Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Về vai trò của các trung tâm văn hoá nước ngoài với nghệ thuật đương đại Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.07 KB, 8 trang )

Về vai trò của các trung tâm văn
hoá nước ngoài với nghệ thuật
đương đại Việt Nam

Nguyễn Đình Thành



Đọc bài "Mỹ thuật đương đại Việt Nam liên ứng với thế giới – Nhìn từ
Hà Nội" của tác giả Đào Mai Trang, đặc biệt là chương 2, về vai trò
của các trung tâm văn hoá nước ngoài, tôi thấy có một số điều cần đính
chính (bởi rất có thể sẽ có nhiều nhà viết lịch sử mỹ thuật Việt Nam sẽ
bê nguyên các thông tin trong bài viết này của Đào Mai Trang vào sách
của mình gây hiểu lầm lâu dài), nên mạn phép trao đổi (với tư cách cá
nhân) với tác giả Đào Mai Trang như sau:


1. Ngay trong đoạn mở đầu, viết về Trung tâm Văn hoá Pháp L’Espace,
Đào Mai Trang viết: "Ngay từ khi mới thành lập, bên cạnh việc truyền
bá ngôn ngữ như công việc chính yếu và cũng là nguồn thu chủ yếu
của Trung tâm, L’ Espace đã xác định văn hoá-nghệ thuật luôn là công
cụ hỗ trợ đắc lực để phát triển hình ảnh một nước Pháp văn minh, và
sẵn sàng hỗ trợ cho văn hoá Việt Nam." Thực ra, L’Espace là bộ phận
văn hoá thuộc Đại sứ quán Pháp, không phải là một hiệp hội hay tổ
chức mang tính chất kinh doanh. Toàn bộ kinh phí của trung tâm này
do Đại sứ quán Pháp – tức Bộ Ngoại giao Pháp chứ không phải là Bộ
Văn hoá Truyền thông của Pháp tài trợ. Mỗi học viên của L’Espace
đóng học phí là 500 nghìn đồng cho một khoá học 9 tuần thì trung tâm
phải bỏ ra 1 triệu đồng để bù lỗ chi phí. Qua đó ta thấy rằng việc giảng
dạy tiếng Pháp chưa bao giờ là nguồn thu chủ yếu của trung tâm cả.
Nước Pháp có cần phải mở cả một trung tâm văn hoá ở Hà Nội để mới


được hiểu là nước văn minh hay không? Trên thế giới hiện có hơn một
nghìn Alliance Française và 151 trung tâm văn hoá Pháp: trung tâm tại
Hà Nội là một trong 7 trung tâm có ngân sách cả triệu euro cho hợp tác
và văn hoá, vậy nước Pháp có cần chi nhiều tiền đến vậy chỉ để phát
triển hình ảnh một nước văn minh tại Việt Nam hay không?


2. Điều đáng trao đổi thứ hai là khi lựa chọn các tên tuổi nghệ sĩ đương
đại có tác động lớn đến mỹ thuật Việt Nam: Nguyên Cầm và François
Jarlov. Tác động của hoạ sĩ Nguyên Cầm đến đâu, xin để những người
nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam lên tiếng, nhưng François Jarlov
chưa bao giờ nhận mình là nghệ sĩ đương đại và tác động của anh đến
mỹ thuật đương đại Việt Nam chắc chắn là không nhiều. NXB Les
rivages lointains cũng chưa bao giờ là một "nxb sách nghệ thuật" cả.
Ngoài ra, từ việc một nghệ sĩ nổi tiếng đến triển lãm tại Việt Nam để
nói tác động của nghệ sĩ ấy đến nghệ thuật đương đại Việt Nam là việc
rất khó: ngay cả với trường hợp hai nghệ sĩ Đức mà Đào Minh Trang
kể tên cũng không có tác động gì nhiều, cũng giống như hai nghệ sĩ
hàng đầu của Pháp đã được giới thiệu tại L’Espace: Jean Michel
Alberola và Robert Cahen. Khi nói về vai trò của Trung tâm L’Espace
với nghệ thuật đương đại Việt Nam tôi nghĩ không nên bỏ qua việc, từ
khi thành lập năm 1991, chính trung tâm này đã giữ vai trò quan trọng
với sinh viên mỹ thuật trong những năm 90 (thời điểm hình thành mỹ
thuật đương đại Việt Nam). Nguyễn Minh Thành cũng đã nhắc đến vai
trò này trong một cuộc phỏng vấn với tác giả Natasha. Đây cũng là nơi
triển lãm của Trương Tân, Sơn Lâm, Lê Hồng Thái, Nguyễn Văn
Cường, Phương Vũ Mạnh trong thời kì đầu. Ngoài ra, trung tâm giữ
vai trò chủ đạo trong việc đào tạo cả một thế hệ nghệ sĩ múa đương đại
cho Việt Nam với hai biên đạo Phillipe Cohen và đặc biệt là Régine
Chopinot; trung tâm cũng là nơi giới thiệu các tác phẩm của văn học

đương đại Việt Nam tới công chúng từ rất sớm (Đỗ Minh Khuê, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Vi Thùy Linh); đào tạo các
đạo diễn trẻ, nhà báo của Việt Nam và rất nhiều lĩnh vực khác không
nằm ở bề nổi.


3. Về triển lãm sắp đặt trong khuôn viên Đại sứ quán Pháp năm 2002,
tác phẩm của Lê Hồng Thái không có nhạc điện tử kèm theo và chỉ có
một cô gái đứng cạnh chứ không phải 3 như Đào Mai Trang miêu tả, và
ý nghĩa của tác phẩm sắp đặt Cây của Nguyễn Ngọc Lâm chắc cũng hơi
khác với diễn giải của Đào Minh Trang trong bài. Các sắp đặt của
Nguyễn Duy Quang và Đinh Gia Lê không hoàn toàn do trung tâm tài
trợ mà hai họa sĩ này đã phải tự lực cánh sinh là chính.


4. Về triển lãm cuối cùng ở L’Espace, khi đọc giới thiệu của Đào Mai
Trang: "Trung tâm dành toàn bộ tường của toà nhà Trung tâm cho ba
nghệ sĩ: Sơn Lâm (sống tại Pháp, vẽ sơn mài), Phạm Ðức Dương (trình
diễn và sắp đặt với hoa tươi), Ðinh Thảo Phong (vẽ tranh màu nước)
thoả ý trình bày nghệ thuật của họ’’, chắc hẳn Phạm Ngọc Dương sẽ
không hiểu tại sao tên mình lại biến thành Phạm Ðức Dương và sự
nghiệp sáng tác nghệ thuật của mình được gói lại thành "trình diễn và
sắp đặt với hoa tươi"? Nếu hiểu những chú thích mà Đào Mai Trang
ghi bên cạnh tên họa sĩ là cái mà họ giới thiệu với công chúng trong
triển lãm "Ba bức tường" ấy thì Sơn Lâm không hề làm sơn mài. Chị vẽ
tranh lên tường trên những bức photo lớn và trưng bày một số tranh vẽ,
cả Dương và Phong đều vẽ sơn dầu trong triển lãm ấy.


5. Ví dụ về triển lãm của Nguyễn Ngọc Lâm trưng bày tại Đại sứ quán

Pháp trong dịp quốc khánh Pháp cũng có nhiều điều cần đính chính.
Trước hết, dự án triển lãm của Lâm nằm trong một chương trình tổng
thể mang tên Phố thứ 37 là một dự án biennale nghệ thuật đương đại tại
Hà Nội, dự định tổ chức vào những năm không có festival Huế. Dự
kiến chương trình sẽ giới thiệu với công chúng các tác phẩm về chủ đề
đô thị với sự tham gia của Đinh Gia Lê, Quách Đông Phương, Trần
Trung Thành, Lê Hồng Thái, Đào Anh Khánh, Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Văn Cường, Trương Tân, Vũ Dân Tân, Nguyễn Duy Quang,
Lưu Chí Hiếu, Bùi Công Khánh, Nguyễn Ngọc Lâm, Designer Ngô
Nhật Hoàng, nhà nhiếp ảnh Pháp Carlet Soulage và Marc Dettiffe
người Bỉ, hoạ sĩ Canađa Brian Ring, hoạ sĩ Thái Lan Montri Tomsobat;
triển lãm tranh Bùi Xuân Phái, trình diễn nghệ thuật đường phố, hát
xẩm, hát chầu văn, múa đương đại của Nguyễn Văn Hiền và Quách
Hoàng Điệp với hai nghệ sĩ múa Pháp, vẽ graffiti trên phố Tràng Tiền,
nhiều nhóm nhảy hip-hop lẫn lộn với khán giả trên đường phố, xen kẽ
với những hàng quà xưa, các trò chơi dân gian, những người vá sửa xe
đạp trên đường phố… Công việc chuẩn bị được tiến hành suốt một năm
và sáu tháng cuối Trung tâm L’Espace tuyển hẳn một người đặc trách
hồ sơ này (tổ chức, vận động tài trợ). Có lẽ Đào Mai Trang chưa bao
giờ theo dõi việc tổ chức một festival nghệ thuật lớn như thế nào và có
lẽ chị cũng chưa hiểu được việc xin phép phải trải qua những giai đoạn
thế nào nên chị mới viết "Tại sao L’Espace, ngay sau khi có ý tưởng
triển lãm ngoài vỉa hè phố Tràng Tiền của Nguyễn Ngọc Lâm, không
liên hệ hợp tác ngay với các cơ quan hữu trách phía Hà Nội để tìm
tiếng nói chung cho việc tổ chức triển lãm này? Họ luôn biết rằng các
triển lãm diễn ra bên trong không gian L’Espace có thể được độc lập
với sự can thiệp của các cơ quan hữu trách phía Việt Nam nhưng
triển lãm bên ngoài đường phố lại là chuyện hoàn toàn khác." Nếu có
dịp xin mời Đào Mai Trang thử làm việc với các cơ quan chức năng
của Việt Nam để xin triển lãm có yếu tố nước ngoài ở nơi công cộng,

để không có những lời trách cứ không đáng có như trên. Và nếu có dịp,
Đào Mai Trang có thể đến nhà nghệ sĩ Đào Anh Khánh để xem số
lượng giấy phép mà anh phải xin mỗi dịp trình diễn. Quay lại với dự án
của Nguyễn Ngọc Lâm, sau khi dự án Phố thứ 37 không thành, toàn bộ
các tác phẩm của Lâm đã bị xếp xó trong một cái kho mà anh thuê
trong nhiều tháng với sự hỗ trợ của L’Espace. Với người nghệ sĩ, điều
quan trọng là tác phẩm đến được với công chúng. Nguyễn Ngọc Lâm
có thể kể lại với Đào Mai Trang về việc L’Espace đã phải khó khăn thế
nào để có thể tổ chức triển lãm của anh tại Đại sứ quán Pháp, nơi duy
nhất tổ chức triển lãm mà không phải xin phép. Điều căn bản trong việc
tổ chức một hoạt động văn hoá là yếu tố an ninh, bảo hiểm cho người
xem và đặc biệt là phải tính đến những ràng buộc khác nhau của địa
hình triển lãm. Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Lâm được tổ chức trong
Đại sứ quán Pháp trong một bữa tiệc có hơn 2000 người tham dự, trong
đó có đại diện của chính phủ Việt Nam, ngoại giao đoàn và biết bao
quan khách. Việc sắp đặt triển lãm trong ngày hôm đó có nhiều ràng
buộc là điều không tránh khỏi. Họa sĩ là người có quyền quyết định
cuối cùng, nếu Nguyễn Ngọc Lâm không đồng ý anh có thể kiên quyết
không cho triển lãm với lý do Trung tâm L’Espace vi phạm hợp đồng
về điều kiện tổ chức, chắc chắn đã không có việc gì xảy ra và nếu anh
cảm thấy ngột ngạt đến vậy (theo lời dẫn của Đào Mai Trang), không
có lý do gì để hai tháng sau đó anh lại tiếp tục làm triển lãm đó.


6. Cách trình bày vấn đề của Đào Mai Trang làm người đọc có cảm
giác khi làm việc với các trung tâm nước ngoài, nghệ sĩ Việt Nam đều
bị o ép và bị nhìn với "con mắt thực dân". Điều này hoàn toàn sai, bởi
nếu Đào Mai Trang đặt câu hỏi với các nghệ sĩ Việt Nam rằng tại sao
họ đến với các trung tâm văn hoá nước ngoài, thì chị sẽ rõ hơn. Nghệ sĩ
Đào Anh Khánh có tâm sự trong một buổi nói chuyện rằng tại sao anh

đến với các trung tâm văn hoá nước ngoài, đó không phải vì họ cung
cấp tiền (các triển lãm, performance của Đào Anh Khánh hầu hết do
anh tự bỏ tiền) mà bởi vì ở đó người nghệ sĩ cảm thấy được tôn trọng
với đúng giá trị của mình, ở đấy họ tìm được tiếng nói đồng cảm. Hãy
hỏi các nghệ sĩ Việt Nam xem họ được lắng nghe như thế nào khi làm
việc với các trung tâm ấy. Dĩ nhiên, trong khung cảnh, hầu hết các định
chế chính thức đều thờ ơ, thậm chí chống đối, khán giả ít ỏi, không có
nơi triển lãm, không được hỗ trợ thì việc các trung tâm văn hoá nước
ngoài quan tâm đến các nghệ sĩ đương đại Việt Nam bất kể vì lý do gì
đều là đáng quý. Đó là một trong những cánh cửa quan trọng để cơ thể
mỹ thuật Việt Nam sống một cách thực sự, tức là có trao đổi với môi
trường bên ngoài. Vì vậy, ví dụ về triển lãm của Nguyễn Ngọc Lâm mà
Đào Mai Trang đưa ra không hề là "minh chứng điển hình cho những
bất lợi mà nghệ sĩ Việt Nam phải đối diện khi làm việc với người nước
ngoài", thậm chí nó còn dẫn đến những hiểu lầm tai hại.

Thực trạng nghệ thuật đương đại Việt Nam là một chủ đề quá lớn, cần
nhiều thời gian chuẩn bị. Những sai sót lầm lẫn là điều không tránh
khỏi, nhưng mong rằng các tác giả cẩn thận hơn nữa khi đưa ra những
nhận định, đánh giá mang tính bản chất để tránh việc nói và viết thiếu
chính xác.

Hà Nội tháng 10 năm 2007

© 2007 talawas

×