Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu THƯ PHÁP CHỮ VIỆT TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.66 KB, 17 trang )

THƯ PHÁP CHỮ VIỆT TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Trong những năm gần đây, ở nhiều nơi trên khắp đất nước, “thư pháp
chữ Việt” “thư pháp Quốc ngữ” (chữ Latinh) đã bắt đầu khởi sắc và
trở thành phong trào phát triển khá mạnh mẽ. Hầu như chỗ nào ta
cũng bắt gặp thư pháp chữ Việt. Từ việc in trên sách báo, viết trên lịch,
đến vẽ trên áo, thêu trên vải, cũng như những cuộc triển lãm lớn, nhỏ ở
khắp mọi nơi được công chúng quan tâm.
Bên cạnh đó, cũng có không ít các câu lạc bộ, các lớp giảng dạy thư
pháp được hình thành. Song, xung quanh “thư pháp chữ Việt” vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau, có người không đồng tình, có người chấp nhận
ở mặt này, không tán thành ở mặt khác. Các phương tiện thông tin đại
chúng cũng đã có sự quan tâm và tham gia vào “mổ xẻ” bộ môn nghệ
thuật này. Có nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, có ý kiến gợi ý dẫn dắt,
cũng có ý kiến chê bai. Vì vậy, có thể thấy rằng sự xuất hiện của “thư
pháp chữ Việt” đã trở thành một hiện tượng văn hóa, và hơn nữa là cả
vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội, rất cần thiết để tìm tòi và suy
ngẫm.





Thư pháp Thế Mẫn - Đà Nẵng


1.Thư pháp theo các Từ điển tiếng Việt (Đoàn Văn Tập) và Từ điển
Hán – Việt (Đào Duy Anh) đều giải thích: là cách viết chữ. Còn từ
điển Anh – Việt (Nguyễn Văn Khôn) và Pháp – Việt (Đoàn Văn Tập)
thì thư pháp có nghĩa là nghệ thuật viết chữ đẹp, tài viết chữ đẹp, kiểu
viết chữ đẹp, viết nắùn nót. Theo chữ Hán: Thư ( ) là viết chữ; Pháp


( ) là cách thức, phương pháp. Hiểu ngắn gọn thư pháp là cách viết
chữ. Tương tự vậy, trong ngôn ngữ phương Tây ( chẳng hạn tiếng Anh
)_ thư pháp ( Calligraphy ) gồm hai từ Calli + graphy. Từ Calli do gốc
Hy Lạp là Kalli, phát sinh từ Kallos có nghĩa là vẻ đẹp ; còn từ Graphy
do gốc HyLap là Graphein nghĩa là viết chữ. Vậy thư pháp là cách viết
chữ_ hay nói khác đi là nghệ thuật thể hiện chữ viết. Xét như thế, thư
pháp rõ ràng là không phải là nghệ thuật của riêng dân tộc nào. Mọi
dân tộc có chữ viết đều có thể tạo ra thư pháp cho mình. Nghệ thuật thư
pháp vừa tạo nên giá trị thẩm mỹ, vừa có ý nghịa thực tiễn trong cuộc
sống của mọi người trên hành tinh của chúng ta.
Trong dòng chảy văn hóa truyền thống của các nước phương Đông –
thư pháp được xem như là một mạch ngầm, lặng lẽ tồn tại với thời gian
nhưng thư pháp lại có vị trí đáng kể và hàm chứa nhiều giá trị nhân
bản, đạo đức xã hội trong thế giới nghệ thuật. Nó thực sự đã vượt khỏi
chức năng thông tri của mình và đi thẳng vào thế giới tâm linh con
người. Chính vì thế cùng với hội họa, âm nhạc, thi ca….thư pháp được
nhìn nhận là nghệ thuật đặc thù “cao cấp” là biểu tượng thẩm mỹ của
các nền văn hóa dân tộc ở Phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Việt Nam….

2 Thư pháp Việt Nam

a.Thư pháp chữ Hán Việt Nam
Ơû nước ta thư pháp có tự bao giờ? Thắc mắc này đến nay vẫn chưa
được giới chuyên môn xác định một cách cụ thể. Tuy nhiên với một số
di sản thư pháp chữ Hán do người Việt ta thủ bút, từ nhiều đời truyền
lại được lưu giữ đến nay, có thể xem đây là một bằng chứng về nguồn
sống sinh động của thư pháp chữ Hán trên đất Việt.
Có thể nói rằng “khởi thuỷ của thư pháp Việt Nam là văn tự Hán mà
người có công truyền bá đầu tiên của nước ta là Vương Sĩ Nhiếp (thời

nhà Hán những năm đầu công nguyên). Điều đặc biệt là ngay từ khi
chữ Hán được tiếp nhận, cha ông ta đã sớm nhận thức được đặc trưng,
bản chất của hệ văn tự này và sớm coi trọng nghệ thuật thư pháp”.(1).
Truyền thống yêu quí kính trọng chữ là truyền thống ngàn đời vừa sâu
xa, vừa bền chắc. Câu nói dân gian “Văn hay chữ tốt” đã trở thành
thành ngữ dành để ca ngợi những tài năng văn học và thư pháp vốn
không nhiều lắm ở mỗi thời.
Theo ông Phan Văn Các, nguyên viện trưởng viện Hán Nôm : “Di sản
Hán môn của chúng ta chỉ có thể tồn tại sau khi chiến thắng được sự
xâm thực huỹ hoại khắc nghiệt của khí hậu nóng ẩm nhiệt đới và sự
tâm phá muôn phần khắc nghiệt của các cuộc binh đao máu lửa kéo dài
suốt hàng trăm năm. Cho nên hệ quả hiển nhiên là ngày nay, khi muốn
dựng lại lịch sử thư pháp nước nhà, chúng ta trước hết phải tìm đến
những trang chữ viết trên đá”. Nếu đúng như vậy, thì tác phẩm thư
pháp đầu tiên của Việt Nam hiện tìm thấy được là dòng chữ Đại Tuỳ
Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn đắp theo lối chữ “triện”
trên trán bia ở làng Trường Xuân (Thanh Hoá), hiện đang trưng bày ở
việân bảo tàng lịch sử. Và có vô số những lệnh chỉ, sắc phong, các đại
tự, hoành phi, câu đối, áng văn, cổ vật,… đã lưu trữ nhiều tác phẩm thư
pháp quý giá_ chứng tích của một thời văn hoá phát triển cao. Dù trải
qua bao biến cố thời gian, những bức thư pháp trên đá, vẫn hiện rõ tâm
tính, chí khí của người muôn năm cũ.

(1). Hoàng Anh Sướng, Thư pháp Việt Nam – những nổi niềm thao
thức, tạp chí Thế giới mới, (số 522)
Xuôi theo dòng thời gian thư pháp chữ Hán tại Việt Nam cũng êm đềm
lặng lẽ như chính sự lặng lẽ của tự thân bộ môn thư pháp. Mặc dù ở
Việt Nam không có những bậc thư pháp kỹ tài đặc sắc như Trương
Húc, Vương Hy Chi, (Trung Hoa), hay Bạch Aån, Thiết Chu, ( Nhật
Bản), nhưng chúng ta cũng có những như danh sĩ tao nhân mặc khánh

lừng danh thư pháp nào kém phương Bắc, như : đại tự của chuá Trịnh
Sâm, hay nhà thơ Cao Bá Quát (1808 – 1855), Phan Bội Châu (1967 -
1940),…. Họ thể hiện được những đường nét bút tài hoa, sống động có
hồn. Đó cũngù chính là bản thể đích thực, là tinh hoa, sức sống mạnh
mẽ của thư pháp.
Quá trình phát triển của môn thư pháp chữ Hán tại Việt Nam, có lịch
sử hình thành tương tự bộ môn thư pháp tại Trung Hoa: đều xuất phát
từ tinh thần văn nghệ trong sáng lấy cảm hứng làm căn bản, lấy chủ đề
tạo cảm hứng”. Tuy nhiên về biểu hiện mỹ cảm có những điểm tương
đối khác biệt so với nghệ thuật thư pháp ở Trung Hoa. Nhìn chung
nghệ thuật viết chữ Hán ở người Việt luôn ở trong chừng mực. Nét bút
tuy bay bổng tài hoa nhưng luôn mô phạm, sâu lắng nhưng không trầm
tích, mềm mại nhưng không yếu đuối, phóng nhưng không cuồng… Cõ
lẽ vì vậy mà trong lịch sử thư pháp Việt Nam ta không có những bức
cuồng thư như ở Trung Hoa, hay mặc tích như ở Nhật Bản – đây là sản
phẩm của văn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh, cái cảm thức thẩm mỹ
của người Việt luôn hướng đến sự hài hòa, biểu cảm. Trong khi so sánh
văn hoá Trung Hoa và văn hoá Việt Nam GS Phan Ngọc đã viết: “ Văn
hoá Việt Nam là một văn hoá khiêm tốn, mộc mạc, không có cái gì cực
đoan. Nhưng không phải vì thế mà văn hoá Việt Nam thiếu cá tính….
Trong học, trong thư pháp, họa, thơ văn, người Việt, không tìm cái
kinh người, cái phi thường mà tìm cái bình dị, tìm cái gần gũi”(1). Và
điều này là một sợi dây xuyên suốt trên con đường phát triển đầy sáng
tạo của nghệ thuật thư pháp Việt Nam.

b. Thư pháp Quốc ngữ – Hiện đại :
Đến khi chữ quốc ngư ra đờiõ với các mẫu tự Latinh được mở rộng
khắp từ Nam chí Bắc những tưởng truyền thống thư pháp dân tộc phải
dừng lại. Nhưng không, thư pháp tiếng Việt cứ le lói, âm ỉ như một
ngọn lửa nhỏ, bổng bùng lên mạnh mẽ từ đầu thiên niên kỷ này.

Từ thế kỷ 17, với mục đích du nhập Thiên chúa giáo vào Việt Nam, các
giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha được sự giúp đỡ của các giáo
sĩ ngừơi Việt đã Latinh hóa chữ viết để truyền giáo, đồng thời tách
người Việt ra khỏi khuôn viên của chữ vuông và văn hóa khổng giáo.
(1) Phan Ngọc, 1998: Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông
Tin, trang 127-128
Chính từ công cụ chữ viết quan trọng này, việc tiếp xúc văn hóa Đông
Tây, nửa đầu thế kỷ 20 diễn ra sôi động. Đặc biệt sau khi giành độc lập,
Hồ Chủ Tịch lần đầu tiên đã chính thức coi chữ quốc Ngữ là ngôn ngữ
chính thống của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, đánh dấu thời kỳ
phát triển mạnh mẽ của chữ Quốc Ngữ. Tiếng Việt nhờ đó đã biến đổi
và phát triển vượt bậc, vượt xa các nước trong khu vực. Nhất là sự biển
đổi về cú pháp vốn là lĩnh vực không thể vay mượn để trở thành tiếng
Việt hiện đại như ngày nay.
Trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay, tiếng Việt được đánh giá như một
trong những nhân tố quan trọng, đóng vai trò tích cực vào quá trình hội
nhập của Việt Nam và thế giới.
Như vậy, chữ Việt đã thực sự đi vào cuộc sống của chúng ta chỉ được
vài thế kỷ. Quả thật, đây là một thời gian quá ngắn gũi so với chữ viết
của người Trung Hoa và các dân tộc phương Đông khác. Nhìn từ góc
độ bề dày lịch sử của chữ viết các dân tộc rồi bàn đến bộ môn nghệ
thuật thư pháp của dân tộc, mới thấy đời sống văn hóa của dân tộc Việt
vô cùng phong phú, sự phát triển với tốc độ rất nhanh. Chính điều này
khiến chúng ta càng phấn khởi, tự hào hơn về sự có mặt kịp thời của
phong trào thư pháp chữ Việt trong suốt thập niên qua.
Ngay từ thời vua Khải Định đã có những quan văn, thầy đề, linh mục
rồi thông ngôn, ký lục… dùng ngòi bút tre, bút sắt viết chữ quốc Ngữ
rất đẹp. Tuy nhiên đó chưa phải là thư pháp mà chỉ là thư bút. Đến đầu
những năm 1930, khi phong trào thơ mới nổ rộ trên văn đàn, nhiều nhà
thơ đã dùng chữ quốc ngữ để phóng bút đề thơ, ghi thơ vóc những nét

chữ, kiểu chữ rất đẹp, rất riêng nhằm thể hiện các hồn của bài thơ mình
yêu thích. Ngay cả những bậc túc nho, học sĩ hay những người biết viết
chữ Hán lúc ấy cũng chuyển sang viết chữ quốc ngữ. Trong số đó, có
người dùng cả bút lông (vốn dùng để viết Hán tự) để viết những đường
nét “phượng múa rồng bay” và thư pháp chữ Việt Latinh manh nha từ
đó.
Nghệ thuật chữ viết Việt Nam, từ sau chữ Quốc Ngữ được phổ cập, đi
theo hai hướng:
Hướng thứ nhất, xuất phát từ sự hoài niệm về một thời ngự trị của chữ
Hán, chữ Nôm. Những nghệ nhân đã biểu đạt hình thức chữ Việt (với
các mẫu tự Latinh) theo các khối hình tròn hoặc vuông của chữ Hán.
Nói cách khác là các mẫu tự trong một chữ được phối cảnh trong một ô
vuông hoặc ô tròn cũng chạy dọc từ trên xuống, trông xa như một câu
đối, liễn viết bằng chữ. Trong xu hướng này, cũng phải kể đến kiểu chữ
viết “ngược” của một số nghệ nhân, thoáng nhìn trông như chữ Hán,
những tác phẩm này chỉ đọc được dễ dàng khi nhìn phía sau trang giấy.
( kiểu chữ này đã công bố trong sách Quốc ngữ kỳ quan của tác giả
Kiều Văn Tiến xuất bản năm 1974 ).
Hướng thứ hai, trình bày chữ Quốc Ngữ theo dạng chữ viết vốn có
nguồn gốc từ Phương Tây dùng cho hệ thống mẫu tự Latinh. Trong xu
hướng này có sự sáng tạo mang tính đột phá đó là kết hợp cái thần của
ngọn bút lông với nét chữ quốc ngữ để tạo ra nghệ thuật thư pháp hiện
đại và đại chúng mà chúng ta thấy ngày nay. Đến nay theo các tài liệu
thì thư pháp quốc ngữ ghi nhận người đầu tiên khởi động ngọn bút lông
bằng nét chữ Latinh là nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác và Vũ Hoàng
Chương. Bức thư pháp đầu tiên bằng tiếng Việt hiện còn lưu giữ tại
tịnh thất hòa thượng trí chủ ở chùa Gia Lâm, Sài Gòn. Có lẽ trên thế
giới, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong hệ thống các nước dùng mẫu
tự Latinh đã biết kết hợp với ngọn bút lông “thần kỳ” đưa nó vào nghệ
thuật thư pháp đểõ nâng cao tầm quan trọng và làm thăng hoa vẻ đẹp

của mặt chữ này.




Tác phẩm chữ Tâm - Thư pháp Hoa Nghiêm - Khắc gỗ Trần Quốc Âu


3. Một số đặc điểm trong nghệ thuật thư pháp chữ Việt :
a.Tính biểu cảm của nghệ thuật thư pháp chữ Việt
Tính biểu cảm là một đặc điểm tiêu biểu của các loại hình nghệ thuật
của văn hóa Việt Nam nói riêng là và văn hóa nông nghiệp nói chung.
Với nghệ thuật thư pháp chữ Việt thì tính biểu cảm thể hiện khá rõ nét,
cảm thức thẩm mỹ của người viết cũng như thị hiếu của người thưởng
lãm thường hướng đến sự đơn giản hài hòa bình dị, mang chất thơ, chất
lãng mạn. Nó luôn phản nghịch hoàn toàn lại sự trao chuốt chiết lọc,
hay sự ồn ào của màu sắc. Hơn nữa, những nội dung đựơc viết thường
là ca dao, tục ngữ, những lời dạy của danh nhân, những bài thơ giàu
chất trữ tình… tất cả được tạo nên bức thư họa khi nhẹ nhàng thanh
thoát, khi ảo điệu khói sương… khiến người thưởng lãm như lạc vào
thế giới nghệ thuật trầm ảo, lắng động. Thư pháp chữ Việt cũng không
có những bức cuồng thư, mạch hảo như thư pháp Trung Hoa – xuất
phát từ bản tính người Việt rất trọng tình cảm, hiếu hòa. Ví như trong
suốt lịch sử nghệ thuật hội hoạ của mình, hầu như người Việt không hề
sáng tạo những tác phẩm hội hoạ, điêu khắc về đề tài chiến tranh với
cảnh đầu rơi máu chảy rùng rợn như các nước có nền văn hoá khác mà
tranh tượng thường thể hiện tình cảm nồng thắm của con người thì rất
nhiều, mặc dù người Việt phải chịu nhiều cảnh chiến tranh liên miên,
ác liệt. Nhờ sự phong phú của tình cảm thẩm mỹ mà các sáng tác trong
nghệ thuật chữ viết giữ được bản sắc dân tộác độc đáo và hòa chung

vào các giá trị của nhân loại.

b. Tính linh hoạt trong nghệ thuật thư pháp chữ Việt
Ta dễ dàng nhận thấy tính linh hoạt trong nghệ thuật này của dân tộc
Việt. Một trong những nguyên tắc trong khi viết, là rất mức tôn trọng
tính phóng khoáng tự nhiên, hoàn toàn không câu nệ khuôn sáo, biểu lộ
cách viếtõ linh hoạt. Chính cái nét linh động đó làm cho tác phẩm thư
pháp luôn có cái “hồn” của chữ. Ví như là hình vẽ một cô đang lắc đầu
có ý nghĩa hơn là hình một cô để đầu ngay ngắn. Cho nên trong tác
phẩm thư pháp chữ Việt thường các chữ không đều nhau có lúc nhấn
mạnh chữ trọng tâm trong câu thơ, hoặc có thể chữ cần nhắn mạnh
được viết rất lớn bao trùm cả nội dung câu cần viết. Đặc biệt ở thư
pháp chữ Việt tính linh hoạt rất cao độ đến mức các nghệ nhân đã thể
hiện các con chữ Latinh tạo thành một bức tranh, bức chân dung tuyệt
tác. Ví dụ hay nhất cho loại chữ này là họa sĩ Lê Vũ - ông đã “vẽ” chân
dung các danh nhân bằng chữ Latinh – đây là sự sáng tạo rất đáng trân
trọng. Đối với chữ Hán vốn là chữ tượng hình nên bản thân mỗi văn tự
với những chấm, phẩy, sổ, ngang, khung, mác… hợp thành đã trở thành
bức tranh sinh động, hay hình tượng cụ thể nào đó là điều đương
nhiên Nhưng đối với chữ Latinh không có sự mô phỏng như chữ Hán
mà các nghệ nhân chúng ta vẫn có thể làm thư pháp hóa thành những
hình tượng tuyệt vời quả thật là điều kỳ diệu của thư pháp Việt Nam
hiện đại. Mặc khác, tính linh hoạt còn thể hiện ở chất liệu làm nên bức
tranh cũng như màu sắc thể hiện chữ viết.





Thư pháp Nguyễn Hiếu Tín



c. Tính tổng hợp trong nghệ thuật thư pháp chữ Việt
Trong nền văn hóa Việt Nam, thì tính dung hợp, giao hòa thể hiện ở
nhiều lĩnh vực, như “ trên lĩnh vực vật chất, ta thấy sự kết hợp tuyệt vời
giữa truyền thống dân tộc kín đáo dịu dàng và chất Phương Tây táo bạo
trong tà áo dài tân thời, hay là sự kết hợp khá hài hòa giữa kiến trúc cổ
truyền với kiến trúc hiện đại phương Tây trong nhiều tòa nhà được xây
dựng vào thời Pháp, Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, loại hình cải
lương xuất hiện ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ là sự kết hợp hài hòa giữa
phong cách biểu trưng truyền thống của nghệ thuật thanh sắc Việt Nam
với phong cách tả thực của truyền thống nghệ thuật thanh sắc Phương
Tây,…” (1) Sự ra đời của nghệ thuật thư pháp chữ Việt một lần nữa
minh chứng cho tính dung hợp mạnh mẽ của văn hóa Việt – đó là sự
kết hợp các thần của chữ Hán vào nét chữ quốc ngữ. Với ngọn bút lông
“kỳ diệu” (sản phẩm của văn hóa phương Đông) được vận dụng một
cách thuần phục, tế nhị vào mẫu tự Latinh (sản phẩm của văn hóa
phương Tây) . Nghệ thuật thư pháp chữ Việt chính là sự giao hòa văn
hóa Đông – Tây.
(1). Trần Ngọc Thêm, , 2001, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, , Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, trang 559-
Nếu văn hoá được xem là một tổng thể các hệ thống tín hiệu do con
người sáng tạo nên, thì ngôn ngữ, chữ viết là một hệ tín hiệu tiêu biểu,
hoàn chỉnh nhất và cần thiết nhất để hình thành xã hội loài người. Chữ
viết gắn liền với lịch sử dân tộc và nó ghi lại những chặng đường phát
triển và sáng tạo của dân tộc cùng với nền văn hoá của họ. Chính nghệ
thuật chữ viết ở mỗi chặng đường lịch sử đã tôn vinh nét chữ đáng yêu
của dân tộc. Lịch sử chữ viết Việt Nam đã trải qua một hành trình rất
dài, rất phức tạp với nhiều biến đổi: từ những chữ tượng hình (chữ viết
cổ (?) ) cách đây hàng nghìn năm, rồi việc sử dụng chữ Hán hơn nghìn

năm, đến việc sáng tạo ra chữ Nôm và cuối cùng là chữ quốc ngữ. Đó
là kết quả lao động sáng tạo văn hoá của dân tộc ta. Sự ra đời và ưu thế
của chữ Quốc ngữ đã được phổ biến nhanh chóng và nghệ thuật chữ
viết ở nước ta lại có sự chuyển đổi lớn lao. Cấu trúc về mặt hình thức
của chữ Quốc ngữ dựa trên hệ thống mẫu tự latinh tuy khác biệt hoàn
toàn với chữ Hán và chữ Nôm nhưng thực chất nó là sự tiếp nối của
nghệ thuật chữ viết truyền thống. Trong lý luận mỹ học của văn hóa
nghệ thuật truyền thống, các giá trị thẩm mỹ thường bàn về con người,
về đạo làm người. Đạo đức được xem như cái đẹp của con người. Thật
vậy, ở nghệ thuật thư pháp của dân tộc đã phản ánh rỏ nét quan niệm
này. Quan điểm văn dĩ tải đạo luôn là sợi dây xuyên suốt trong quá
trìng sáng tạo nghệ thuật thư pháp. Nội dung sáng tác thường xoay
quanh tư tưởng đạo đức. Sự nhấn mạnh yếu tố đạo đức trong đánh giá
thẩm mỹ là nét văn hoá nghệ thuật truyền thống của dân tộc ta.
Sự xuất hiện của thư pháp chữ Việt hiện đại là bước chuyển đột phá
mới mang tính sáng tạo trong nghệ thuật dân tộc. Nhìn lại có thể nói,
trong không gian văn hoá, ít có bộ môn nghệ thuật nào mới ra đời lại
được mọi người quan tâm đến như thư pháp chữ Việt. Sở dĩ đặc biệt
như vậy vì nó đã kế thừa và nối mạch được truyền thống tốt đẹp tôn
trọng chữ, kính chữ của dân tộc. Trong tiến trình lịch sử của một dân
tộc, nghệ thuật luôn có sự vận động. Và chính nghệ thuật thư pháp chữ
Việt với tư cách là một phương thức biểu thị và lưu truyền của truyền
thống đã minh chứng điều đó. Thư pháp chữ Việt đã phản ánh đậm nét
những đặc trưng tiêu biểu của người Việt như tính linh hoạt, trữ tình,
giàu cảm xúc Trong quá trình tồn tại, thư pháp chữ Việt đan xen,
dung hợp với các hình thái nghệ thuật khác, lắng động, thẩm thấu vào
cuộc sống. Hy vọng thời gian sẽ sàn lọc và bồi đắp cho thư pháp Việt
Nam ngày càng định hình, tiếp tục phát triển để góp phần làm phong
phú thêm nền nghệ thuật độc đáo của văn hoá phương Đông.


×