Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Trao đổi với Nora A. Taylor về vấn đề “Vì sao Việt Nam chưa có hoạ sĩ lớn” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.44 KB, 7 trang )

Trao đổi với Nora A. Taylor về
vấn đề “Vì sao Việt Nam chưa có
hoạ sĩ lớn”
Trịnh Cung
Trước khi đề cập đến vấn đề như đã nêu trên, tôi, một hoạ sĩ già Sài
Gòn, muốn gửi đến Nora lời cám ơn về những đóng góp của chị trong
việc đã dành cả tuổi trẻ và còn tiếp tục mất nhiều thời gian, công sức,
nghiên cứu chuyên sâu về hội họa Việt Nam, điều mà kể từ ngày đất
nước tôi có những lớp hoạ sĩ đích thực đầu tiên được đào tạo từ Trường
Mỹ thuật Ðông Dương, ít có nhà chuyên môn trong lãnh vực nghiên
cứu lịch sử và phê bình mỹ thuật người nước ngoài quan tâm đến như
chị.

Một việc khác tôi cũng muốn đề cập trước khi bàn đến nội dung chính
của vấn đề chị đang nêu, đó là một nhận định hết sức khập khiễng, nếu
không muốn nói là có lòng thiên vị, vì một tình cảm riêng tư của chị
trước kia đối với hội họa Hà Nội (trong thời gian làm nghiên cứu sinh
tại Hà Nội cho luận án tiến sĩ về mỹ thuật Việt Nam) khi cho rằng: Việt
Nam từng có một thế hệ vàng về phê bình mỹ thuật. Nora đã lấy ở đâu
ra thông tin này, nếu có thể được xin cung cấp danh sách của các vị ấy.
Với tư cách là một họa sĩ có trên 45 tuổi nghề, có mối quan hệ chuyên
môn Bắc - Nam khá tốt, theo tôi, với hoàn cảnh thiếu cái nhìn đa
nguyên về sáng tạo của giới sử và phê bình mỹ thuật Việt Nam (hoặc bị
cấm hoặc vì ít học) từ nửa thế kỷ nay, Việt Nam làm gì có thế hệ vàng
phê bình mỹ thuật. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận một Thái
Bá Vân (đã mất) uyên bác và sâu sắc trong các bài viết về mỹ thuật của
ông, nhưng cũng còn nhiều hạn chế vì không được ủng hộ từ phía
những nhà bảo thủ ngay tại Hà Nội, thế nhưng chỉ có một Thái Bá Vân
thì không thể gọi là có một thế hệ vàng phê bình mỹ thuật. Không biết
khi Nora viết như vậy, có phải chị muốn nhắc đến những Dương
Tường, Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Lương Xuân Ðoàn, Bùi


Như Hương, thế hệ vàng phê bình mỹ thuật thời những năm 90 của
thế kỷ trước? Thật ra, nếu Nora nghĩ như thế thì cũng là phải đối với
chị, một nữ sinh viên Mỹ khi đó còn chưa hề biết gì về hội hoạ Việt
Nam, tìm đến Hà Nội như địa chỉ tiêu biểu nhất của những giá trị hội
hoạ Việt Nam. Tai hại thay, sự chọn lựa này hoàn toàn khập khiễng và
ngây thơ. Sự thiếu hiểu biết cơ bản này không chỉ riêng có Nora vấp
phải mà hầu như người ngoại quốc trẻ nào có cùng mục đích nghiên
cứu hội hoạ Việt Nam cũng đều mắc phải, ngay đến cả bà Corinne de
Ménonville, chuyên gia về mỹ thuật Phương Đông có tên tuổi, từng
làm việc cho nhà bán đấu giá Drouot ở Pháp và nhà Sotheby’s –
Singapore, cũng mắc phải khi chỉ coi Hà Nội và các họa sĩ ở thủ đô
Việt Nam mới tiêu biểu cho hội hoạ Việt Nam. Cuộc triển lãm tranh
Việt Nam được nhà nước Pháp tài trợ và tổ chức qui mô lớn tại Toà Thị
chính Paris năm 1998 do Corinne de Ménonville thiết kế và giới thiệu
đã bị dư luận phê phán về sự bỏ qua một bộ mặt hội họa phát triển và
cấp tiến nhất của Việt Nam, hội hoạ Sài Gòn. Sau này nhà nghiên cứu
về lịch sử hội họa Việt Nam người Pháp này đã sửa chữa điều đáng tiếc
ấy trong cuốn sách Vietnamese Painting From Tradition to Modernity
được biên soạn khá công phu và qui mô dù vẫn còn một số chọn lựa
không xác đáng. Bây giờ thì Nora đã nhận ra điều mà chị vừa xác nhận
trong chủ đề: Vì sao Việt Nam chưa có họa sĩ lớn? Và đã mạnh mẽ
khẳng định: “Tôi cũng bắt đầu nhận chân ra Lịch sử mỹ thuật Việt Nam
lấy Hà Nội làm trung tâm như thế nào – có nghĩa các nhà nghiên cứu
mỹ thuật mà tôi đã được gặp đều coi Hà Nội là trung tâm văn hoá của
Việt Nam. Sự phân cách địa lý Bắc Nam được phản ảnh trong thế giới
nghệ thuật và để công bằng với các họa sĩ Miền Nam mà đời sống và
tác phẩm cũng gắn liền với khái niệm về “tính Việt Nam”. Tôi quyết
định tập trung công trình nghiên cứu của mình vào Hà Nội mà không
duy trì ý niệm cho rằng mỹ thuật Việt Nam có nghĩa là mỹ thuật Hà
Nội”.


Như thế đấy, với những bài viết gần đây, Nora A. Taylor đã lần lượt đặt
lại nhiều vấn đề thực sự quan trọng cho hội họa Việt Nam như: “Nghệ
sĩ Việt Nam không được biết đến như là những người dũng cảm” hoặc
“Vì sao Việt nam chưa có hoạ sĩ lớn”, Ở một cách nhìn khác, có thể
hiểu được chính Nora đang tự điều chỉnh lại hệ thống suy nghĩ về lịch
sử mỹ thuật Việt Nam của mình bằng cách nêu lên những câu hỏi đầy
tính như phê phán nhưng thật ra là để tự giải đáp như một phản tỉnh.

Những họa sĩ Việt Nam chúng tôi, trừ những người dốt đặc dù có bán
tranh với giá vài chục ngàn USD, cũng thừa hiểu vì sao tình hình hội
họa Việt Nam không thể có hoạ sĩ lớn theo khái niệm của người
phương Tây. Nếu Nora biết làm một cuộc nghiên cứu xã hội học về tổ
chức cơ cấu văn hoá chính trị Việt Nam thì chị đã không mất thời gian
suy ngẫm và quá bức xúc như thế. Trong một bài viết mới đây trên
talawas, ngày 8/9/05, họa sĩ Nguyễn Ðình Ðăng đã tự bạch về đời sống
của ông và gia đình mình ở Việt Nam, nơi họ không thể tự chọn lựa
cách sống như ý muốn và cái tâm thế luôn bị bất ổn vì ảnh hưởng của
một hệ thống xã hội có quá nhiều thứ tự do nhưng lại không có thứ tự
do mà họ cần, để trả lời cho câu hỏi ấy của Nora. Ðúng như vậy, chúng
tôi đang sống trong một xã hội mà những logic của xã hội các bạn
thường trở nên phi logic ở đây. Việc suy nghĩ theo hệ thống phương
Tây như cách của Nora tưởng chừng rất hợp lý nhưng thật ra ở đây nó
trở nên ngây ngô, vô bổ. Nếu không phải thế thì lý do gì Nguyên Hưng
trong một bài viết đã đăng trên talawas và Tiền Vệ, nói một cách đau
đớn rằng: “Phê bình mỹ thuật ở Việt Nam là chuyện thừa”? Ngay cả cái
tiểu luận “Vì sao chưa có nữ họa sĩ lớn?” của Linda Nochin mà Nora
dùng nó như một cảm hứng để đặt ra vấn đề “Vì sao Việt Nam chưa có
hoạ sĩ lớn” cũng chỉ mang tính đấu tranh làm dáng về vấn đề “phái
yếu” trong hội họa luôn bị những người “đàn ông” đồng nghiệp của họ

giành quyền kiểm soát cuộc chơi. Như Nora đã phân tích trong tiểu
luận ấy của chị, quyền lực thừa nhận ai là họa sĩ lớn và nền hội họa nào
là đáng kể trên thế giới không và chưa bao giờ thuộc về những quốc gia
nhược tiểu như Việt Nam và phần lớn các nước trong khối Á - Phi.
Trong phần tự bạch của mình trong cuốn Vietnamese Contemporary
Painting, Lã Vọng gallery xuất bản năm 1999 tại Hồng Kông, tôi cũng
đã nói rõ: “Số phận người nghệ sĩ Á-Phi luôn bị gắn chặt với tầm vóc
của quốc gia mà nó thuộc vào. Người phương Tây luôn luôn giành
quyền phán quyết ai là họa sĩ lớn, tất nhiên rất hiếm chỗ dành cho
người không phải là đồng chủng với họ, mặc dù có những giai đoạn họ
phải tìm đến các nền văn hoá kỳ bí ở những quốc gia rất xa và rất khác
họ để rút tỉa tinh hoa của nó ”. Có một thực tế mà chúng ta không thể
không thừa nhận đối với hệ thống mỹ thuật phương Tây, họ quá mạnh
và tiền phong trong suốt thế kỷ trước, sự ăn trùm tuyệt đối này của họ
theo tôi là vĩnh viễn. Ngay cả nước Trung Hoa, người láng giềng vĩ đại
của Việt Nam, cũng không tránh khỏi việc phải chịu một vị trí ngoài rìa
mặc dù đã từng có một nền văn hoá bậc nhất hoàn cầu, đặc biệt hơn
nữa là đã từng có một nền hội họa truyền thống Trung Hoa độc đáo,
từng trợ lực cho sự phong phú của trường phái Trừu tượng của hội họa
phương Tây (điển hình là Hartung đã từng đến Trung Hoa để học
Thiền). Một nước hùng mạnh và giàu có khác của châu Á là Nhật Bản
cũng chịu chung số phận mặc dù họ đã có một nền hội họa cổ truyền
lừng danh từng cung cấp những bài học cho nhiều danh họa phương
Tây tầm cỡ thế giới. Cả một châu Á vĩ đại về văn hoá như thế mà chỉ
một Zao Wou Ki được chọn đứng trong đội hình những “hoạ sĩ lớn” thế
giới, còn châu Phi đầy kỳ vĩ và huyền ảo bậc nhất thiên hạ thì sao, khi
những chiếc mặt nạ và các Totem của họ từng được phát hiện trong các
tác phẩm lập thể của Picasso? Thế mà đã có mấy tài năng hội họa
người da đen được lịch sử mỹ thuật thế giới công nhận? Và ngay cả
những ai được đề cập đến thì cũng đã phải trở thành công dân của các

nước Âu - Mỹ trước khi nổi tiếng rồi, huống chi một nước nhỏ như
Việt Nam. Ðã thế, đất nước chúng tôi lại còn tụt hậu về kinh tế, tự do
tư tưởng của trí thức, văn nghệ sĩ vẫn còn tiếp tục bị đóng băng.
Chuyện vô sinh “hoạ sĩ lớn” ở Việt nam là lẽ đương nhiên Nora ạ!

Nói như thế để biết mình đang ở đâu và sẽ phải làm gì, tránh những ảo
tưởng dễ rơi vào mặc cảm hoặc tự lừa dối nhau bằng việc khoác lên
nhau những giá trị ảo. Cuộc sống chúng ta không chỉ có cạnh tranh
trong kinh tế, chính trị mà còn có cả đua chen giành giật danh vọng.
Với người nghệ sĩ, chỉ có tác phẩm của họ mới cứu chuộc được họ.
Còn tất cả những cái còn lại chỉ là trò chơi của những thế lực và các
liên minh có liên quan. Việt Nam đã có những hoạ sĩ lớn đúng theo
nghĩa đen của từ này, những Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan
Chánh, Tô Ngọc Vân, Mai Trung Thứ, Nguyễn Sáng, mà không cần
đến sự thừa nhận của cái gọi là “quyền lực mỹ thuật phương Tây” đang
ngự trị thế giới. Hơn nữa, lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại còn quá
non trẻ và gặp rất nhiều trở ngại mang tính số phận, nên để có một chút
“danh gì với ” hãy còn là chuyện xa vời.

Ðể hiểu hội hoạ Việt Nam hơn, theo tôi, các bạn người nước ngoài nên
nhìn vào những gì căn bản nhất về sự tồn tại của nó để có những nhận
định xác đáng hơn. Và nếu bạn muốn trở thành một chuyên gia đích
thực về hội họa Việt Nam, bạn nên rút kinh nghiệm từ những gì mà chị
Nora đã nêu trong những bài viết gần đây, trong đó có bài học: Họa sĩ
Hà Nội và hội hoạ Hà Nội không phải là tất cả. Vâng, đúng như vậy,
cái gì của “César phải trả lại cho César”. Chúng tôi – những hoạ sĩ Việt
Nam đã quen với bóng tối, quen với sự nhỏ bé của mình, chúng tôi như
những người dân tộc sống trên những sườn núi cao của dãy Himalaya
đã từ lâu bị bỏ quên, nhưng những người leo núi bất cứ từ đâu đến cũng
cần họ dẫn đường và ở độ cao nào cũng có họ.


Sài Gòn 11/9/05

×