Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.83 KB, 128 trang )

Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài. Việt Nam thực hiện đổi mới, chuyển nền kinh
tế kế hoạch sang kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Trong quá trình đổi mới,
Việt Nam đà đạt đợc những thành tựu quan trọng: giữ vững đợc định hớng
XHCN, kinh tế tăng trởng liên tục với tốc độ cao, đời sống nhân dân đợc cải
thiện. Tuy nhiên, sự phân hoá giầu - nghèo có xu hớng gia tăng. Vấn đề thực
hiện công bằng trong phân phối thu nhập, gắn tăng trởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xà hội là một vấn đề vừa cấp bách vừa thờng xuyên lâu dài và cũng
là vấn đề nhạy cảm nhất trong đời sống kinh tế - xà hội ở nớc ta. Để giải quyết
vấn đề trên Nhà nớc có vai trò quyết định. Vì thế, chúng tôi chọn vấn đề " Vai
trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam " làm đề tài nghiên cứu.
Tình hình nghiên cứu đề tài. ĐÃ có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về phân phối thu nhập, tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu nghiên cứu một
chính sách phân phối cụ thể, đơn lẻ nh chính sách tiền lơng, chính sách thuế,
chính sách việc làm, chính sách xoá đói, giảm nghèo, các chính sách thuộc hệ
thống an sinh xà hội. Không còn nghi ngờ gì nữa, những nghiên cứu đó đà góp
phần thúc đẩy sự phát triển lý luận phân phối ở những lĩnh vực riêng biệt. Hiện
có rất ít những công trình nghiên cứu sâu có tính chất khái quát về phân phối
thu nhập. Nhà nớc có vai trò quyết định đối với phân phối và điều tiết thu nhập
đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả. Vì thế, cần có những công
trình nghiên cứu tổng quát, có tính hệ thống về vai trò của Nhà nớc đối với phân
phối thu nhập trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Đề tài nghiên cứu này
mong góp một phần nào đó giải quyết vấn đề trên.
Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học. Dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, quan điểm
của Đảng ta về phân phối thu nhập và thông qua việc phân tích, đánh giá thực
1


trạng phân phối và điều tiết của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong thời
gian qua, công trình nghiên cứu này nêu lên những quan điểm cần quán triệt


trong quá trình phân phối và điều tiết thu nhập của Nhà nớc và nêu lên những
giải pháp thiết thực để tăng cờng vai trò điều tiết của Nhà nớc đối với phân
phối thu nhập theo định hớng XHCN.
Những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết:
- Phân tích khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối
và giá trị khoa học của những quan điểm đó trong điều kiện ngày nay, làm rõ
quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu nhập.
- Làm rõ những nguyên tắc (hình thức) phân phối thu nhập trong kinh tế
thị trờng định hớng XHCN và cơ chế, chính sách phân phối và điều tiết thu
nhập của Nhà nớc.
- Đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập
thông qua việc phân tích, xem xét các chính sách phân phối cơ bản của Nhà nớc
ở nớc ta trong thời gian qua.
- Nêu lên những quan điểm cần quán triệt trong quá trình phân phối và
điều tiết thu nhập của Nhà nớc, các giải pháp tăng cờng vai trò của Nhà nớc đối
với phân phối thu nhập thông qua việc làm rõ phơng hớng và nội dung tiếp tục
cải cách, hoàn thiện các chính sách phân phối.
Đối tợng nghiên cứu. Công trình này nghiên cứu vai trò của Nhà nớc đối
với phân phối thu nhập thông qua việc xem xét, đánh giá sự đổi mới, các chính
sách phân phối thu nhập của Nhà nớc và phơng hớng hoàn thiện chúng trong
thời gian tới.

Đóng góp khoa học của đề tài:

2


- Làm rõ đợc giá trị khoa học của các quan điểm, nguyên tắc phân phối
thu nhập của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về phân phối
trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN, làm rõ cơ chế phân phối, điều tiết thu

nhập của Nhà nớc.
- Phân tích, đánh giá sát thực tình hình các chính sách phân phối thông
qua đó đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong
thời gian qua.
- Nêu lên một số quan điểm có giá trị khoa học và thực tế về phân phối,
điều tiết thu nhập của Nhà nớc và các giải pháp thiết thực nhằm tăng cờng vai
trò của Nhà nớc ®èi víi ph©n phèi thu nhËp b»ng viƯc tiÕp tơc đổi mới, hoàn
thiện các chính sách phân phối thu nhập trong thời gian tới.
Các tác giả của công trình này đà có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu
một vấn đề phức tạp, tuy nhiên, do hạn chế về trình độ và điều kiện nghiên cứu,
nên chắc chắn cha giải quyết đợc một cách thấu đáo mọi khía cạnh của vấn đề
nêu ra. Các tác giả rất mong nhận đợc những đóng góp quý giá của các nhà
khoa học và đồng nghiệp.

Các tác giả

3


Chơng 1
Lý luận về vai trò của nhà nớc
trong phân phèi thu nhËp
1.1. Mét sè vÊn ®Ị lý ln chung về phân phối

Từ trớc đến nay vấn đề phân phối giữ vai trò quan trọng trong lý luận kinh
tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển Anh nh A. Smith tới C. Mác đều nghiên cứu
sâu sắc vấn đề ph©n phèi, thËm chÝ. D.Ricardo cho r»ng nhiƯm vơ chđ yếu của
kinh tế chính trị học là tìm ra quy luật chi phối sự phân phối. Tầm quan trọng
của vấn đề phân phối không chỉ ở chỗ nó nói lên quan hƯ vỊ lỵi Ých kinh tÕ
trong nỊn kinh tÕ, mà còn phản ánh những nhân tố quyết định ẩn dấu đằng sau

các quan hệ lợi ích đó, giúp ta hiểu đợc quá trình vận động kinh tế. Tiết này
nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phân phối, đặc biệt là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về phân phối và vai trò của nhà nớc đối với phân phối.
1.1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối
Lý luận phân phối trong chủ nghĩa xà hội và trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xà hội đợc bắt nguồn từ học thuyết kinh tế của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin.
C. Mác và Ph. Ăng ghen lúc đơng thời đà nghiên cứu một cách có hệ
thống chế độ phân phối của phơng thức sản xuất TBCN. Các ông đà vạch rõ bản
chất của phơng thức phân phối này và cho rằng chế độ phân phối TBCN là bất
công; nó dựa trên cơ së quan hƯ bãc lét cđa giai cÊp t s¶n và địa chủ đối với giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì trong thế kỷ XIX, CNXH vẫn cha ra
đời nên nhiệm vụ lý luận thực tế nhất, bức thiết nhất không phải là chú trọng
trình bày và thiết kế chế độ và nguyên tắc phân phối thu nhập trong CNXH, mà
là vạch trần bản chất và phê phán phơng thức phân phối TBCN, đồng thời còn
4


phê phán và đấu tranh với mọi sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội đối với
CNXH. Tuy nhiên, trong quá trình đó, C. Mác và Ph. Ăng ghen đà nêu lên quan
điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phèi trong x· héi t¬ng lai. So víi lý ln của
tất cả các nhà kinh tế trớc đó, thì lý luận phân phối của C. Mác và Ph. Ăng ghen
đà thật sự đặt nền tảng và là khởi nguyên cho lý luận phân phối thu nhập trong
CNXH.
Kế thừa và tiếp nối t tởng của C. Mác và Ph. Ăng ghen, trong lÃnh đạo xây
dựng CNXH ở Nga, Lênin đà làm rõ hơn và cụ thể hoá các quan điểm và
nguyên tắc phân phối trong CNXH. Theo Lênin, để xây dựng thành công
CNXH hiện thực, thì nhiệm vụ có ý nghĩa trọng đại hơn cả là xây dựng kinh tế.
Trong nhiệm vụ đó, nếu Nhà nớc không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện
đối với sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những ngời lao

động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì đợc và nhất định họ sẽ phải
sống trở lại dới ách thống trị của CNTB [11, tr 244] "không có chế độ kế toán
và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì những mầm mống
của XNXH sẽ bị tiêu diệt..." [11, tr 225]. Từ ý nghĩa của vấn đề nêu trên, Lênin
đà xây dựng hệ thống lý luận về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Dới đây là những vấn đề chủ yếu trong lý luận phân phối của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí của phân phối
* Vị trí của phân phối trong tái sản xuất xà hội
Quá trình tái sản xuất bao gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu
dùng của cải vật chất. Phân phối là một trong 4 khâu đó, nó là một mắt xích
trung gian trong quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất
bao giờ cũng giữ vai trò quyết đinh. Quy mô, cơ cấu và trình độ phát triển của
sản xuất quy định quy mô và cơ cấu của phân phối. Phân phối không thể vợt
5


quá trình độ hiện có của lực lợng sản xuất xà hội. Ngợc lại, nếu phân phối phù
hợp với sự phát triển của sản xuất, có lợi cho việc động viên tính tích cực của
ngời lao động sản xuất, thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, còn nếu không phù
hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất.
Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhau. Trao đổi là sự tiếp
tục của phân phối. Trong kinh tế thị trờng, phân phối đợc thực hiện dới hình
thức giá trị (tiền tệ). Ngời nhận đợc thu nhập tiền tệ đó sẽ biến thành thu nhập
thực tế bằng việc mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trờng. Với một thu nhập
danh nghĩa nhất định sẽ chuyển thành khối lợng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ
lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào giá cả thị trờng. Đó cũng chính là quá trình phân
phối.
Phân phối còn quan hệ mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng hoặc giảm sản
phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến mức độ tiêu dùng. Ngợc lại, cơ

cấu, phơng thức và trình độ của tiêu dùng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hÃm
sự tăng trởng của phân phối.
Nh vậy, phân phối là một khâu độc lập tơng đối trong quá trình tái sản
xuất, nó luôn có tác động qua lại một cách biện chứng với các khâu khác của
quá trình tái sản xuất xà hội. Trong mọi phơng thức sản xuất đều diễn ra sự
phân phối sản phẩm xà hội, nó là một phạm trù kinh tế chung cho mọi xà hội.
* Vị trí của phân phối trong quan hệ sản xuất xà hội
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu về t liệu
sản xuất quyết định. C.Mác đà nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao
hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất " quan hệ phân phối về thực chất cũng
đồng nhất với quan hệ sản xuất nhất định, nó cấu thành mặt sau của quan hệ sản
xuất Êy [5, Tr 634]. Theo Ph. ¡ng ghen th× " Trên những nét chủ yếu của nó,

6


phân phối luôn luôn là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi
trong một xà hội nhất định" [9, Tr 261].
Vì vậy, mỗi phơng thức sản xuất nhất định có quy luật phân phối tơng
ứng với nó. Quan hệ sản xuất nh thế nào, thì quan hệ phân phối cũng nh thế ấy.
Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất và quan hệ
trao đổi hoạt động cho nhau. Khi lực lợng sản xuất biến đổi và do đó quan hệ
sản xuất biến đổi, thì quan hệ phân phối cũng biến đổi. C. Mác viết " Mỗi một
hình thái phân phối đều biến đổi cùng một lúc với phơng thức sản xuất nhất
định tơng ứng với hình thái phân phối ấy và đà đẻ ra hình thái phân phối ấy" [8,
Tr 373]. Và chỉ rõ " phơng thức tham gia nhất định vào sản xuất quy định hình
thái đặc thù của phân phối, quy định hình thái theo đó ngời ta tham dự vào phân
phối" [ 7, Tr 870]. Phân phối là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ
sở hữu và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Phân phối đợc hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Phân phối theo

nghĩa rộng là phân phối tổng sản phẩm xà hội, nó bao gồm phân phối các yếu
tố sản xuất và phân phối t liệu tiêu dùng. Phân phối yếu tố sản xuất bao gåm t
liƯu s¶n xt, nã cã tríc s¶n xt, đồng thời tiếp tục phát sinh trong quá trình
sản xuất. Trớc khi sản xuất, cần phải phân phối các yếu tố sản xuất cho các
ngành và các doanh nghiệp khác nhau để sản xuất các sản phẩm khác nhau.
Không có sự phân phối các yếu tố sản xuất, thì sản xuất không thể diễn ra đợc.
Tính chất phân phối các yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối t liệu
tiêu dùng. C. Mác đà chỉ rõ "Bất kỳ một sự phân phối nào về t liệu tiêu dùng
cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính những điều kiện sản xuất " [2, Tr
36 - 37]. "Phơng thức phân phối t bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những
điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm trong tay những kẻ không lao động dới
hình thức sở hữu t bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu
những điều kiện ngời của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu yếu tố sản xuất đợc
7


phân phối nh thế thì việc phân phối hiện nay về t liệu tiêu dùng tự nó cũng từ
đó nó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của
bản thân ngời lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những t liệu tiêu dùng
khác với sự phân phối hiện nay [2, Tr 37].
b. Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xà hội của C. Mác
Trong tác phẩm " Phê phán cơng lĩnh Gô - ta", khi phê phán quan điểm
của Lát - xan về " thu nhập không bị cắt xén của lao động", C. Mác đà nêu lên
sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xà hội, sơ đồ phân phối ở tầm vĩ mô. Trong tổng
sản phẩm xà hội đó, phải khấu đi:
Một là: phần để thay thế những t liệu sản xuất đà tiêu dùng
Hai là: một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất
Ba là: một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm để đề phòng những tai nạn,
những sự rối loạn do các hiện tợng tự nhiên gây ra vv.....
Những khoản khấu trừ nh thế vào "thu nhập không bị cắt xén của lao

động" là một tÊt u kinh tÕ vµ khÊu trõ nhiỊu hay Ýt là tuỳ theo những t liệu và
những lực lợng sản xuất hiện có, một phần là nhờ lối tính xác suất. Còn lại phần
kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng.
Trớc khi phân phối cho cá nhân, lại còn phải khấu trừ:
Một là, những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất.
Hai là, những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mÃn những nhu cầu,
nh trờng học, cơ quan y tế vv.....
Ba là, quỹ cần thiết để nuôi dỡng những ngời không có khả năng lao
động, vv....., tóm lại là những cái thc vỊ viƯc mµ ngµy nay, ngêi ta gäi lµ cøu
tÕ x· héi cđa nhµ níc.

8


Cuối cùng, bây giờ mới tới cái phần những vật phẩm tiêu dùng đem chia
cho cá nhân những ngời sản xt cđa tËp thĨ. [2, Tr 31 - 32].
Nh vËy, C. Mác đà vạch ra hai bớc phân phối: bớc thứ nhấ là phân chia
tổng sản phẩm xà hội làm sáu khoản phải khấu trừ và toàn bộ t liệu tiêu dùng;
bớc thứ hai là phân phối t liệu tiêu dùng cho những ngời lao động theo nguyên
tắc phân phối theo lao động (sẽ đợc trình bày dới đây).
Một số ngời nghiên cứu cho rằng C. Mác đà không nói rõ các tỷ lệ phân
chia đó. Ông chỉ nói sơ lợc, không nêu cụ thể biện pháp khấu trừ các khoản
trên. Thiết nghĩ rằng những tỷ lệ đó là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nớc ở những giai đoạn phát triển nhất định, do đó không nên đòi hỏi C. Mác
phải giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể cho chúng ta.
Sơ đồ phân phối nêu trên của C. Mác là sơ đồ phân phối vĩ mô, vạch rõ
khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xà hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở
rộng vừa đảm bảo thoả mÃn nhu cầu chung của xà hội và của các cá nhân, cũng
nh sự tiến bộ xà hội.
c. Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác
Khi nghiên cứu nguyên tắc phân phối của CNTB, C. Mác dà chỉ ra rằng

giá trị mới sáng tạo ra đợc phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp các
yếu tố sản xuất: một bộ phận đợc phối cho ngời sở hữu sức lao động theo giá trị
sức lao động, bộ phận khác phân phối cho ngời sở hữu t liệu sản xuất . Do đó
giá trị mới đợc phân thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và địa tô. Tiền công là
thu nhập của ngời lao động và là hình thức thực hiện của quyền sở hữu sức lao
động, lợi nhuận là thu nhập của nhà t bản và là hình thức thực hiện của quyền
sở hữu t liệu sản xuất, còn địa tô là thu nhập của địa chủ và là hình thức thực
hiện của quyền chiếm hữu ruộng đất. Sự phân phối này đợc che đậy bởi nguyên
tắc " trao đổi ngang giá" nên hình nh mọi giao dịch trên thị trờng ®Ịu c«ng
9


bằng. Đó là nguyên tắc phân phối dựa trên quan hệ sở hữu các yếu tố tham gia
vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Về tiền công, C. Mác đà phát hiện ra nguyên tắc có tính phổ biến trong
CNTB là tiền công ở mức tối thiểu. C. Mác đà vạch ra rằng " tiền công là giá cả
của một thứ hàng hoá nhất định - của sức lao động cho nên tiền công cũng đợc
quy định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả các hàng hoá khác....
bởi quan hệ của cung với cầu, của cầu với cung [1, Tr 736 - 737]. Tiền công là
một quan hệ kinh tế diễn ra tại khu vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo C. Mác, "chi phí sản xuất của sức lao động đơn giản quy lại thành chi phí
sinh hoạt của ngời công nhân và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống của anh ta.
Giá cả của những chi phí sinh hoạt và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống đó là
tiền công. Tiền công đợc quy định nh vậy là tiền công tối thiểu" [1, Tr 744]
Là những ngời sáng lập CNXH khoa học, C. Mác và Ph. Ăng ghen đÃ
sáng tạo ra nguyên tắc phân phối theo lao động. Hai ông đà sáng tạo và phát
triển những mầm mống t tởng về phân phối theo lao động của CNXH không tởng và sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao ®éng cđa CNXH khoa häc.
Trong bé " T b¶n",. C. Mác đà bắt đầu khẳng định phơng thức phân phối
mới: lấy lao động làm thớc đo để phân phối, C. Mác chỉ rõ trong thể liên hiệp
của những ngời lao động tự do, " phần t liệu sinh hoạt chia cho mỗi ngời sản

xuất do thời gian lao động của ngời đó quyết định. Trong điều kiện ấy, thời gian
đóng vai trò hai mặt. Việc phân phối thời gian theo một kế hoạch xà hội sẽ quy
định tỷ lệ đúng đắn giữa các chức năng lao động khác nhau và nhu cầu khác
nhau. Mặt khác, thời gian lao động cũng đồng thời dùng để đo phần tham gia
của cá nhân ngời sản xuất vào lao động chung và do đó, cả cái phần tham dự
của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản
phẩm " [4, Tr124 - 125].

10


Tác phẩm "Phê phán cơng lĩnh Gô- ta" của C. Mác đà đánh dấu sự hình
thành lý luận phân phối theo lao động. Nó là sản phẩm của cuộc luận chiến của
C. Mác với chủ nghĩa cơ hội. Trong tác phẩm này, C. Mác nêu lên quan niệm về
xà hội tơng lai và phê phán quan niệm " phân phối công bằng" của bản cơng
lĩnh: " Thu nhập lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xà hội
một cách không bị cắt xén, theo nguyên tắc ngang nhau" [2, tr 28]. Đồng thời
C. Mác đà nêu lên nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân trong CNXH là phân
phối theo lao động.
Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác gồm hai bộ phận: điều kiện
tiền đề để phân phối theo lao động; nguyên tắc và phơng thức phân phối theo
lao động.
Tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động gồm hai mặt liên quan chặt
chẽ với nhau: một là, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong "
giai đoạn đầu của xà hội cộng sản", tức là trong điều kiện lịch sử mà nh C. Mác
đà giải thích " cái xà hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xà hội cộng
sản chủ nghĩa đà phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một
xà hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xà hội t bản chủ nghĩa, do đó là
một xà hội, về phơng diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang dấu vết của
xà hội cũ mà nó đà lọt lòng ra" [2, Tr 33]. Trong điều kiện nh vậy, ngời ta vẫn

còn có lợi ích riêng, cha coi lao động là nhu cầu bậc nhất của con ngời. Hai là,
phân phối theo lao động đợc thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ
công hữu, tức là "trong một xà hội đợc tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa
tập thể, dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất thì những ngời sản xuất
không trao đổi sản phẩm của mình, ở đây, lao động chi phí vào việc sản xuất ra
các sản phẩm cũng không biểu hiện thành ra giá trị của những sản phẩm ấy....,
lao động của các cá nhân tồn tại - không phải bằng một con ®êng vßng nh tríc

11


nữa mà là trực tiếp - với tính cách là một bộ phận cấu thành của tổng lao động"
[2, Tr33]. Nói cách khác, ở đây không có sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Dựa trên những điều kiện tiêu đề đó, C. Mác đà vạch ra những nguyên
tắc và phơng thức phân phối theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là
những ngời lao động, đối tợng phân phối là t liệu tiêu dùng, tức là tổng sản
phẩm xà hội sau khi đà trừ đi 6 khoản (đà nêu trong sơ đồ phân phối tổng sản
phẩm xà hội), căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phơng thức thực hiện
phân phối theo lao động là phiếu lao động. "cùng một lợng lao động mà anh ta
đà cung cấp cho xà hội dới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xÃ
hội dới một hình thức khác [2, Tr 34]. Nh vậy thời gian lao động là thớc đo
khách quan của phân phối, thực hiện trao đổi lao động ngang nhau, sự khác biệt
về lao động, do đó sự khác biệt về thu nhập sẽ tồn tại. "Quyền của ngời sản xuất
tỷ lệ với lao động mà ngời ấy đà cung cấp" [2, Tr 34]. Chỉ đến giai đoạn cộng
sản chủ nghĩa mới có thể thực hiện " làm theo năng lực, hởng theo nhu cầu".
Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C. Mác.
Thứ nhất, trớc sau nhu một, C. Mác coi trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất và chế độ sở hữu do trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đó quyết
định là nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Theo C. Mác, chủ nghĩa xà hội là
nấc thang cao hơn chủ nghĩa t bản có lực lợng sản xuất phát triển, chế độ công

hữu đợc thiết lập, thì sự phân phối t liệu tiêu dùng cho cá nhân tất yếu phải đợc
phân phối theo lao động.
Thứ hai, dới độ công hữu, mọi ngời đều có quyền bình đẳng đối với t liệu
sản xuất. Quyền bình đẳng đó chỉ có thể chuyển hoá thành quyền lợi lao động
bình đẳng, lao động trở thành phơng tiện mu sinh cơ bản nhất, trở thành tiền ®Ị
quan träng ®Ĩ thu ®ỵc lỵi Ých kinh tÕ. Nh vậy, C. Mác đà xác lập cơ sở của mối
liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập, lao động trở thành điều kiện tất yếu để
nhận đợc thu nhËp.
12


Thứ ba, lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự
khác biệt về thu nhập và phủ nhận phân phối bình quân. Nhng sự khác biệt này
chính là sự công bằng trong phân phối, mà không phải là chủ nghĩa bình quân.
C. Mác đà xác định nguyên tắc phân phối trong CNXH, đó là phân phối
theo lao động. Nhng phơng thức phân phối đó đợc thiết kế trên cơ sở giả định
kinh tế hàng hoá đà tiêu vong. Do đó, kinh tế sản phẩm là điều kiện kinh tế xÃ
hội để thực hiện phân phối theo lao động. Nhà nớc trực tiếp tổ chức sản xuất và
phân phối sản phẩm, vì thế việc áp dụng vào thực tiễn cần giải quyết một số vấn
đề thao tác cụ thể.
Nguyên tắc phân phối theo lao động đợc V. I Lênin phát triển trong quá
trình xây dựng CNXH ở Nga. VI Lênin đà nêu ra một cách rõ ràng khái niệm
phân phối theo lao động: Một là, "ngời không lao động thì không đợc ăn", hai
là, " dựa vào lợng lao động ngang nhau lĩnh số sản phẩm ngang nhau." Xuất
phát từ thực tế, ông cho rằng CNXH vừa mới thoát thai từ xà hội cũ mà ra, sự
biến đổi về chất của lao động không thể hoàn thành trong ngày thứ hai sau khi
xây dựng chế độ mới. "....Nếu không rơi vào không tởng thì không thể nghĩ
rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa t bản, thì ngời ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho
xà hội mà không cần phải có tiêu chuẩn pháp quyền nào cả, hơn nữa, việc xoá
bỏ CNTB không thể đem lại ngay đợc những tiền đề kinh tế cho mét sù thay

®ỉi nh vËy [12, Tr 116]. Do ®ã, V.I Lênin đà đề ra phải thực hiện chế độ lao
động nghĩa vụ, thông qua đó mới thực hiện đợc phân phối theo lao động. Vì thế
" ai không làm thì không ăn", đó là điều kiện thực tiễn của CNXH. Phải tổ chức
một cách thực tiễn nh thế đó [13, Tr 244]. Để phân phối đợc hợp lý, cần phải
tính toán và đôn đốc một cách chính xác tỉ mỉ nhất, có tinh thần trách nhiệm
nhất trong phạm vi toàn dân, tức là thực hiện chế độ giám sát và đôn đốc của
công nhân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm.

13


Xuất phát từ thực tiễn, V.I Lênin đà đa ra chÝnh s¸ch kinh tÕ míi thay thÕ
cho chÝnh s¸ch céng sản thời chiến. Ông chủ trơng nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại và thừa nhận CNXH không thể xoá bỏ đợc kinh tế hàng hoá. Quan
hệ hàng hoá - tiền tệ là tiền đề của phân phối theo lao động. V.I Lênin đà nhấn
mạnh sự cần thiết phải thực hiện hạch toán kinh tế; ông cho rằng " sự quan tâm
thiết thân của cá nhân có tác dụng nâng cao sản xuất; trớc hết chúng ta cần phải
đẩy mạnh sản xuất cho bằng đợc [14, Tr 189]. V.I Lênin chỉ ra rằng trong
CNXH, việc phân phối sản phẩm tiêu dùng của ngời lao động không thể đợc
thực hiện theo chế độ phân phối bình quân. Tiền lơng và tiền thởng phải liên hệ
mật thiết với nhau, đồng thời đợc quyết định ở mức độ hoàn thành kế hoạch sản
xuất. Ông phê bình nghiêm khắc việc biến thởng hiện vật thành lối bình quân
phụ thêm vào lơng và đề suất quỹ thởng cần đợc tiến hành phân phối hợp lý,
nên dùng để thởng cho những ngời làm kinh tế có biểu hiện của tinh thần dũng
cảm, chăm chỉ, có trách nhiệm, tài giỏi và hết lòng trung thành. Nh vậy, V.I
Lêin đà gắn trực tiếp thu nhập lao động với thành quả lao động và năng suất lao
động.
1.1.2. Một số lý thut vỊ ph©n phèi trong kinh tÕ häc hiƯn đại
Từ giữa thế kỷ XX lại đây, ở các nớc TBCN đà xuất hiện các lý thuyết
kinh tế học của các trờng phái khác nhau. Dới đây là một số lý thuyết phân phối

của các nhà kinh tế học hiện ®¹i.

14


a) Lý thuyết của trờng phái Kinh tế thị trỡng xà hội ở Cộng hoà liên
bang Đức
Tác giả tiêu biểu của trờng phái này là A. Muller Armack. Theo ông, việc
phân phối kết quả sản xuất cho cá nhân phải tơng xứng với phần đóng góp của
mỗi ngời. Sau đó, thông qua các chính sách xà hội phù hợp mà giúp đỡ cho
những ngời có thu nhập thấp. Phân phối phải đợc thực hiện trên cơ sở công bằng
theo cả chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang
là phân phối phải đảm bảo sự công bằng cho những ngời ngang nhau về đóng
góp lao động, đóng góp vốn. Công bằng theo chiều dọc là tái phân phối từ
những ngời có thu nhập cao sang những ngời có thu nhập thấp hoặc không có
thu nhập [33, tr.408].
Theo họ, công bằng trong phân phối phải đợc thể hiện ở chỗ, một mặt
thực hiện tiền lơng tối thiểu và bảo đảm lơng phân biệt thông qua sự thoả thuận
tự do; mặt khác, thực hiện cân bằng thu nhập, xoá bỏ những khác biệt vô lý
trong thu nhập thông qua các biện pháp đánh thuế, mở rộng hình thức công
nhân có cổ phần trong doanh nghiệp, áp dụng chính sách tăng việc làm, hỗ trợ
cho các nhóm ngời có thu nhập thấp bằng các biện pháp nh u đÃi thuế đối với
các nhà kinh doanh, trả lơng bổ sung cho công nhân căn cứ vào mức thu nhập
thấp, trợ cấp nhà ở, phát triển hệ thống bảo hiểm xà hội. Các quan niệm về phân
phối và yêu cầu thực hiện các chính sách nh trên của trờng phái này nhằm tạo
sự ổn định xà hội - một trong hai mục tiêu chính mà họ đặt ra.
b) Lý thuyết phân phối thu nhập của trờng phái chính hiện đại
Trờng phái chính hiện đại nghiên cứu vấn đề phân phối thu nhập trên cơ
sở quan điểm cơ chế thị trờng có sự can thiệp của nhà nớc. Ngời đứng đầu trờng
phái nµy lµ P. Samuelson, nhµ kinh tÕ häc ngêi Mü.

Theo ông, phân phối thu nhập là một phạm trù kinh tế đề cập đến vấn đề
hàng hoá đợc sản xuất cho ai, định giá các yếu tố sản xuất qua cung-cầu nh thế
nào để quyết định mức thu nhập của mọi ngời? [31, tr. 63]. Những quyết định
lớn về phân phối thu nhập "đợc làm ra tại thị trờng". Hoạt ®éng cđa thÞ trêng cã
thĨ dÉn nỊn kinh tÕ ®Õn sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đạt đợc sản lợng tối
15


đa, nhng nó không nhất thiết phân phối sản lợng đó có thể chấp nhận đợc. Bởi
vậy, nhà nớc cần phải can thiệp vào phân phối thu nhập thông qua các chính
sách phân phối lại [31, tr. 61].
Trên quan điểm đó, họ nêu nguyên tắc phân phối trong cơ chế thị trờng
có sự can thiệp của nhà nớc.
- Nguyên tắc phân phối thu nhập trong cơ chế thị trờng:
Theo họ, phân phối thu nhập đợc quyết định bởi các quan hệ cung và cầu
trên thị trờng. "Chìa khoá" để hiểu nguyên tắc phân phối này là lý thuyết "hàm
sản xuất". P. Samuelson cho rằng, "Hàng hoá đợc sản xuất ra cho ai đợc xác
định bởi mối quan hệ cung-cầu ở thị trờng yếu tố sản xuất. Những thị trờng này
xác định mức lơng, tiền thuê đất, lÃi suất và lợi nhuận, những thứ này đi vào thu
nhập của mọi ngời. Nh vậy, phân phối thu nhập trong nhân dân đợc xác định
bởi số lợng các nhân tố có đợc (giờ công, mẫu đất, vv...) và giá của các nhân tố
đó (mức lơng, tiền thuê đất...)'' [31, tr.54].
Họ dựa vào lý thuyết sản phẩm tăng thêm trên hạn mức (sản phẩm doanh
thu cận biên) để giải thích sự biến đổi của các loại thu nhập. Theo lý thuyết này,
sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động là sản lợng có thêm khi ta bổ
sung thêm 1 đơn vị lao động và giữ nguyên các yếu tố đầu vào khác. Sản phẩm
tăng thêm trên hạn mức của đất đai là sự thay đổi tổng sản phẩm có đợc nhờ bổ
sung thêm 1 đơn vị đất đai, trong khi các nhân tố khác không đổi, vv... Qui luật
vận động của sản phẩm tăng thêm trên hạn mức là ngày càng giảm. Phân phối
thu nhập do đợc giải quyết trên cơ sở sản phẩm tăng thêm trên hạn mức, nên

cũng vận động theo qui luật thu nhập giảm dần.
Tơng tự nh vậy, nếu giữ nguyên số lao động mà chỉ biến đổi một yếu tố
đầu vào khác, chẳng hạn là đất đai, thì số sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của
mỗi đơn vị diện tích đất kế tiếp sẽ giảm xuống, làm cho tiền thuê đất giảm
xuống... Từ quan điểm đó, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại cho rằng tại
mức xác định giao điểm của mỗi lợng cầu víi møc cung cđa mét u tè s¶n
xt, sÏ cã:

16


Tiền công bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động.
Tiền thuê đất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai.
LÃi suất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của t bản
Và tiếp nh vậy cho bất kì yếu tố sản xuất nào.
+ Tiền công và tiền lơng:
Theo các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại, thị trờng lao động cũng
giống nh các thị trờng khác. Tiền công cân bằng có tính cạnh tranh đợc xác
định tại giao điểm của mức cung và mức cầu về lao động (điểm E trên đồ thị 1).
Nếu mức tiền công thấp hơn E thì sẽ xảy ra thiếu lao động và chủ doanh nghiệp
sẽ phải tăng tiền công tới mức E để khôi phục lại sự cân bằng.
Trên đồ thị, Sl là cung về lao động; Dl là cầu về lao động, E là điểm cân
bằng giữa cung và cầu lao động trên thị trờng, tại đây xác định số lợng lao động
cần sử dụng và mức tiền công cân bằng (tiền công thị trờng).
Đồ thị :

Mức tiền công tơng đối trên thị trờng lao động

Tiền công (W)
S1

Wo

E
D1

Lo

Lao động (L)

17


Các nhà kinh tế học trờng phái chính hiện đại quan tâm đến tiền công
thực tế, tức là đến những thứ mua đợc với số tiền công đó, chứ không phải chỉ
quan tâm đến số tiền (mà chúng ta gọi là tiền công danh nghĩa). Theo họ, tiền
công thực tế (Wr) thĨ hiƯn chØ sè møc l¬ng thùc tÕ tÝnh b»ng tiỊn (Wn) chia cho
chØ sè vỊ møc gi¸ chung (P) nh chỉ số về giá hàng tiêu dùng CPI.
Wr = Wn / P
Theo hä, møc tiỊn c«ng thùc tÕ khác nhau giữa các vùng, hoặc ở các thời
kì khác nhau, trớc hết là do hoạt động của mức cung-cầu về lao động, tiếp đến
là do sự biến đổi của các yếu tố đầu vào khác cùng hoạt động nh t bản (vốn), tài
nguyên và trình độ kĩ thuật. Mức tiền công của các lao động khác nhau do chất
lợng đầu vào lao động nh trình độ tay nghề, đào tạo, học vấn và giáo dục quy
định.
Chẳng hạn, nếu hạn chế mức cung bất cứ lao động nào so với sự gia tăng
các yếu tố sản xuất khác thì nhất định mức tiền công sẽ tăng lên. Còn với các
điều kiện khác nh nhau, việc tăng cung về lao động sẽ nảy sinh xu hớng giảm
tiền công.
Giữa nhũng ngời lao động khác nhau cũng có mức tiền công khác nhau.
Chẳng hạn, ngời làm nghề lau cửa sổ nhà cao tầng cần dợc trả tiền công cao

hơn ngời làm nghề gác cổng vì ngời ta không thích nguy hiểm khi trèo lên các
nhà trọc trời. Nghĩa là sự chênh lệch tiền công giữa các nhóm là cần thiết để lôi
kéo lao động vào các nghề "kém hấp dẫn" hoặc "không thích thú". Họ gọi đó là
"sự chênh lệch có tính chất bù trừ". Sự khác nhau về chất lợng lao động là một
yếu tố làm cho mức tiền công khác nhau giữa những lao động. Nếu một ngời
đầu t nhiều thời gian và tiền của vào việc học tập để có một nghề chuyên sâu thì
anh ta sẽ làm việc có năng suất và hiệu quả cao hơn. Do đó, sẽ thu đợc mức tiền
công nhiều hơn so với một ngời không có sự "hi sinh" nh vậy. Trong các nghề
khác nhau, mặc dù không có cạnh tranh, nhng do mức cung và cầu về lao động
18


không giống nhau, ngời lao động không thể dễ dàng chuyển từ nghề này sang
nghề khác (vì rất khó khăn, rÊt tèn kÐm vỊ thêi gian vµ tiỊn cđa cho việc đào
tạo), nên mức tiền công cũng rất khác nhau. Ngoài ra, một số ngời có thiên hớng đặc biệt (danh thủ bóng đá, nghệ sĩ tài ba, bác học...) cịng cã møc thu nhËp
rÊt cao. Tuy nhiªn, theo hä, sự chênh lệch về mức tiền công giữa những ngời và
các nhóm lao động không phải là hoàn toàn cố định. Trong quá trình vận động
của cuộc sống, con ngời có xu hớng chuyển sang các ngành nghề, công việc đợc trả tiền công cao và bỏ những nghề tiền công thấp hơn, làm cho mức tiền
công có xu hớng tụ hội lại.
+ Tiền thuê đất và các tài nguyên khác:
Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là khoản thu nhập mà ngời chủ của
nó phân phối đợc từ sản phẩm xà hội thông qua việc cung ứng đất đai và các tài
nguyên khác vào sản xuất kinh doanh với t cách là yếu tố đầu vào. Khác với các
yếu tố đầu vào khác, mức cung về đất đai và các tài nguyên khác đợc cố định
bởi tự nhiên và không thể tăng lên để đáp ứng với giá đất cao hơn, hay giảm đi
để đáp ứng với giá đất thấp hơn.
Mức tiền thuê đất và các tài nguyên khác đợc xác định trên thị trờng cạnh
tranh, do quan hệ cung - cầu về đất đai và các tài nguyên khác quy định. Nếu
tiền thuê đất tăng lên cao hơn giá cân bằng thì lợng đất đai mà các doanh
nghiệp có nhu cầu sẽ ít hơn lợng đất đai cần có để cung cấp. Điều này sẽ làm

cho một số chủ đất không thể nào cho thuê đợc khu đất của mình. Họ buộc phải
giảm giá thuê đất xuống. Ngợc lại, tiền thuê đất cũng không ở lâu dới điểm cân
bằng. Do cạnh tranh về thuê đất giữa các chủ doanh nghiệp mà tiền thuê đất
tăng lên.
Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là một chi phí sản xuất. Do đó, giá
cả của đất đợc quyết định bởi giá cả sản phẩm thu đợc trên khu đất đó. Tøc lµ

19


giá cả hàng hoá quyết định giá thuê đất chứ không phải giá thuê đất quyết định
giá cả hàng hoá.
+ Lợi tức và lÃi suất:
Lợi tức và lÃi suất là thu nhập của những ngời cung cấp yếu tố đầu vào
của sản xuất bao gồm vốn và tài sản tài chính.
Mức lợi tức là thu nhập ròng mà ngời chủ sở hữu nhận đợc về việc cho
thuê nguồn vốn của mình. Đó là một con số thuần tuý - phần trăm hàng năm
hoặc tính theo đơn vị thời gian. Chẳng hạn, một ngời có một xe tải trị giá 20000
đôla. Sau khi tr¶ hÕt chi phÝ (tiỊn b¶o qu¶n, b¶o hiểm...), số còn lại mà ngời đó
thu đợc là 2000 đôla trong một năm. Khoản tiền thu đợc đó chính là thu nhập
ròng hay mức lợi tức của vốn thu đợc trong năm đó.
Đối với những ngời có tài sản tài chính, việc chuyển tiền cho ngời đầu t
bằng cách cho vay hoặc đi mua trái phiếu và chứng khoán, gửi tiền vào quỹ tiết
kiệm, quỹ hu trí... để cuối cùng chuyển đến những doanh nghiệp và những ngời
thực sự đầu t, sẽ thu đợc lÃi suất. LÃi suất là giá của một ngân hàng, hoặc một
ngời đi vay khác phải trả cho ngời cho vay để đợc sử dụng tiỊn trong mét thêi
gian. TiỊn l·i cã nhiỊu h×nh thøc: lÃi suất dài hạn và ngắn hạn, tuỳ theo thời
gian cho vay; lÃi suất cố định và lÃi suất thay đổi, lÃi suất trái phiếu bảo đảm
cao và lÃi suất "chứng khoán mong manh" của các công ty sắp đổ vỡ...
Mức lợi tức và lÃi suất cũng đợc xác lập bởi cạnh tranh và tình hình cungcầu về vốn và tài sản tài chính trên thị trờng.

+ Lợi nhuận:
Theo các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại, lợi nhuận là sự chênh
lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiƯp (hay lµ cđa mét nỊn kinh tÕ) víi
tỉng sè chi phí (tiền công, tiền lơng, tiền thuê đất, nhà cửa, nguyên vật liệu, lÃi
suất, thuế hàng hoá và các thø kh¸c).
20


Có nhiều nhân tố quyết định lợi nhuận: 1)Thu nhập của chủ doanh nghiệp
về lao động của chính họ hoặc vốn đầu t của chính họ, tức là cácyếu tố sản xuất
mà họ tự cung cấp; 2) Lợi nhuận là khoản tiền thởng cho chủ doanh nghiệp do việc
chịu mạo hiểm, rủi ro trớc nhiều nguy cơ kinh doanh hoặc do sáng tạo, đổi mới sản
phẩm; 3) Độc quyền: thông qua hạn chế mức cung và quy định giá cả, ngời độc
quyền có đợc một khoản tiền lời gọi là thu nhập độc quyền. Đó là thu nhập dôi ra
của một ngời có sức mạnh trên thị trờng.
Nh vậy, tiền công, tiền lơng, tiền thuê đất, tiền lÃi và lợi nhuận là các
khoản thu nhập của các giai cấp, các tầng lớp trong nền sản xuất t bản chủ
nghĩa. Các thu nhập này đều có nguồn gốc từ thu nhập quốc dân. Cơ chế
(nguyên tắc) phân phối thu nhập đợc thực hiện thông qua thị trờng dới tác động
của các quy luật cạnh tranh, cung- cầu...
Tuy nhiên, trong khi đề cao vai trò của thị trờng đối với phân phối thu
nhập quốc dân, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại còn chỉ ra những thất
bại của thị trờng. Theo họ, cơ chế thị trờng có khả năng giải quyết các vấn đề
cái gì và nh thế nào - những vấn đề phân bổ tài nguyên giữa các ngành và việc
lựa chọn kĩ thuật tốt nhất để sản xuất ra những hàng hoá cụ thể. Nhng thị trờng
không có khả năng đặc biệt để tìm ra giải pháp tốt nhÊt ®èi víi vÊn ®Ị cho ai.
Mét nỊn kinh tÕ hiệu quả nhất trên thế giới, vẫn có thể tạo ra sự bất bình đẳng
lớn về phân phối thu nhập [31, Tr 259]. Đó là biểu hiện sự thất bại và sự phân
phối tuỳ tiện của thị trờng [31, Tr 396].
- Sự can thiệp của nhà nớc vào phân phối thu nhập:

Các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại quan tâm đến sự bất bình đẳng
về phân phối thu nhập. Theo họ, nguồn gốc của sự bất bình đẳng này là do sự
khác nhau về năng lực lao động, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn kĩ thuật,
tính chuyên cần chịu khó, và nhất là nguồn tài sản do thừa kế, sáng chế, kinh
doanh mà mỗi ngời có đợc. Do thị trờng là một cơ chế điều tiết không biết ®Õn
21


phạm trù đạo đức và nhân đạo, nên nếu cứ để mặc sự khác nhau giữa mọi ngời
về lao động và tài sản do cơ chế này tự điều tiết thì không thể tránh khỏi sự bất
bình đẳng lớn về thu nhập. Bởi vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nớc vào
phân phối thu nhập.
Mục đích của sự can thiệp này nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về
thu nhập. Muốn vậy, nhà nớc phải thiết lập các chơng trình tác động đến việc
phân phối thu nhập. Thông qua phân phối lại, nhà nớc có thể dành một phần thu
nhập để đảm bảo mức sống tối thiểu về y tế, dinh dỡng và thu nhập nhằm nâng
cao mức sống của ngời nghèo. Nhà nớc phải tiến hành phân phối lại bằng cách
phân bổ gánh nặng thuế khoá giữa những nhóm thu nhập hay giai cấp khác
nhau.
Công cụ để nhà nớc thực hiện phân phối lại thu nhập là thuế luỹ tiến và
hỗ trợ thu nhập. Thuế luỹ tiến là mức thuế đánh vào ngời giàu có tỉ lệ thu nhập
lớn hơn ngời nghèo. Loại thuế này có tính chất phân phối lại thu nhập, chuyển
khả năng tiêu dùng của ngời giàu sang ngời nghèo.
Hệ thống hỗ trợ thu nhập bao gồm giúp đỡ phúc lợi, trợ cấp y tế, bảo
hiểm xà hội, giúp đỡ năng lợng, tem phiếu lơng thực, thuế thu nhập âm (thực
chất là một giải pháp hỗ trợ thu nhập cho ngời nghèo bằng tiền mặt). Hệ thống
này nhằm giúp ngời già, ngời tàn tật, ngời phải nuôi con, bảo hiểm thất nghiệp
cho những ngời không có việc làm. Mục tiêu của hệ thống hỗ trợ thu nhập này
tạo ra một mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại về
kinh tế.

Song, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại cho rằng việc phân phối
lại có thể làm giảm khoảng cách bất bình đẳng trong xà hội, nhng cũng phải trả
giá cho tình trạng không hiệu quả. Nếu chính phủ áp dụng mức thuế luỹ tiến
cao thì cố gắng của ngời đóng thuế giảm xuống, làm giảm tổng thu nhập quốc
dân thực tế. Từ đó, họ nêu quan điểm về mối quan hệ giữa công bằng và hiệu
22


quả. Nếu giảm bớt tình trạng bất bình đẳng là một điều tốt về đạo lí thì nó cũng
đợc ngời ta trả một giá nào đó làm tổn hại một mục tiêu kinh tế khác là hiệu
quả.
Sự phân phối lại " tối u theo Pareto" và nguyên lý " Hàm phúc lợi xÃ
hội" của Bergson và Samuelson
Theo nguyên lý phân phèi tèi u Pareto, nÕu sù thay ®ỉi cđa mét chính
sách phân phối nào đó dẫn đến hoàn cảnh sống của một số ngời trở nên tốt hơn,
đồng thời không làm cho hoàn cảnh sống của một số ngời khác trở nên xấu đi,
thì sự thay đổi này gọi là phân phối "tối u Pareto". Kết luận cuối cùng mà
Pareto muốn rút ra là muốn làm tăng thu nhập của tầng lớp nghèo khổ, thì biện
pháp duy nhất là nâng cao thu nhập quốc dân, việc phân phối lại là vô ích. Theo
nhiều nhà kinh tế, quan điểm đó quá chặt chẽ đối với vấn đề công bằng về phân
phối, vả lại, miễn là có thể làm tăng thu nhập quốc dân mà không làm giảm bớt
phần của ngời nghèo trong thu nhập quốc dân cũng đợc coi là "tối u Pareto".
Tríc Sanuelson, Pigou - ngêi s¸ng lËp ra hƯ thống kinh tế học phúc lợi trong tác phẩm "Kinh tế học phúc lợi" đà trình bầy vấn đề làm thế nào để tăng
phúc lợi xà hội. Theo Pigou, tổng thu nhập quốc dân càng lớn thì phúc lợi càng
lớn, bÊt cø mét sù vËt nµo, nÕu cã thĨ lµm tăng thu nhập quốc dân mà không
làm tổn hại đến số lợng thu nhập tuyệt đối của ngời nghèo, hoặc tăng thêm số lợng thu nhập tuyệt đối của ngời nghèo mà không ảnh hởng đến thu nhập quốc
dân đều sẽ làm tăng phúc lợi kinh tế". Lý luận của Pigou không vạch rõ đợc
quan hệ nội tại giữa hiệu quả và công bằng trong phân phối.
Bergson và Samuelson đà nêu lên " Hàm số phúc lợi xà hội ". Họ cho
rằng hiệu quả kinh tế là điều kiện " cần", còn phân phối hợp lý là điều kiện "

đủ" của lợi ích tối đa. Chỉ có đồng thời đa các nhân tố về phân phối và các nhân
tố chi phối khác vào trong một hàm phúc lợi xà hội và chỉ khi giá trị của hàm
này lớn nhất thì mới đạt đợc tối u hoá phúc lợi xà hội. Công thức hàm phúc lợi
23


x· héi cđa hä lµ W = F (Z1, Z1,.......Zn) trong đó W biểu thị phúc lợi xà hội, F
biểu thị hàm số, Z1, Z2,.......Zn là các nhân tố ảnh hởng đến phúc lợi xà hội nh lợng hàng mà cá nhân tiêu dùng, số lợng các loại lao động, số lợng vốn đợc đa
vào,...Chúng có những tổ hợp khác nhau, nhng khi giá trị của W đạt tối đa thì
phúc lợi xà hội sẽ tối đa. Sự tự do lựa chọn của cá nhân là điều kiện quan trọng
trong quyết định tối đa hoá phúc lợi của cá nhân. Vì thế để làm cho phúc lợi xÃ
hội đạt tối đa, thì chính phủ phải đảm bảo cho sự tự do lựa chọn của cá nhân
mà không nên hạn chế nó.
Nh vậy, kinh tế học trờng phái chính hiện đại đà nêu quan niệm phân
phối thu nhập trong nền kinh tế thị trờng, đà thấy mục đích của sản suất là để
tiêu dùng, phân phối thu nhập là cách thức để phân bổ kết quả sản xuất cho tiêu
dùng của các tầng lớp, giai cấp trong xà hội. Họ đà chỉ ra nguồn để phân phối là
sản lợng do nền kinh tế sáng tạo ra, đợc tiền tệ hoá thành thu nhập quốc dân và
phụ thuộc vào thực tế sản xuất của mỗi nớc ở mỗi thời điểm. Thị trờng là cơ chế
phân bổ công bằng và có hiệu quả nhất thu nhập quốc dân. Nguyên tắc của
phân phối thu nhập là dựa trên sự đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất
và năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp thông qua cơ chế thị trờng. Họ đÃ
gợi ý một nguyên tắc phân phối thu nhập có hiệu quả phải dựa trên cơ chế tự
điều tiết của thị trờng. Đồng thời chỉ ra tính cấp thiết phải có sự can thiệp của
nhà nớc vào phân phối để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập trong
xà hội, trợ giúp ngời nghèo. Lí luận phân phối của trờng phái chính hiện đại đÃ
là một bớc tiến so với lý luận phân phối của các nhà kinh tế thuộc trờng phái trớc đó. Họ đà đặt quan hệ phân phối công bằng với hiệu quả, đà chú ý đến tính
hợp lí của thu nhập xà hội trên nguyên tắc kiên trì u tiên có hiệu quả.
Có thĨ nãi tõ lý thut kinh tÕ häc phóc lỵi của Pigou đến sự phân phối
tối u Pareto và nguyên lý " Hàm số phúc lợi xà hội " của Bergson và

Samunelson là một bớc tiến dài hớng đến "tính hợp lý" của công bằng và hiệu
24


quả trong phân phối thu nhập của xà hội TBCN. Tuy vậy, cho đến nay giữa hai
mục tiêu công bằng và hiệu quả trong phân phối thu nhập của xà hội TBCN vẫn
tồn tại những mâu thuẫn vốn có, cho dù các nhà kinh tế học đà tìm cách làm thế
nào để đạt đợc một sự phân phối tối u trên lý luận.
1.1.3. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối
thu nhập
a) Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về phân phối.
Sau khi giải phóng (năm 1954), miền Bắc nớc ta bớc vào khôi phục và
phát triển kinh tế. Công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế không chỉ nhằm
tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc, mà còn nhằm tạo cơ sở để
đấu tranh thống nhất nớc nhà. Để lÃnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công
cuộc cách mạng này, chủ tịch Hồ Chí Minh đà có nhiều bài nói và viết rất quan
trọng, trong đó Ngời rất quan tâm đến vấn đề phân phối thu nhập.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói (tháng 6/1955), chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng
và Chính phủ đa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính
sách của ta dù có hay đến mấy cũng không thực hiện đợc.
Tham ô, lÃng phí là có tội, mà tham ô lÃng phí gạo cứu đói tội lại càng
lớn hơn; không khác gì gián điệp hại đồng bào đó. Thế là có tội với Đảng và
Chính phủ, đối với nhân dân và đối với nớc bạn. Đó là tội thật to. Các cấp uỷ
Đảng cùng với cán bộ tìm cho ra gốc rễ tham ô, lÃng phí và xử trí đúng mức"
[16, tr. 572].
Xây dựng CNXH từ một nớc nghèo, nông nghiệp lạc hậu, đó là một đặc
điểm "to nhất" của ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rằng đảm bảo ăn no cho
nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nó bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết
của ngời dân. Bởi thế, Ngời nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Ngêi nãi: "§êi

25


×