Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Vai trò của Nhà nước đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.3 KB, 36 trang )

Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài. Việt Nam thực hiện đổi mới, chuyển nền
kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Trong quá trình
đổi mới, Việt Nam đà đạt đợc những thành tựu quan trọng: giữ vững đợc
định hớng XHCN, kinh tế tăng trởng liên tục với tốc độ cao, đời sống nhân
dân đợc cải thiện. Tuy nhiên, sự phân hoá giầu - nghèo có xu hớng gia tăng.
Vấn đề thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, gắn tăng trởng kinh
tế với tiến bộ và công bằng xà hội là một vấn đề vừa cấp bách vừa thờng
xuyên lâu dài và cũng là vấn đề nhạy cảm nhất trong đời sống kinh tế - xÃ
hội ở nớc ta. Để giải quyết vấn đề trên Nhà nớc có vai trò quyết định. Vì
thế, chúng tôi chọn vấn đề " Vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu
nhập trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam " làm đề tài
nghiên cứu.
Tình hình nghiên cứu đề tài. ĐÃ có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về phân phối thu nhập, tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu nghiên cứu
một chính sách phân phối cụ thể, đơn lẻ nh chính sách tiền lơng, chính sách
thuế, chính sách việc làm, chính sách xoá đói, giảm nghèo, các chính sách
thuộc hệ thống an sinh xà hội. Không còn nghi ngờ gì nữa, những nghiên
cứu đó đà góp phần thúc đẩy sự phát triển lý luận phân phối ở những lĩnh
vực riêng biệt. Hiện có rất ít những công trình nghiên cứu sâu có tính chất
khái quát về phân phối thu nhập. Nhà nớc có vai trò quyết định đối với phân
phối và điều tiết thu nhập đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu
quả. Vì thế, cần có những công trình nghiên cứu tổng quát, có tính hệ thống
về vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trờng
định hớng XHCN. Đề tài nghiên cứu này mong góp một phần nào đó giải
quyết vấn đề trên.
Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học. Dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, quan
điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập và thông qua việc phân tích, đánh
giá thực trạng phân phối và điều tiết của Nhà nớc đối với phân phối thu
nhập trong thời gian qua, công trình nghiên cứu này nêu lên những quan


điểm cần quán triệt trong quá trình phân phối và điều tiết thu nhập của Nhà

1


nớc và nêu lên những giải pháp thiết thực để tăng cờng vai trò điều tiết của
Nhà nớc đối với phân phối thu nhập theo định hớng XHCN.
Những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết:
- Phân tích khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân
phối và giá trị khoa học của những quan điểm đó trong điều kiện ngày nay,
làm rõ quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối
thu nhập.
- Làm rõ những nguyên tắc (hình thức) phân phối thu nhập trong kinh
tế thị trờng định hớng XHCN và cơ chế, chính sách phân phối và điều tiết
thu nhập của Nhà nớc.
- Đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập
thông qua việc phân tích, xem xét các chính sách phân phối cơ bản của Nhà
nớc ở nớc ta trong thời gian qua.
- Nêu lên những quan điểm cần quán triệt trong quá trình phân phối
và điều tiết thu nhập của Nhà nớc, các giải pháp tăng cờng vai trò của Nhà
nớc đối với phân phối thu nhập thông qua việc làm rõ phơng hớng và nội
dung tiếp tục cải cách, hoàn thiện các chính sách phân phối.
Đối tợng nghiên cứu. Công trình này nghiên cứu vai trò của Nhà nớc
đối với phân phối thu nhập thông qua việc xem xét, đánh giá sự đổi mới,
các chính sách phân phối thu nhập của Nhà nớc và phơng hớng hoàn thiện
chúng trong thời gian tíi.

2



Đóng góp khoa học của đề tài:
- Làm rõ giá trị khoa học của các quan điểm, nguyên tắc phân phối
thu nhập của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về phân
phối trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN, làm rõ cơ chế phân phối,
điều tiết thu nhập của Nhà nớc.
- Phân tích, đánh giá sát thực tình hình các chính sách phân phối
thông qua đó đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu
nhập trong thời gian qua.
- Nêu lên một số quan điểm có giá trị khoa học và thực tế về phân
phối, điều tiết thu nhập của Nhà nớc và các giải pháp thiết thực nhằm tăng
cờng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập bằng việc tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập trong thời gian tới.
Các tác giả của công trình này đà có nhiều cố gắng trong việc nghiên
cứu một vấn đề phức tạp, tuy nhiên, do hạn chế về trình độ và điều kiện
nghiên cứu, nên chắc chắn cha giải quyết đợc một cách thấu đáo mọi khía
cạnh của vấn đề nêu ra. Các tác giả rất mong nhận đợc những đóng góp quý
giá của các nhà khoa học và đồng nghiệp.

3


Nội dung
Chơng 1
Lý luận về vai trò của Nhà nớc trong
phân phối thu nhập
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phân phối.
Trong tiết này, công trình nghiên cứu một số lý thuyết về phân phối,
đặc biệt lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối.
1.1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối
Trong quá trình phê phán phơng thức phân phối TBCN, C. Mác và

Ph. Ăng ghen đà nêu lên quan điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phối
trong xà hội tơng lai. Hai ông đà vạch ra rằng phân phói là một khâu của
quá trình tái sản xuất và là một mặt của quan hệ sản xuất do quan hệ sở hữu
quyết định. C. Mác chỉ rõ "Bất kỳ một sự phân phối nào về t liệu tiêu dùng
cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính những điều kiện sản xuất"
Quan điểm đó của C. Mác, theo chúng tôi, vẫn giữ nguyên giá trị trong điều
kiện ngày nay.
Trong tác phẩm " Phê phán cơng lĩnh Gô- ta", C.Mác đà nêu lên sơ
đồ phân phối tổng sản phẩm xà hội. Trong đó C. Mác đà vạch ra hai bớc
phân phối: bớc thứ nhất là phân chia tổng sản phẩm xà hội làm 6 phần phải
khấu trừ và toàn bộ t liệu tiêu dùng; bớc thứ hai là phân phối t liệu tiêu dùng
cho ngời lao động theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Sơ đồ phân
phối của C. Mác là sơ đồ phân phối vĩ mô, vạch rõ khái quát việc phân phối
tổng sản phẩm xà hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở rộng vừa đảm bảo
thoả mÃn nhu cầu chung của xà hội và của cá nh©n, cịng nh sù tiÕn bé x·
héi. Cã ngêi cho rằng C. Mác đà không nói rõ các tỷ lệ phân chia. Thiết
nghĩ, không nên đòi hỏi C. Mác phải giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể
cho chúng ta.
C. Mác và Ph. Ăng ghen đà sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao
động, nêu lên nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân trong CNXH là phân
phối theo lao động. Điều kiện tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động
là nó đợc thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ công hữu và ở
giai đoạn đầu của xà hội cộng sản, không có sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Dựa trên điều kiện tiền đề đó, C. Mác vạch ra nguyên tắc và phơng thức
phân phối theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là ngời lao động,

4


đối tợng phân phối là t liệu tiêu dùng, tức là tổng sản phẩm xà hội sau khi

trừ đi 6 khoản, căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phơng thức thực
hiện phân phối theo lao động là phiếu lao động. Thời gian lao động là thớc
đo khách quan để phân phối, sự khác biệt về lao động, do đó sự khác biệt về
thu nhập sẽ tồn tại.
Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C. Mác là ở chỗ: Một
là, trớc sau nh một C. Mác coi trình độ phát triển của lực sản xuất và chế độ
sở hữu là những nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Hai là, dới chế độ
công hữu, mọi ngời lao động đều có quyền bình đẳng đối với t liệu sản
xuất, lao động trở thành điều kiện tất yếu để nhận đợc thu nhập. Nh vậy, C.
Mác đà xác lập cơ sở của mối liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập. Ba
là, lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự khác
biệt về thu nhập và phủ nhận sự phân phối bình quân.
Nguyên tắc phân phối theo lao động đợc V.I Lê nin phát triển trong
quá trình xây dựng CNXH ở Nga. Ông thừa nhận rằng CNXH không thể
xoá bỏ đợc kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là điều kiện của
phân phối theo lao động và nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện hạch toán
kinh tế, gắn trực tiếp thu nhập với thành quả lao động và năng xuất lao
động.
1.1.2. Một sè lý thut ph©n phèi trong kinh tÕ häc hiƯn đại
. Trờng phái kinh tế thị trờng xà hội của CHLB Đức.A. Muller
Armack, đại biểu tiêu biểu của trờng phái này cho rằng việc phân phối kết
quả sản xuất cho cá nhân phải tơng ứng với phần đóng góp của mỗi ngời.
Sau đó, thông qua chính sách xà hội phù hợp mà giúp đỡ cho những ngời có
thu nhập thấp. Phân phối phải đợc thực hiện trên cơ sở công bằng theo cả
chiều ngang và công bằng theo cả chiêù dọc. Công bằng theo chiều ngang
là phân phối phải đảm bảo công bằng cho những ngời ngang nhau về đóng
góp lao động, đóng góp vốn. Công bằng theo chiều dọc là tái phân phối từ
những ngời có thu nhập cao sang những ngời có thu nhập thấp hoặc không
có thu nhập. Theo các nhà kinh tế học Đức công bằng trong phân phối phải
đợc thể hiện ở chỗ, một mặt, thực hiện tiền lơng tối thiểu và đảm bảo tiền lơng phân biệt thông qua sự thoả thuận tự do; mặt khác, thực hiện công bằng

thu nhâp, xoá bỏ sự khác biệt vô lý trong thu nhập thông qua các biện pháp
đánh thuế, hỗ trợ những nhóm ngời có thu nhËp thÊp, ph¸t triĨn hƯ thèng

5


bảo hiểm xà hội... Quan điểm và yêu cầu cần thực hiện các chính sách nh
trên của trờng phái này nhằm tạo ra sự ổn định xà hội.
Trờng phái chính hiện đại nghiên cứu vấn đề phân phối thu nhập trên
cơ sở quan điểm cơ chế thị trờng có sự can thiệp của Nhà nớc. Paul A.
Samuelson, ngời đứng đầu trờng phái này cho rằng phân phối thu nhập đợc
quyết định bởi quan hệ cung và cầu trên thị trờng. Ông cho rằng hàng hoá
đợc sản xuất ra cho ai đợc xác định bởi mối quan hệ cung - cầu ở thị trờng
các yếu tố sản xuất. Những thị trờng này xác định mức lơng, tiền thuê đất,
lÃi xuất và lợi nhuận những thứ này đi vào thu nhập của mäi ngêi. Nh vËy,
ph©n phèi thu nhËp trong nh©n d©n đợc xác định bởi số lợng các nhân tố có
đợc (giờ công, mẫu đất) và giá cả các nhân tố đó(mức lơng, tiền thuê đất...).
Cơ chế (nguyên tắc) phân phối thu nhập đợc thực hiện thông qua thị trờng
dới sự tác động của quy luật cung - cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên, các nhà
kinh tế của trờng phái này cũng thừa nhận rằng thị trờng không có khả năng
đặc biệt để tìm ra giải pháp tốt nhất đối với vấn đề cho ai. Một nền kinh tế
hiệu quả nhất trên thÕ giíi, vÉn cã thĨ t¹o ra mét sù bÊt bình đẳng về phân
phối thu nhập. Vì thế, theo họ, cần có sự can thiệp của Nhà nớc vào phân
phối thu nhập nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng vỊ thu nhËp, n©ng
cao møc sèng cđa ngêi nghÌo. Tuy nhiên, họ lại cho rằng việc phân phối lại
có thể làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng, nhng cũng phải trả cái giá là
tình trạng kém hiệu quả, tức là công bằng và hiệu quả mâu thuẫn nhau.
Sự phân phèi tèi u Pareto cịng kh«ng nãi râ quan hƯ giữa hiệu quả và
công bằng trong phân phối thu nhập. Bergson và Samuelson đà nêu lên "
hàm số phúc lợi xà hội", họ cho hiệu quả kinh tế là điều kiện cần, còn phân

phối hợp lý là điều kiện đủ của phúc lợi tối đa và đà chỉ ra sự tự do lựa chọn
của cá nhân là điều kiện quan trọng để tối đa hoá phúc lợi cá nhân. Nh vậy,
từ hệ số Gini đến phân phối " tối u Pareto" và nguyên lý " hàm số phúc lợi
xà hội " là một bớc tiến dài hớng đến tính hợp lý trong ph©n phèi thu nhËp
cđa x· héi TBCN, nhng đó chỉ là lý thuyết.
1.1.3. Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về
phân phối thu nhập.
Trong các bài nói và viết xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đà nêu lên những quan điểm, t tởng cơ bản về phân phối thu nhập
trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

6


Về mối quan hệ giữa phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân
dân, Ngòi nói " Đời sống vÝ nh con thun, s¶n xt vÝ nh níc. Møc nớc lên
cao thì con thuyền càng nổi lên cao", " muốn sản xuất đợc nhiều phải chú ý
phân phối công bằng". Ngời luôn nhắc nhở cán bộ phải chăm lo thực hiện
phân phối công bằng: " Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng"
Về nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đề nghị phải "làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động".
Ngời giải thích " phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì đợc
phân phối nhiều, lao động ít thì đợc phân phối ít. Lao động khó thì đợc
phân phối nhiều, lao động dễ thì đợc phân phối ít. Không nên có tình trạng
ngời giỏi, ngời kém, việc khó, việc rễ cũng công điểm nh nhau. Đó là chủ
nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân".
T tởng về phân phối thu nhập công bằng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
đợc gắn liền với yêu cầu làm tốt chính sách bảo đảm xà hội. Ngời nói " Hết
sức chăm lo đời sống nhân dân. Phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm,
lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bớc cải thiện việc ăn, mặc, ở,

học, phục vụ sức khoẻ và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú trọng các vùng
bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình các liệt
sĩ, thơng binh, bộ đội, thanh niên xung phong"
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và t tởng của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh về phân phối, Đại hôi VIII của đảng đà khẳng định"
công bằng xà hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý t liệu sản xuất
lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi ngời
đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình"
Đảng ta khẳng định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN phải dựa trên cơ sở mức đóng góp các nguồn lực vào sản
xuất kinh doanh ( lao động, vốn, t liệu sản xuất...) và thực hiện nhiều hình
thức phân phối thu nhập. Đại hội IX của Đảng ®· chØ râ " kinh tÕ thÞ trêng
®Þnh híng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xà hội" và chủ trơng gắn tăng trởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và
công bằng x· héi.

7


1.2. Những nhân tố quyết định phân phối và các nguyên tắc phân
phối trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
1.2.1. Những nhân tố quyết định phân phối
Một là, lực lợng sản xuất ảnh hởng tới phân phối thể hiện ở chỗ sự
phát triển lực lợng sản xuất làm tăng khối lợng của cải vật chất đa vào phân
phối; dẫn đến sự thay đổi hình thức phân phối; quyết định sự biến đổi của
các phơng thức phân phối xà hội. Hai là, chế độ sở hữu có vai trò quyết
định đối với chế độ phân phối, khi chế độ sở hữu thay đổi thì chế độ phân
phối tơng ứng với nó cũng biến đi theo. Ba là, kiến trúc thợng tầng ảnh hởng đến phân phối thể hiện ở chỗ Nhà nớc sử dụng luật pháp để bảo vệ chế
độ sở hữu và quan hệ phân phối của chế độ xà hội đó; hình thái ý thức có

tác động đến phân phối thông qua việc chấp nhận hoặc phủ nhận, từ đó
củng cố hoặc làm suy yếu quan hệ phân phối đó.
1.2.2. Những nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN
a. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN
Lý luận kinh tế phơng Tây cho rằng giữa công bằng và hiệu quả tồn
tại quan hệ thay thế, đợc cái này mất cái kia và thờng chọn hiệu quả làm
mục tiêu u tiên trong phân phối. Một số nhà lý luận lại cho rằng phân phối
không công bằng là điều kiện cần thiết để tạo ra tăng trởng kinh tế nhanh.
Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng nhằm mục đích thực hiện
dân giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để đạt đợc điều
đó phải có một nền kinh tế phát triển cao và chế độ công hữu về t liệu sản
xuất cùng với chế độ phân phối công bằng. Chế độ phân phối đó phải đảm
bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng.
Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong kinh tế thị trờng định
hớng XHCN là sự thống nhất biện chứng. Hiệu quả tạo ra điều kiện vật chất
để thực hiện công bằng, chỉ có không ngừng nâng cao hiệu quả, tăng thêm
của cải, thì phân phối công bằng mới có điều kiện thực hiện và theo đó mà
phát triển. Ngợc lại, phân phối công bằng kích thích hiệu quả. Sự phân phối
công bằng sẽ khơi dậy tính tích cực và sáng tạo của ngời lao động để nâng
cao hiệu quả, tạo ra nhiều của cải cho xà hội. Sự thống nhất giữa hiệu quả
và công bằng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN.

8


b. Những nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN
Nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, xét về cơ cấu thành phần,
cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở các hình thức sở
hữu khác nhau. Nhng sở hữu về t liệu sản xuất lại quyết định quan hệ phân

phối. Vì thế, trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN, phải thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập.
* Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
Nh đà trình bày, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối cơ
bản của CNXH, là đặc trng bản chất của kinh tế thị trờng định hớng XHCN
và là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu về t liệu sản
xuất. Nếu xoá bỏ phân phối theo lao động thì quyền bình đẳng của ngời lao
động đối với t liệu sản xuất thuộc chế độ công hữu trở thành vô nghĩa. Tính
định hớng XHCN của nền kinh tế nớc ta cũng không đợc thĨ hiƯn. Tuy
nhiªn, hiƯn nay mét sè ngêi cho r»ng điều kiện kinh tế để thực hiện nguyên
tắc đó là kinh tế sản phẩm, nhng kinh tế thị trờng đà thay thế kinh tế sản
phẩm, nghĩa là điều kiện cơ sở của phân phối theo lao động không còn tồn
tại. Vì thế, họ cho rằng phân phối theo lao động khó có thể thực hiện đợc
trong nền kinh tế hàng hoá. Quan điểm đó không có cơ sở chắc chắn, không
tin cậy.
Vấn đề còn vớng mắc trong phân phối theo lao động là đo lợng lao
động đóng góp nh thế nào? Trong điều kiện nền kinh tế dựa trên chế độ
công hữu và sản xuất hàng hoá đà tiêu vong, thì lao động của mỗi ngời,
cũng nh của tập thể xí nghiệp không thể trực tiếp mà phải bằng con đờng
vòng mới chuyển hoá thành lao động xà hội cần thiết, phải thông qua sự
đánh giá và quy đổi tự phát của thị trờng. Đảng ta đà vận dụng sáng tạo
nguyên tắc phân phối theo lao động của C. Mác trong điều kiện nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN khi nêu lên quan điểm: thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu.
Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
trong điều kiện lao động nh nhau, những lao động mang lại kết quả ngang
nhau thì đợc trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác
nhau thì đợc trả công khác nhau.


9


Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đợc
thực hiện qua hai khâu ( hai cÊp): Kh©u thø nhÊt, tỉng thu nhËp cđa doanh
nghiƯp trớc hết phải phân chia giữa doanh nghiệp và Nhà níc. Kh©u thø hai,
ph©n phèi thu nhËp trong néi bé doanh nghiệp do doanh nghiệp với t cách
là chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi ngời.
Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đợc thực hiện dới
hình thức tiền lơng, phụ cấp, tiền thởng và phúc lợi tập thể. Về thực chất,
tiền lơng trong hợp đồng lao động là giá cả sức lao động. Nhà nớc quy định
tiền lơng tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp luật nhằm tạo ra lới an
toàn cho ngời lao động. Ngời sử dụng lao động không đợc trả lơng cho ngời
lao động thấp hơn tiền lơng tối thiểu do Nhà nớc quy định. Thu nhập của
ngời lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào
kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản.
Trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, phân phối theo mức
đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và cũng là nguyên tắc phân phối cơ
bản. Ngời sở hữu tài sản dới một hình thức nào đó là nhằm tham dự vào
phân phối dới hình thức tơng ứng, bất kỳ một sự chiếm hữu nào đối với t
liệu sản xuất đều nhằm nhận đợc thu nhập. Sở hữu phải đợc thực hiện về
kinh tế, nếu không sở hữu sẽ mất ý nghĩa kinh tế. Vì thế, ngời sở hữu vốn
và t liệu sản xuất góp vào sản xuất phải nhận đợc thu nhập dới hình thức
nào đó. Vả lại, vốn và t liệu sản xuất là những yếu tố đầu vào của sản xuất,
tuy chúng không tạo ra giá trị mới, nhng có tác dụng nhất định trong quá
trình tạo ra của cải xà hội. Với ý nghĩa đó, kết quả sản xuất kinh doanh phải
đợc phân phối theo mức đóng góp các yếu tố đó. Vì thế, phân phối theo vốn
đóng gãp lµ mét tÊt yÕu vµ cã ý nghÜa thùc tế, vì chỉ có thừa nhận hình thức
phân phối này mới huy động đợc mọi nguồn vốn trong xà hội vào phát triển

kinh tế.
Phân phối theo mức đóng góp vốn đợc thực hiện dới hình thức lợi
nhuận, lợi tức cổ phần, lợi tức.
* Phân phối thông qua phúc lợi xà hội
Phân phối thông qua phúc lợi xà hội cũng là một nguyên tắc phân
phối trong kinh tế thị trờng định híng XHCN. Nã cã ý nghÜa quan träng,
gãp phÇn thùc hiện công bằng xà hội, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa
các tầng lớp dân c, nâng cao mức sống của nhân dân, đặc biệt là những ngời

10


có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con ngời phát triển toàn diện, giáo dục ý
thức cộng đồng. Đảng ta chủ trơng gắn tăng trởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xà hội. Vì thế cần phải xây dựng và sử dụng hợp lý các quỹ phúc
lợi xà hội và tập thể.
3.1. Vai trò điều tiết của Nhà nớc trong phân phối thu nhập.
1.3.1. Vai trò của Nhà nớc trong phân phối thu nhập quốc dân
Vai trò của Nhà nớc trong phân phối là một trong những chức năng
kinh tế của Nhà nớc. Bất kỳ Nhà nớc nào cũng đều can thiệp vào phân phối
thu nhập trong xà hội. Nhà nớc XHCN có nhiệm vụ tổ chức sản xuất và đời
sống cho hàng chục triệu ngời theo một kế hoạch chung thống nhất, vì thế,
vai trò của Nhà nớc trong phân phối thu nhập đợc tăng cờng.
Mục tiêu cơ bản của sự điều tiết của Nhà nớc XHCN đối với phân
phối thu nhập là đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Sự
điều tiết phân phối thu nhập cần phải : (1) điều tiết phân phối thu nhập phải
có lợi cho việc giữ vững sự ổn định chính trị - xà hội ; (2) điều tiết phân
phối thu nhập phải có tác dụng kích thích nâng cao hiệu quả kinh tế - xÃ
hội; (3) trên cơ sở thừa nhận sự khác biệt về thu nhập cá nhân, điều tiết
phân phối thu nhập phải làm cho sự khác biệt đó ở mức độ vừa phải, có thể

chấp nhận đợc. Để thực hiện mục tiêu trên, Nhà nớc cần phải:
- Nhà nớc xác định định hớng phân phối thu nhập quốc dân hay là
xây dựng kế hoạch tổng thể về phân phối. Nó có tác dụng điều tiết vĩ mô
đối với phân phối, duy trì cân bằng tổng lợng của phân phối thu nhập quốc
dân, làm căn cứ cho các quyết sách về tiền lơng, trợ cấp tài chính, an sinh
xà hội, điều chỉnh giá cả, vv....
- Nhà nớc xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách về phân
phối bao gồm chính sách tiền lơng, chính sách thuế, chính sách BHXH,
chính sách cứu trợ xà hội. Chúng tạo thành cơ chế điều tiết tổng hợp thu
nhập quốc dân.
- Nhà nớc thông qua sự phối hợp đồng bộ cơ chế, chính sách phân
phối thực hiện điều tiết thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Điều hành
phân phối thu nhập phải lấy biện pháp kinh tế là chính, tuy nhiên cần dựa
vào sức mạnh của luật pháp và thông qua các quyết định, nghị định của
Chính phủ để quy định những nguyên tắc cơ bản và chính sách phân phối
cụ thể, chúng là chuẩn mực luật pháp cho hoạt động phân phối.

11


1.3.2. Cơ chế và chính sách phân phối thu nhập của Nhà nớc
Cơ chế và chính sách phân phối thu nhập quốc dân trong nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN đợc thực hiện bởi thị trờng và Nhà nớc, đó là cơ
chế hỗn hợp. Trong cơ chế đó, thị trờng điều tiết phân phối thu nhập bằng
hệ thống giá cả các yếu tố sản xuất do quan hệ cung - cầu về các yếu tố đó
quyết định. Tiền lơng, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, tiền thuê đất... là thu
nhập của các chủ sở hữu sức lao động, vốn và các tài sản thông qua cơ chế
thị trờng. Tuy nhiên, cơ chế thị trờng không thể phân phối thu nhập một
cách công bằng, vì thế, Nhà nớc phải thực hiện chức năng phân phối thu
nhập sao cho đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả.

Để can thiệp vào phân phối, Nhà nớc phải sử dụng các công cụ, đó là
các chính sách về phân phối.
- Chính sách tiền lơng là một trong những chính sách quan trọng
trong hệ thống các chính sách phân phối, nó liên quan trực tiếp đến đời
sống của hàng chục triệu ngời, đến động lực tăng trởng và phát triển kinh
tế. Việc thực hiện chính sách tiền lơng có liên quan hệ mật thiết đến những
cân đối lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa việc làm và thu nhập,
giữa cung và cầu về lao động, giữa khu vực hành chính sự nghiệp và sản
xuất kinh doanh, giữa kinh tế và xà hội,....Vì tính chất quan trọng và các
mối quan hệ đó, Đảng và Nhà nớc ta rất coi trọng chính sách tiền lơng. Đại
hội IX của Đảng đà nêu rõ " cải cách cơ bản chế độ tiền lơng cán bộ, công
chức theo hớng tiền tệ hoá đầy đủ tiền lơng; điều chỉnh tiền lơng tơng ứng
với nhịp độ tăng thu nhập trong xà hội"
- Chính sách giá cả. Một trong những chức năng của giá cả trong nền
kinh tế thị trờng là chức năng phân phối lại. Cơ chế giá cả gắn liền với
quyết sách kinh tế vĩ mô và thu chi của cá nhân. Sự biến động của tổng mức
giá cả là sự biểu hiện tập trung của sự phù hợp hay không giữa tổng cung và
tổng cầu, và phân phối thu nhập quốc dân có cân bằng hay không. Nhà nớc
có thể thông qua điều tiết tổng mức giá để điều tiết phân phối thu nhập
quốc dân. Giá cả cũng ảnh hởng đến phân phối thu nhập cá nhân. Trong
kinh tế thị trờng, ngời lao động phải chuyển thu nhập bằng tiền của mình
thành t liệu sinh hoạt thông qua thị trờng. Vì vậy, ổn định sức mua của
đồng tiền, ổn định giá cả đợc coi là một chính sách quan trọng trong hệ
thống chính sách phân phối. Để thực hiện điều đó, Nhà nớc phải kiểm soát
đợc lạm phát.

12


- Chính sách tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống

chính sách phân phối, là công cụ chủ yếu để Nhà nớc chủ động phân phối
và điều tiết thu nhập quốc dân. Tài chính thông qua phân phối lần đầu và
phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân tạo cơ sở tài
chính của Nhà nớc để Nhà nớc thực hiện các chức năng của mình. Chính
sách tài chính điều hoà các quan hệ phân phối lợi ích cơ bản giữa Nhà nớc,
doanh nghiệp và ngời lao động, giữa trung ơng và địa phơng, giữa các địa
phơng, giữa các nghành, giữa các tầng lớp dân c. Chính sách tài chính, một
mặt, thông qua thu chu của NSNN điều tiết cân bằng tổng thể của nền kinh
tế, cân bằng cung - cầu xà hội, mặt khác, thông qua các hình thức cụ thể
của cơ chế tài chính nh thuế, trợ cấp,.... nhằm điều tiết hành vi của các chủ
thể kinh tế, điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân c.
Chính sách tài chính có vai trò quan trọng nh vậy, nên Đại hội IX của
Đảng yêu cầu phải hoàn thiện chính sách tài chính quốc gia theo hớng"
thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và
phân phối lại thu nhập trong xà hội"
1.3.3. Điều tiết của Nhà nớc đối với thu nhập cá nhân
Nhà nớc điều tiết thu nhập cá nhân thông qua các chính sách:
Chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp, đợc coi là công cụ điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân c,
giữa các đơn vị kinh tế để tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng
xà hội, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao đà đợc ban
hành và thực hiện từ năm 1991, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế
thuế lợi tức năm 1999
- Chính sách việc làm. Ngời lao động không có việc làm không chỉ bị
tớc mất quyền bình đẳng đợc làm việc để phát huy năng lực của mình, mà
còn không có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Vì thế, Nhà nớc phải có
chính sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho ngời
lao động. Đảng ta khẳng định bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là mục
tiêu xà hội hàng đầu.
- Chính sách bảo đảm xà hội là chính sách điều tiết thu nhập cá nhân

nhằm cải thiện đời sống của những ngời có hoàn cảnh khó khăn, giảm mức
chênh lệch giàu nghèo, ổn định và phát triển kinh tế - xà hội. Chính sách
bảo đảm xà hội bao gồm chính sách bảo hiểm xà hội (kể cả bảo hiểm y tế)
nhằm giúp đỡ về vật chất cho những ngời lao động khi họ tạm thời hoặc

13


vĩnh viễn mất cơ hội lao động và chính sách cứu trợ xà hội nhằm giúp đỡ
những ngời gặp phải những khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống vợt
qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng ®ång.

14


Chơng 2
Thực trạng vai trò điều tiết của Nhà nớc ®èi
víi ph©n phèi thu nhËp trong thêi gian qua ë
níc ta
2.1. Thực trạng các chính sách phân phối thu nhập trong thời
gian qua.
Sự điều tiết của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập là một vấn đề
rộng lớn, phức tạp. ở đây, nó đợc xem xét, đánh giá qua thực trạng các
chính sách phân phối thu nhập.
2.1.1. Thực trạng chính sách tiền lơng
Chính sách tiền lơng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân phối
thu nhập. Có thể nói nó là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xà hội,
đạo đức, công bằng xà hội. Vì thế, Đảng và nớc ta luôn coi trọng chính sách
tiền lơng, từ năm 1993 đến nay đà 4 lần điều chỉnh mức lơng tối thiểu.
Năm 1993 Nhà nớc thực hiện cải cách chính sách tiền lơng. Mục tiêu

chính sách tiền lơng tối thiểu năm 1993 là tạo ra lới an toàn cho ngời lao
động trong cơ chế thị trờng; làm căn cứ để xây dựng hệ thống trả công lao
động cho các khu vực, ngành nghề, tính mức lơng cho các loại lao động,
làm cơ sở cho thoả thuận ký kết hợp đồng lao động giữa ngời lao động và
ngời sử dụng lao động. Đánh giá khách quan và tổng quát về cải cách và
điều chỉnh tiền lơng ở níc ta trong thêi gian qua, chóng ta thÊy:
VỊ mỈt tích cực:Thứ nhất, mức lơng tối thiểu năm 1993 và việc điều
chỉnh tiền lơng tối thiểu theo mức độ trợt giá đà tăng thu nhập cho ngời lao
động làm công ăn lơng, cải thiện đời sống của họ. Tiền lơng tối thiểu đÃ
tạm đợc coi là lới an toàn cho ngời lao động làm công ăn lơng trong xà hội.
Chế độ tiền lơng đó phù hợp với khả năng của nền kinh tế còn thấp kém và
gánh nặng đảm bảo x· héi lín cđa níc ta. Thø hai, tiỊn l¬ng tèi thiĨu cïng
víi viƯc më réng béi sè tõ 1- 3,5 lên 1- 10 đà khắc phục ở mức độ nhất định
tính chất bình quân trong chế độ tiền lơng, bớc đầu tiếp cận đợc với nguyên
tắc phân phối theo lao động. Thứ ba, bớc đầu hình thành hệ thống lý luận
mới về tiền lơng trong điều kiện kinh tế thị trờng. Điểm thay đổi cơ bản
trong cải cách tiền lơng năm 1993 là tiền tệ hoá tiền lơng và thay đổi cơ cấu
tiền lơng đà xoá bỏ về cơ bản chế độ bao cấp; tách tiền lơng khu vực s¶n
xt kinh doanh tù lo ngn trang tr¶i víi khu vùc hëng l¬ng tõ NSNN. Thø

15


t, tạo điều kiện đơn giản hoá tổ chức lao động và trả lơng. Tiền lơng tối
thiểu đà trở thành căn cứ để xây dựng các mức lơng tối thiểu theo ngành,
vùng, hệ thống tiền lơng trong các khu vực, tạo cơ sở cho sự thoả thuận về
tiền lơng trong hợp đồng lao động; tạo điều kiện thúc đẩy hình thành và
phát triển thị trờng lao động.
Về mặt hạn chế: Thứ nhất, mức tiền lơng tối thiểu đặt ra thấp, không
đủ chi phí cho nhu cầu thiết yếu của ngời lao động và chậm đợc điều chỉnh.

Thứ hai, tiền lơng tối thiểu đợc áp dụng chủ yếu đối với những đối tợng hởng lơng từ NSNN, khu vực kinh tế Nhà nớc và khu vực có vốn đầu t nớc
ngoài, nên tác dụng của nó bị hạn chế, cha thực sự trở thành lới an toàn cho
những ngời lao động trong toàn xà hội. Thứ ba, cha phân biệt tiền lơng thấp
nhất của cán bộ công chức hởng lơng từ NSNN víi tiỊn l¬ng tèi thiĨu cđa
khu vùc cã quan hệ lao động theo cơ chế thị trờng. Thứ t , tiền lơng tối thiểu
chậm đợc điều chỉnh cho phù hợp với mức độ trợt giá và tăng trởng kinh tế,
nên tiền lơng thực tế có xu hớng giảm. Thứ năm, việc điều chỉnh tiền lơng
vẫn cha có tính chủ động, mà thờng do "áp lực xà hội " và vẫn coi nó là
gánh nặng của NSNN, biến tiền lơng thành phạm phù phân phối cho tiêu
dùng cá nhân đơn thuần, và cha coi tiền lơng là đầu t cho nguồn nhân lực.
2.1.2. Thực trạng chính sách thuế đối với phân phối thu nhập
Chính sách thuế là một trong những chính sách chủ yếu về phân phối.
Một trong những chức năng cơ bản của thuế là chức năng phân phối tổng
sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Chức năng đó liên quan chặt chẽ
với chức năng điều tiết kinh tế và thực hiện công bằng xà hội.
Qua cải cách thuế, hệ thống chính sách thuế Việt Nam đà đợc đổi
mới về cơ bản, hình thành một hệ thống thuế thống nhất, đợc luật hoá, bao
gồm Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) thay thế thuế doanh thu, Luật th
thu nhËp doanh nghiƯp thay thÕ th lỵi tøc, Lt thuế tiêu thụ đặc biệt,
Luật thuế xuất, nhập khẩu, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Pháp lệnh
thuế thu nhập ®èi víi ngêi cã thu nhËp cao, Ph¸p lƯnh phÝ và lệ phí.
Thuế GTGT là thuế đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ tiêu
dùng tại Việt Nam; đối tợng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, thuế GTGT bao quát hết các
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, nên đà điều tiết trên một
phạm vi rộng các nguồn thu nhập, do đó tạo nguồn thu lớn, ổn định, kịp
thời cho NSNN.

16



Th thu nhËp doanh nghiƯp ®· thay thÕ cho th lợi. Luật thuế này
quy định mọi cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có
thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập; thu nhập chịu thuế là toàn bộ thu
nhập của cơ sở nhận đợc sau khi trừ đi các khoản chi phí để tạo ra thu nhËp
®ã. Qua thùc hiƯn lt th thu nhËp doanh nghiệp số thu về thuế thu nhập
doanh nghiệp tăng dần qua các năm, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong
tổng số thu về thuế và phí: năm 1999 là 18,3%, năm 2000 là 24%, năm
2001 là 25,4%. Chính sách thuế thu nhập đà thực sự trở thành công cụ điều
tiết thu nhập, động viên nguồn thu tơng đối lớn vào NSNN, góp phần đảm
bảo công bằng trêm phạm vi toàn xà hội.
Pháp lênh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao đợc ban hành
nhằm góp phần thực hiện công bằng xà hội, động viên một phần thu nhập
của những ngời có thu nhập cao vào NSNN. Pháp luận này quy định mọi
công dân Việt Nam có thu nhập và ngời nớc ngoài làm việc tại Việt Nam có
thu nhập đều phải nộp thuế với các mức thuế suất luỹ tiến từng phần. Tuy
nhiên thuế thu nhập đối với ngêi cã thu nhËp cao cã hai biÓu thuÕ suÊt: một
biểu áp dụng cho ngời Việt Nam và một biểu áp dụng cho ngời nớc ngoài
với mức khởi điểm chịu thuế khác nhau. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
ngời có thu nhập cao là công cụ của Nhà nớc để giảm sự chênh lệch về thu
nhập giữa các tầng lớp dân c.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế tiêu dùng đánh vào một số
hàng hoá, dịch vụ đặc biệt. Mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt là hớng vào
việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp có thu nhập cao khi tiêu dùng hàng
hoá, dịch vụ đặc biệt, thực hiện điều tiết thu nhập công bằng, hợp lý.
Nh vậy, qua hai đợt cải cách thuế, hệ thống thuế của nớc ta đà hình
thành tơng đối đầy đủ các sắc thuế cần thiết và đà thể hiện rõ vai trò của nó
đối với phân phối thu nhập. Có thể nêu lên những kết quả sau đây: Một là,
việc đổi mới hệ thống thuế đà làm tăng nguồn thu cho NSNN, số thu về
thuế và phí tăng nhanh qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu

trong nớc, Hai là, hệ thống chính sách thuế đợc áp dụng chung thống nhất
cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân c đà tạo nên sự bình đẳng và
công bằng về nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nớc. Ba là, thông qua chính
sách miễn gi¶m thuÕ GTGT, thuÕ thu nhËp, thuÕ xuÊt, nhËp khÈu... và sự u
đÃi về thuế đối với một số đơn vị kinh tế mới thành lập, đầu t chiều sâu, c¸c

17


đối tợng thuộc chính sách xà hội... đà thể hiện vai trò của thuế đối với điều
tiết thu nhập và thực hiện công bằng xà hội.
Tuy nhiên hệ thống thuế Việt Nam còn những hạn chế : Một là,
phạm vi tác động của chính sách thuế còn bị hạn chế. Hệ thống chính sách
thuế còn cha bao quát đợc hết các nguồn thu đà phát sinh trong quá trình
phát triển kinh tế thị trờng nh thuế thu nhập cha đánh trên thu nhập chuyển
nhợng cổ phần, chuyển nhợng tài sản....; thuế thu nhập cá nhân chỉ mới
đánh vào những con ngêi cã thu nhËp cao, nªn diƯn chùu th hĐp. Hai là,
tính công bằng của hệ thống thuế cha cao. Tû träng th trùc thu trong tỉng
thu vỊ th, phÝ nhỏ hơn thuế gián thu cho thấy mức độ công bằng về thuế
giữa các tầng lớp xà hội còn bị hạn chế. Thuế thu nhập cá nhân mới chỉ
điều tiết đối với các cá nhân có thu nhập cao, chứ cha điều tiết đối với đại
bộ phận dân c, còn có sự phân biệt mức khởi điểm chịu thuế giữa ngêi ViƯt
Nam vµ ngêi níc ngoµi. Ba lµ, th thu nhập doanh nghiệp còn có sự phân
biệt doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, còn
có sự u đÃi về thuế đối với các DNNN làm giảm tính cạnh tranh của chúng.
Bốn là, hệ thống thuế hiện nay còn nhiều điều cha phù hợp với thông lệ
quốc tế, nổi bật là những quy định về thuế nhập khẩu, việc bảo hộ thuế còn
tràn lan, thiếu trọng điểm.
2.1.3. Thực trạng một số chính sách xà hội
* Chính sách việc làm

Vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn của nớc
ta là hết sức trần trọng vì thế, Đảng và Nhà nớc đặc biệt quan tâm đến chính
sách giải quyết việc làm. Chính phủ đà thông qua Chơng trình quốc gia về
việc làm với ba hớng cơ bản: phát triển kinh tế tạo nhiều chỗ làm việc; cố
gắng giữ chỗ làm việc đà có; hỗ trợ cho ngời muốn tìm kiếm việc làm. Chơng trình này đà đợc cụ thể hoá bằng các Nghị quyết, Nghị định của Chính
phủ, Thông t liên Bé vµ thµnh lËp Q qc gia vỊ viƯc lµm.
Nhê có chính sách đúng đắn và sự tham gia tích cực của các tổ chức
và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đà có chuỷen biến tích cực. Trong
giai đoạn 1991 - 2000 đà huy động đợc 57 tỷ USD vốn đầu t, nhờ đó tạo
thêm việc làm. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hình thành năm 1992 ®Õn
nay ®· cã kho¶ng 2000 tû ®ång, doanh sè cho vay là 4000 tỷ đồng, thu hút
đợc 3 triệu lao động. Từ năm 1991 - 2001 số ngời có việc làm ở nớc ta tăng

18


từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng khoảng
2,9%.
Những thành tựu về việc làm nói trên bắt nguồn từ đờng lối đổi mới
của Đảng, đổi míi t duy trong lÜnh vùc lao ®éng - viƯc làm phù hợp với
kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nhà nớc tạo điều kiện thuận lợi khuyến
khích các thành phần kinh tế phát triển, khuyến khích ngời lao động tạo
việc làm cho mình và thu hút lao động xà hội. Tuy nhiên, việc giải quyết
việc làm cũng còn những hạn chế, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc
làm ở nông thôn còn cao, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động
qua đào tạo còn thấp.
* Chính sách xoá đói giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xà hội cơ bản.
Đảng ta chủ trơng khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm
nghèo. Và xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những chơng trình

phát triển kinh tế - xà hội vừa cấp bách trớc mắt vừa cơ bản lâu dài. Chủ trơng đó đợc cụ thể hoá bằng các chính sách, Nghị quyết, Nghị định của
Chính phủ, các thông t liên Bộ.
Chính phủ đà đa ra và thực hiện nhiều chơng trình, dự án tham gia
thực hiện xoá đói giảm nghèo nh chơng trình 135, dự án trồng 5 triệu ha
rừng, chơng trình 773, chơng trình quốc gia về việc làm, chơng trình giáo
dục - đào tạo, chơng trình y tế, chơng trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các
chơng trình, dự án quốc tế có mục tiêu tham gia xoá đói giảm nghèo.... Nhờ
thực hiện các chơng trình đó đà huy động các nguồn lực góp phần phát triển
kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là ngời nghèo. Tỷ lệ đói nghèo
giảm nhanh (theo tiêu chuẩn Việt Nam ) từ 30% năm 1992 xuống còn 11%
năm 2000. Nếu theo tiêu chuẩn mới, thì tỷ lệ nghèo đói năm 2000 là
17,5%, năm 2001 là 16%, năm 2002 là 14,3%. Tỷ lệ nghèo đói giảm đi ở cả
thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo ở nớc ta còn cao, sự phân hoá giầu nghèo
trong xà hội cũng ngày càng tăng, tỷ lệ suy dinh dỡng ở trẻ em còn lớn, tỷ
lệ tái đói nghèo còn cao.
* Chính sách bảo hiểm xà hội
BHXH là một bộ phận cơ bản của hệ thèng an sinh x· héi. Trong thêi
gian qua, hÖ thèng BHXH đợc đổi mới và hoàn thiện, tập trung vào 4 lÜnh
vùc chđ u; b¶o hiĨm x· héi , b¶o hiểm y tế, bồi thờng tai nạn lao động và

19


chính sách trợ cấp thôi việc. Chính sách bảo hiểm xà hội trong thời gian qua
đà đợc đổi mới theo hớng mở rộng đối với ngời lao động thuộc các thành
phần kinh tế (năm 2002 số lao động tham gia bảo hiểm gấp 2 lần năm
1995); thực hiện nguyên tắc cùng chia sẻ trách nhiệm về BHXH và BHYT:
ngời lao động và ngời sử dụng lao động đều có trách nhiệm đóng góp vào
hai quỹ đó, do đó đà giảm đáng kể gánh nặng cho NSNN về BHXH và

BHYT, số thu BHXH tăng lên (năm 2002 số thu BHXH gấp 3 lần số thu
1996); việc tách hai quỹ BHXH và BHYT Việt Nam đà bắt đầu hoạt động
có hiệu quả.
Tuy nhiên, mặc dù đối tợng tham gia bảo hiểm xà hội có tăng, nhng
nhìn chung còn rất hạn chế. Trong tổng số gần 40 triệu lao động ở nớc ta
đến nay chỉ mới có 12,6% lực lợng lao động tham gia BHXH, q BHXH
cßn thÊt thu lín, chi cho BHXH vÉn chđ u chi tõ NSNN chiÕm trªn 80%.
* ChÝnh sách trợ cấp Nhà nớc
Trợ cấp Nhà nớc là một trong những bộ phận hợp thành của hệ
thống an ninh xà hội nhằm đảm bảo cho những ngời yếu thế trong xà hội có
thể vợt qua đợc khó khăn, có đợc cuộc sống bình thờng. Chính sách trợ cấp
Nhà nớc bao gồm chính sách trợ cấp đột xuất và chính sách trợ cấp thờng
xuyên. Đảng và Nhà nớc ta luôn đặc biệt quan tâm đến công tác cứu trợ xÃ
hội, điều đó thể hiện qua việc ban hành một loạt các văn bản về cứu trợ xÃ
hội, nguồn NSNN hàng năm luôn dành tỷ lệ cao cho công tác này (khoảng
3 - 5% tổng chi NSNN cả Trung ơng và địa phơng). Do đó, trong thời gian
qua, chính sách trợ cấp của Nhà nớc đà thực sự là chỗ dựa, cu mang cho
nh÷ng ngêi thc nhãm ngêi u thÕ, gióp họ ổn định cuộc sống, hoà nhập
với xà hội.
2.2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với sự
điều tiết của Nhà nớc về phân phối thu nhập.
2.2.1. Thu nhập và mức sống
Sau 17 năm thực hiện đờng lối của Đảng, tình hình kinh tế - xà hội đÃ
có những chuyển biến sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế nớc ta tăng trởng
liên tục với tốc độ cao, GDP tăng bình quân hàng năm thời kú 1986 - 1990
lµ 3,9%, thêi kú 1991 - 1995 là 8,2%, thời kỳ 1996- 2000 là 7% thấp hơn
thời kỳ 1991 - 1995 là do khủng hoảng tài chính khu vực, năm 2001 là
6,89% và năm 2002 là 7,04% đây là tốc độ tăng cao thuế hai ở khu vực
Châu á - Thái Bình Dơng chỉ sau Trung Quốc. Kết thúc năm 2000, GDP


20



×