đưa ra một kết luận khác hẳn.
Bài viết của tôi có tên Viết về nghệ thuật Thị giác ( Allworth Press,
2003) đưa ra những quan điểm về mối quan hệ giữa văn học và nghệ
thuật viết. Tôi xin cảm ơn Arthur Danto, Marianne Novy, Sean Scully
và Johnathan Weinberg vì những lời góp ý tư vấn. Bài viết này dành
cho Holland Cotter.



×