Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tiếp cận hội họa - từ góc nhìn đương đại - Bài 3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.93 KB, 7 trang )

Tiếp cận hội họa - từ góc nhìn
đương đại
Bài 3: Nhân đọc “Phê bình bị phê bình nhiều nhất” (*), ghi chú về
phê bình

Nguyên Hưng


Về công việc phê bình và nhà phê bình, trong bài viết “Phê bình bị
phê bình nhiều nhất” đăng trên tạp chí Tia Sáng số tháng 9-2007(*),
Nguyễn Bỉnh Quân đã viết, đại ý: nhà phê bình chỉ là chuyên gia “ẩm
thực nghệ thuật” theo kiểu“ ăn món ấy, ở hàng ấy thấy ngon và “giá cả
hợp lý” thì phát ngôn ra cho mọi người biết”; tài năng phê bình chủ yếu
thể hiện ở “khẩu vị”, ở cảm nhận và chỉ có thể là của “trời cho”,
“không học mà có được”…; tư cách của nhà phê bình, bên cạnh là “tâm
giao” của tác giả với một vài bạn đọc còn là nhà giáo dục thẩm mỹ của
công chúng. Nói chung, “Phê bình là hoạt động xã hội, là sản phẩm
truyền thông, là công cụ marketing cần/và tất có hiệu quả văn hóa, xã
hội, kinh tế”… v.v…
Có thể nói ngay, cách nhìn về công việc và người phê bình mỹ thuật
như vậy là quá lơ mơ và bất cập thực tế.
Vấn đề cần phải được nhìn khác. Dưới đây, tôi xin đưa ra một ít ghi
chú:
Thứ nhất, phê bình theo kiểu chuyên gia “ẩm thực nghệ thuật”, chủ
yếu dựa vào “khẩu vị”, vào cảm nhận, và mang tính “tâm giao” như
vậy, chỉ là một trong những kiểu phê bình khác nhau. Và, là một trong
những kiểu phê bình cũ và bấp bênh nhất. Cũ, bởi nó gắn liền với lối
phê bình ấn tượng chủ yếu thịnh hành trong nửa sau thế kỷ 19. Bấp
bênh, bởi khi chỉ dựa vào “khẩu vị” vào cảm nhận và diễn dịch từ các
thức tỉnh giác quan, kiểu tiếp cận phê bình này, tự nhiên, đã tách rời
tác phẩm. Nó dễ dẫn đến những suy diễn viển vông, những phán đoán


hàm hồ, và do đó, thường, chỉ có tác dụng gieo rắc ảo tưởng. Thêm
nữa, bấp bênh, vì nó chỉ “khả thủ” trước những tác phẩm có cách nhìn,
cách thể hiện nghệ thuật quen thuộc - còn nằm trong truyền thống nghệ
thuật ước lệ hay biểu hiện. Trước những hình thức nghệ thuật quá mới
lạ, nó “tê liệt”.
Bao nhiêu năm qua, bởi chính kiểu phê bình này vẫn là “chủ đạo”, mà
tuy có lắm phê bình, công chúng, đa số, vẫn cứ lơ ngơ không hiểu gì về
mỹ thuật, còn các họa sĩ, sau thoáng phấn chấn ở giai đoạn đầu “đổi
mới” lại tiếp tục loay hoay không biết “mình là ai”, hấp thụ năng lượng
ở đâu để sáng tạo…
Trong bối cảnh chịu sự chi phối, ảnh hưởng tràn lan của rất nhiều
khuynh hướng nghệ thuật khác nhau - khó phân biệt “lạc hậu” với “tân
tiến”, “tinh túy” với “rác rưởi” - tràn vào từ mọi nơi, cả nền văn hóa mỹ
thuật Việt Nam, thực tế, đang rất cần sự tỉnh táo lý trí với cách tiếp cận
phê bình biết tận dụng các thành tựu lý thuyết của nhân loại. Nói
chung, là cần thứ phê bình có học hơn chứ không chỉ dựa vào “thiên
phú” với cảm nhận. Thậm chí, là cần thứ phê bình lạnh lùng mổ xẻ,
hướng đến một viễn cảnh rộng lớn, xa xôi hơn chứ không chỉ là chuyện
“à ơi ví dầu…” Cuối cùng, cần một lối phê bình có trách nhiệm: nhà
phê bình không phải chỉ phát ngôn cái điều mình thích hay không thích
mà còn có bổn phận phân tích những điều thích và không thích ấy trước
bạn đọc để thuyết phục và tranh cãi với bạn đọc về một quan điểm
thẩm mỹ mà mình tin tưởng và muốn cổ vũ.
Thứ hai, phê bình đâu phải chỉ lẽo đẽo theo sau sáng tác, và đâu phải
chỉ lấy tác phẩm với công việc sáng tác của người nghệ sĩ làm đối
tượng. Đối diện với phê bình còn có công chúng với các vấn đề tiếp
nhận nghệ thuật - một đối tượng quan trọng làm nên môi trường tồn
tại, quyết định nguồn năng lượng nuôi dưỡng của cả nền nghệ thuật.
Đằng sau mỗi mắt nhìn công chúng đâu phải là một khoảng trống
không. Nếu không chứa tư tưởng tân tiến, nó sẽ được phủ đầy bởi đủ

các loại thành kiến lạc hậu. Và tất cả những thứ đàng sau đó sẽ chi
phối, ảnh hưởng đến cách nhìn, cách cảm, cách ứng xử với nghệ thuật.
Công chúng xưa nay, thực ra, đâu có thụ động trước nghệ thuật. Họ chỉ
ứng xử theo kiểu của mình mà thôi.
Tôi có cô bạn họa sĩ. Mấy năm trước, mỗi lần gặp, câu đầu tiên cô hỏi
tôi bao giờ cũng là: “Anh bảo em phải làm sao bây giờ?”. Hỏi nhiều
lần, nhưng chỉ một câu chuyện: Vợ chồng cô sống với bố mẹ chồng.
Giai đoạn đầu, thấy cô cả ngày hí hoáy vẽ, mẹ chồng cô lôi con trai
mình ra hỏi “Vẽ có bán được không mà vẽ hoài vậy?”. Chồng cô giải
thích cho mẹ “Nhà mình có thiếu tiền đâu mà lo chuyện mua với bán.
Vợ con vẽ vì cô ấy có cảm xúc…”. Thế là sau đó, bà mẹ chồng lâu lâu
cứ đảo qua dòm ngó con dâu vẽ gì. Có hôm, trước một bức tranh cô
vừa mới hoàn thành, bà hỏi “vẽ gì mà trông buồn thế?!”. Cô chưa kịp
trả lời, mà cũng không biết trả lời thế nào, bà đã phán một câu xanh
rờn: “Làm dâu nhà này chắc khổ lắm hả?!”… Mấy ông/bà tuyên huấn ở
Việt Nam , từ trung ương đến địa phương, hình như cũng ứng xử với
họa sĩ theo cái kiểu mẹ chồng-nàng dâu như thế! Nền mỹ thuật Việt
Nam không phát triển nổi, cơ bản là do DÂN đã không được LÀM
MỚI. Và dĩ nhiên, do cả QUAN cũng không được LÀM MỚI…
Tiếp theo nữa, đối diện với phê bình, còn là bao nhiêu cách hiểu, cách
nghĩ về nghệ thuật. Những thứ đụng chạm đến các vấn đề về ý nghĩa,
về giá trị của nghệ thuật, không chỉ ảnh hưởng đến những người sáng
tác, phê bình, thưởng ngoạn, quản lý, giáo dục và đào tạo v.v… mà còn
thực sự ảnh hưởng đến toàn bộ diện mạo và tính cách của cả nền văn
hóa nghệ thuật. Và, hơn nữa… Khi không xem những vấn đề này là đối
tượng của phê bình, cả nền văn hóa nghệ thuật, chỉ tự đẩy mình vào
tình trạng ao tù nước đọng. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày
nay, nếu không tự giác, không tỉnh táo chọn lọc tinh hoa của thiên hạ,
thì chắn chắn, sẽ phải hứng lấy bao nhiêu rác rưởi đến từ khắp nơi…
Đối với Việt Nam , chuyện này chẳng còn là nguy cơ. Nó đã là thực tế.

Bao lâu nay, người trong giới mỹ thuật, đa số rất khó chịu trước nhận
định: mỹ thuật Việt Nam chỉ là “bộ phận thoái hóa” của mỹ thuật
phương Tây-cho rằng, đó là một nhận định thiếu thiện chí, có hơi hướm
“thực dân”! Nhưng, nên bình tỉnh một tí! Hình như nó không sai.
Hình như bởi vậy, mà ngay trong môi trường văn hóa xã hội Việt Nam
nó cũng đã trở thành một “bộ phận thừa dư”-có cũng được, không có
cũng chẳng sao!
V.v… và v.v…
Thứ ba, để làm phê bình bây giờ - một hệ luận rút ra từ hai ý trên và
cũng là hệ quả của xu hướng toàn cầu hoá trong đó các nền nghệ thuật
từ các nền văn hoá khác nhau tác động hỗ tương lên nhau- dứt khoát
phải gắn liền với việc học tập một cách đàng hoàng và nghiêm túc.
Không thể thuần tuý trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Đó là một ảo
tưởng. Thực tế không có SỰ CẢM nào mà không phụ thuộc vào SỰ
BIẾT, SỰ HIỂU… Phê bình là đánh giá; đánh giá là so sánh: bất cập
kiến thức về lịch sử nghệ thuật của thế giới, không thể biết cái nào là
mới và cái nào là cũ, do đó, không thể phê bình chính xác được. Hơn
nữa, bất cập về kiến thức lý thuyết, nhà phê bình dẫu được “cấp bằng
tiên tri” cũng sẽ mù trước những điều mới lạ. Bao nhiêu năm qua, bởi
bất cập lý thuyết, mà ở Việt Nam , không chỉ giới viết báo về mỹ thuật
mà cả giới phê bình lẫn giới sáng tác, phần lớn, đều “tù mù mọi sự”.
Cái kiểu phê bình cứ thấy xanh xanh đỏ đỏ… là chụp ngay cho cái mũ
“Ấn Tượng”, thấy hình thù dị dạng, mắt trợn, miệng há hốc… là chụp
ngay cho cái mũ “Biểu Hiện” v.v… là hết sức phổ biến. Làm như
những Ấn Tượng, Biểu Hiện kia chỉ là những công thức cách điệu
thuần túy hình thức! Thực tế, không ít họa sĩ cũng đã thực hành các
khuynh hướng nghệ thuật này theo cách nghĩ đơn giản như vậy. Họ
chạy theo cái mới nhất của thiên hạ nhưng cách nghĩ thì chỉ loay hoay ở
ngưỡng Tượng Trưng với… minh họa! Và, “nhai đi nhai lại”
Cuối cùng, không thể không nói đến, là thái độ trí thức của phê bình.

Thái độ trí thức, trước hết, thể hiện ở động cơ và cách thức phê bình.
Phê bình, không quảng cáo, không tiếp thị cho ai hết. Nếu phải dùng
đến hai chữ quảng cáo với tiếp thị, thì cùng lắm, là cho những cách
nhìn, những giá trị nghệ thuật… Phê bình, cũng không phải là chuyện
khoe khoang chữ nghĩa, khoe khoang kiến thức. Các lý thuyết mà phê
bình mang theo, là thứ ánh sáng giúp soi giải đối tượng - hỗ trợ phát
hiện với diễn dịch-chứ không phải là những khung lưới ca-rô cứng ngắt
áp vào đối tượng rồi dồn ép hay kéo giản đối tượng sao cho chồng
khít
Thái độ trí thức, tiếp theo nữa, thể hiện ở cung cách ứng xử trước phê
bình phê bình. Điểm tựa, hay quyền lực của phê bình, cơ bản, là ở lý
lẽ. Và, do đó, cách ứng xử trí thức trước phê bình phê bình, không gì
khác hơn là tranh luận dựa trên lý lẽ. Ở Việt Nam , thê thảm, nhiều
người đã chọn cách đi… “xì lốp xe”!
Phê bình, luôn là gây hấn. Nhưng, sẽ chẳng có gì đổi mới thực sự nếu
không có phê bình. Hơn bao giờ hết, phê bình cần phải được nhận thức
lại. Bắt đầu, từ bản thân các nhà phê bình. Phê bình mỹ thuật từ những
năm 1980 đến nay, thực chất, chỉ có ý nghĩa thay thế cho kiểu phê bình
mang tính “biệt phái” nhân danh cho cái-tôi-chúng-ta bằng kiểu phê
bình mang màu sắc ấn tượng chủ nghĩa nhân danh cái-tôi-cá-nhân mà
thôi. Và đóng góp của nó, thực chất, chỉ là “phát hiện” lại những tên
tuổi đã nổi tiếng từ lâu rồi, là quảng bá cho những giá trị thực ra ai
cũng đã biết …


×